Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Xứ Con Người
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 7 - Ở Giữa Sa Mạc
B
ay dọc theo Địa Trung Hải, tôi đã gặp mây thấp. Tôi hạ xuống là là hai mươi mét. Mưa xối xả chảy lên cửa kính và biển như bốc khói. Tôi phải cố gắng cùng cực để nhìn thấy, và để khỏi va vào cột buồm một chiếc tàu nào.
André Prévot, anh thợ máy của tôi, đốt thuốc cho tôi.
“Cà phê…”
Anh ta tụt vào khoang sau của máy bay và trở lại với một cái phích nước. Tôi uống. Chốc chốc tôi lại vặn tách tách cái công tắc hơi để giữ mức hai mươi vạn vòng. Tôi liếc nhìn một lượt khắp các mặt đồng hồ: bọn đầy tớ này của tôi rất ngoan, mỗi cái kim đều ở vào chỗ của nó. Tôi phóng mắt nhìn mặt biển, dưới trời mưa, bốc hơi như một chậu to nước nóng. Nếu tôi lái thủy phi cơ, tôi sẽ tiếc rằng biển “rỗng” đến thế. Nhưng tôi đang lái máy bay đậu đất. Rỗng hay không rỗng tôi cũng không đậu xuống được, và cái đó làm cho tôi cảm thấy, không hiểu sao, một cảm giác an toàn vô lý. Biển là một bộ phận của một thế giới giờ đây không phải thế giới của tôi. Ở đây, ách tắc không liên can gì đến tôi, thậm chí không đe dọa tôi: tôi tuyệt đối không được trang bị để đậu trên biển.
Bay một tiếng rưỡi thì mưa ngớt. Mây vẫn rất thấp, nhưng ánh nắng đã xuyên qua như một nụ cười lớn. Tôi chiêm ngưỡng sự chuẩn bị chậm rãi đó của một ngày tốt trời. Tôi đoán thấy bên trên đầu mình một lớp bông trắng mỏng. Tôi lái chệch sang một bên để tránh một cái chấm: không còn cần thiết đương đầu với nó nữa. Và đây, vết xé rách đầu tiên…
Tôi có linh tính điều này mà không nhìn thấy, vì hiện ra trước mặt, trên biển, một vệt xanh màu cỏ rất dài, một thứ ốc đảo lam sáng và thăm thẳm, giống màu các cánh đồng lúa mạch ngày trước làm se lòng tôi ở miền Nam Maroc ấy, khi phải vượt ba nghìn ki lô mét cát mới tới được xứ Sénégal. Ở đây tôi cũng có cảm giác mình tới một địa phương có thể cư trú được, và tôi thoang thoáng một niềm vui nhẹ nhàng. Tôi quay lại phía Prévot:
“Thế là xong, tốt lắm!”
“Vâng, tốt lắm…”
Tunis. Trong khi máy bay lấy dầu, tôi ký các giấy tờ. Nhưng ở buồng giấy bước ra, tôi bỗng nghe một tiếng “bụp!” như một tiếng rơi xuống nước. Một thứ tiếng đục, không âm vang. Ngay lúc đó tôi nhớ có nghe một tiếng y hệt như vậy. Một vụ nổ trong một nhà để máy bay. Hai người chết vì cái thứ ho khàn đó. Tôi quay lại con đường dọc theo sân bay: có một ít bụi mù, hai chiếc xe chạy nhanh đã va vào nhau, bổng nhiên sít cứng như dính chặt vào tuyết. Nhiều người chạy về hướng hai chiếc xe đó, một số người khác chạy về phía chúng tôi…
“Gọi điện thoại, mau lên… Xin bác sĩ… Cái đầu…”
Tôi thấy tím thắt lại. Trong ánh sáng lặng lẽ buổi chiều tà, số phận vừa hoàn thành một thủ đoạn của nó. Một sắc đẹp vừa bị tàn phá, một trí lực, hay một cuộc đời… Những tên cướp đã kéo đi trong sa mạc như vậy đó, và không ai nghe tiếng chúng bước nhẹ nhàng trên cát. Trong khu lều trại, vụ cướp đó gây nên một xao động ngắn ngủi. Rồi tất cả lại rơi vào trong cảnh lặng lẽ vàng óng. Cũng cái yên tĩnh ấy, cũng cái lặng lẽ ấy… Cạnh tôi, có ai đó nói có ai bị vỡ sọ. Tôi không muốn biết gì thêm về cái vầng trán đầm đìa máu và bất động ấy, tôi quay lưng đi về phía chiếc máy bay của tôi. Nhưng tôi vẫn lưu giữ trong tim một cảm giác đe dọa. Và cái tiếng động kia, một lát sau, tôi lại nhận ra. Khi tôi kéo chiếc kim trên cái mặt đồng hồ đen lên đến hai trăm bảy mươi ki lô mét giờ, tôi lại nhận ra cũng tiếng ho khàn ấy: cũng cái tiếng “bụp” ấy của số phận ở chỗ hẹn, nó đón chờ ta.
Lên đường đi Benghazi…
o O o
Lên đường. Hai tiếng ban ngày nữa. Tới Tripolitana, tôi bỏ kính râm ra. Cát vàng óng. Thượng Đế ơi, sao mà cái hành tinh này nó vắng vẻ! Một lần nữa, sông ngòi, bóng râm, nhà cửa con người ở đây đối với tôi lại như sự gặp gỡ bất kỳ. Đá và cát sao mà nhiều quá!
Nhưng tất cả cái đó đối với tôi đều xa lạ, tôi sống trong lĩnh vực của chuyến bay. Tôi cảm giác đêm đã tới, người ta tự nhốt trong đêm như trong một ngôi đền. Người ta tự nhốt, với những bí quyết của những nghi lễ căn bản, trong một suy ngẫm không phương cứu vãn. Tất cả cái thế giới ngoại đạo này đã mờ nhòa rồi và sắp biến mất. Tất cả cảnh trí này giờ còn được một thứ ánh sáng màu vàng nhạt nuôi dưỡng, nhưng một cái gì đã bốc hơi rồi. Và tôi không biết gì hết, tôi không nói gì hết: không có gì bằng cái giờ khắc này. Và những con người ấy hiểu rõ tôi, những anh em đã hứng chịu cái tình yêu không lý giải được của việc bay.
Dần dần tôi chối bỏ mặt trời. Tôi chối bỏ những bình diện óng vàng rộng lớn từng chào đón tôi mỗi lần máy bay bị hỏng… Tôi từ bỏ những tiêu điểm hướng dẫn tôi. Tôi từ bỏ cái dáng núi in trên nền trời, chúng đáng lẽ giúp tôi tránh các ghềnh đá. Tôi đi vào trong đêm. Tôi bay. Với tôi, chỉ còn những vì tinh tú…
Cái chết này của thế giới xảy ra chậm rãi. Và chính là tuần tự mà ánh sáng nhòa đi. Tuần tự đất và trời hòa lẫn. Đất ấy dâng lên và dường như lan tỏa như một thứ hơi. Những ngôi sao đầu tiên run như trong một thứ nước xanh lam. Phải đợi rất lâu nữa chúng mới biến đổi thành kim cương rắn. Tôi phải đợi lâu mới thấy được cuộc đùa chơi lặng lẽ của những ngôi sao băng. Trong nhiều đêm khuya tôi thấy những ngọn lửa nhỏ chạy phiêu bạt đến nỗi tôi ngỡ có một ngọn gió lớn thổi dậy lên giữa đám sao.
Prévot thử lại các đèn cố định và đèn cấp cứu. Chúng tôi bọc các bóng đèn bằng giấy đỏ.
“Phải dày thêm tí nữa…”
Anh ta bồi thêm một lớp giấy nữa, mở công tắc. Máy còn sáng quá. Sáng thế, nó sẽ che khuất, như ở trong nghề chụp ảnh, cái hình ảnh nhợt nhạt của thế giới bên ngoài. Nó sẽ phá mất cái cùi mỏng manh đôi khi ban đêm còn gắn vào mọi vật. Đêm đã cấu tạo rồi. Nhưng vẫn chưa phải là cuộc sống thật. Còn sót một vầng trăng lưỡi liềm. Prévot đi khuất vào phía sau rồi trở lại với một chiếc bánh kẹp. Tôi nhấm một chùm nho. Tôi không đói. Tôi không đói cũng chẳng khát. Tôi không cảm thấy mệt mỏi gì cả, tôi có cảm giác như tôi vẫn bay như vậy trong mười năm.
Bây giờ vầng trăng đã tắt.
Benghazi ra hiệu trong đêm đen. Benghazi nằm yên dưới đáy một bóng tối sâu đậm đến nỗi nó không viền được chút hào quang nào. Chỉ khi hạ xuống gần nó tôi mới nhìn thấy thị trấn. Tôi đang tìm sân bay thì chợt ngọn đèn đỏ của nó thắp lên. Các ngọn đèn cắt tách ra một hình chữ nhật màu đen. Tôi nghiêng cánh. Ánh sáng một ngọn đèn pha quét lên trời chĩa thẳng đứng như luồng lửa của một đám cháy, xoay tròn và vạch lên sân bay một đường vàng. Tôi chao nữa để thấy cho rõ các chướng ngại. Trang bị ban đêm của trạm nghỉ này thật tuyệt. Tôi hãm bớt và bắt đầu lao xuống như phóng trong nước đen.
23 giờ giờ địa phương lúc tôi hạ cánh. Máy bay của tôi lăn đến chỗ ngọn đèn pha. Sĩ quan và lính lịch sự nhất đời từ bóng tối bước ra ngoài ánh sáng chói chang của ngọn đèn pha, lúc nhìn thấy họ, lúc không. Người ta thu giấy tờ của tôi, bắt đầu bơm xăng. Việc tôi bay qua giải quyết trong hai mươi phút.
“Lượn một vòng và bay trên đầu chúng tôi, nếu không làm thế, chúng tôi không thật rõ là anh có cất cánh an toàn không.”
Lên đường.
Tôi cho máy bay lăn bánh trên con đường vàng ấy, lao vào một lỗ hổng không có gì chướng ngại. Máy bay của tôi, loại hình “Simoun”, nhấc bổng thân lên khi hãy còn khoảng đất trống. Cái đèn pha theo dõi tôi và tôi thấy khó mà ngoặt được. Sau, nó buông tôi ra, chắc người ta e tôi quáng. Tôi quay ngoặt máy bay thẳng đứng, vừa lúc ánh sáng đèn pha lại quất vào mặt, nhưng vừa chạm tôi nó liền tránh đi, hướng ra nơi khác cái ống sáo vàng rất dài của nó. Tôi cảm thấy, dưới mọi nương nhẹ đó, những cử chỉ vô cùng lịch thiệp. Và giờ đây, tôi rẽ ngoặt tiếp về phía sa mạc.
Các đài khí tượng Paris, Tunis và Benghazi có báo cho tôi một ngọn gió hậu từ ba mươi đến bốn mươi ki lô mét giờ. Tôi thì tin vào tốc độ bay ba trăm ki lô mét giờ. Tôi nhắm thẳng chấm giữa đường nối Alexandria với Cairo trên bản đồ. Như vậy tôi sẽ tránh được các khu cấm ở ven biển, và mặc dù có thể có những trôi dạt không định trước, tôi sẽ bám theo hoặc bên phải hoặc bên trái, ánh đèn của một trong những thành phố đó hoặc, thường hơn, ánh đèn vùng thung lũng sông Nil. Tôi sẽ bay trong ba tiếng hai mươi phút nếu gió không thay đổi. Ba tiếng bốn mươi lăm phút nếu gió yếu đi. Và tôi bắt đầu nuốt một nghìn năm mươi ki lô mét sa mạc.
Không còn trăng. Một thứ nhựa đen phồng trào lên tận các vì sao. Tôi sẽ không nhìn thấy một đốm lửa, không được thừa hưởng một tiêu điểm nào, không có vô tuyến điện, tôi sẽ không nhận được một tín hiệu nào của con người trước khi đến được sông Nil. Tôi cũng không mưu toan nhìn cái gì khác ngoài cái com pa và cái đồng hồ đo độ cao của tôi. Tôi không còn chú ý tới cái gì khác, ngoài thời gian phập phồng chậm chạp, trên mặt số sậm của vật dụng này, một đường quang tuyến hẹp. Khi Prévot đứng lên đi tới đi lui, tôi nhẹ nhàng điều chỉnh đường định tâm. Tới chỗ nào mà người ta báo là gió thuận, tôi vọt lên đến hai nghìn. Chốc chốc rất lâu tôi bật một ngọn đèn để xem các mặt đồng hồ, không phải cái nào cũng dạ quang, nhưng phần lớn thời gian, tôi đắm chìm trong tối đen, ở giữa các vì tinh tú li ti của tôi, chúng cũng tỏa lan một ánh sáng tựa khoáng chất như các vì sao, cũng một ánh sáng vô ích và thầm kín ấy, nói cùng một ngôn ngữ ấy. Tôi cũng vậy, như các nhà thiên văn, tôi đọc một cuốn sách cơ học về bầu trời. Tôi cũng vậy, cũng cảm thấy mình chăm chỉ và trong sạch. Ở thế giới bên ngoài, cái gì cũng tắt rồi. Có Prévot cưỡng lại không được đang thiu thiu ngủ kia, và tôi càng thấy thấm thía niềm cô quạnh của mình. Có tiếng máy rền rĩ nhè nhẹ và trước mặt tôi, trên bản đồ bay, tất cả những vì sao lặng lẽ kia.
Tuy vậy, tôi vẫn suy ngẫm. Chúng tôi tuyệt không có cái thuận lợi của trăng sáng, lại không có người phụ trách vô tuyến. Không có một dây nhợ nào, dù mỏng manh đến đâu, còn nối liền chúng tôi với thế giới cho tới khi nhìn thấy cái lưới ánh sáng của sông Nil. Chúng tôi ở bên ngoài tất cả mọi sự, chỉ cái động cơ này nó đang treo chúng tôi lơ lửng, kéo dài chúng tôi trong chất nhựa này. Chúng tôi vượt qua cái thung lũng đen lóa của những câu chuyện thần tiên, thung lũng của thử thách. Ở đây tuyệt chẳng có sự tiếp cứu nào. Ở đây tuyệt chẳng có dung tha nào cho những lỗi lầm. Chúng tôi tự giao phó tùy lượng Thượng Đế.
Một tia sáng luồn qua một mạch nối của bảng điện. Tôi đánh thức Prévot dậy để anh ta tắt nó đi. Trong bóng tối, Prévot hùng hục như một con gấu, thở phì phò, bước tới. Anh nín thinh loay hoay vừa kết hợp chiếc khăn với một tờ giấy đen thế nào đó. Cái tia sáng của tôi đã biến mất. Cái tia sáng đó là thành phần rạn nứt trong cuộc đời này. Nó tuyệt không cùng chất lượng với ánh sáng quang tuyến nhợt nhạt và xa xôi kia. Nó là một ánh sáng của hộp đêm chứ không phải là ánh sáng của tinh tú. Nhưng mà nó làm tôi quáng lên, nó xóa nhòa mọi ánh sáng khác.
Ba giờ bay. Tôi thấy một ánh sáng chói chang tóe ra ở bên phải tôi. Tôi nhìn. Một vệt sáng dài móc vào ngọn đèn cuối cánh, cho tới lúc đó, tôi không thấy nó. Đó là một ánh sáng cách kỳ, lúc tỏ lúc mờ: tôi vào trong một đám mây đây mà. Chính là đám mây phản chiếu ngọn đèn của tôi. Cạnh các tiêu điểm của tôi, lẽ ra tôi thích một bầu trời trong sáng hơn.
Dưới ánh hào quang, cánh máy bay rực lên. Ánh sáng đến tọa vị, và ở lại đó, và tỏa sáng và làm nên ở đằng kia một bó hoa màu hồng. Tôi bị lắc lư bởi những luồng xoáy sâu. Tôi bay đâu đó trong luồng gió của một đám mây tích tụ dày bao nhiêu tôi không rõ. Tôi lên cao đến hai nghìn lẻ năm vẫn không trồi ra được khỏi đám mây. Tôi lại hạ xuống đến một nghìn mét. Bó hoa vẫn đó, không cử động, ngày càng rực rỡ hơn. Được. Tốt. Mặc kệ. Tôi nghĩ đến chuyện khác. Để rồi xem khi nào thì mình ra khỏi. Nhưng tôi vẫn không ưa được cái thứ ánh sáng của quán ăn tồi tàn ấy.
Tôi tính: “Ở đây mình phải nhún nhảy một chút, nhưng cũng bình thường thôi, song dọc đường đi, trời thì trong mà độ cao nào cũng nhiều xoáy quá. Gió không hề lặng, mình phải vượt lên trên tốc độ ba trăm ki lô mét giờ.” Sau rốt, tôi tuyệt không rõ cái gì thật chính xác nữa, tôi chỉ thử định hướng xem khi nào thì mình ra khỏi mây. Và ra khỏi mây. Bó hoa đột nhiên tan biến. Chính vì nó tan biến mà tôi đoán biết sự việc sắp xảy ra. Tôi nhìn ra phía trước và nhác thấy, tưởng hầu như là không thấy gì, một thung lũng hẹp trên trời và tường vách của một đám mây tích tụ sắp tới nữa. Bó hoa lúc trước đã lại thấy rực lên rồi.
Chỉ cần có mấy giây là tôi không bao giờ còn ra khỏi thứ nhầy dính này nữa. Sau ba giờ rưỡi bay, chất nhầy dính đó bắt đầu làm cho tôi lo lắng vì nếu tôi vẫn bay tới như tôi tưởng thì lúc này tôi đã ở gần sông Nil rồi. Có lẽ may ra, qua các hành lang, tôi sẽ có thể nhìn thấy sông Nil, nhưng các hành lang đâu có nhiều. Tôi vẫn chưa dám hạ thấp bởi vì nếu, biết đâu đấy, không phải là mình đã bay nhanh như mình tính thì bây giờ dưới bụng máy bay vẫn còn là những vùng đất cao.
Tôi vẫn không thấy lo lắng gì, chỉ ngại có thể mất thì giờ. Nhưng tôi cũng định một ranh giới cho sự thanh thản của tôi: bốn giờ mười lăm phút bay. Sau thời gian đó, cho dẫu gió không chuyển động, mà không chắc là không chuyển động, tức là tôi đã vượt thung lũng sông Nil rồi.
Khi tôi bay chạm các vành mây, bó hoa ném ra những ngọn lửa, những ngọn lửa ấy lúc bật sáng, lúc tối kịt, sáng tối sáng tối mỗi lúc mỗi gấp rồi bỗng nhiên tắt ngấm. Tôi không ưa cái lối thông tín bằng mã số ấy với các con quỷ của đêm tối.
Một ngôi sao lam thoắt hiện trước mặt tôi, rực rỡ như một ngọn đèn pha. Nó là sao hay là đèn pha? Tôi cũng không ưa cái ánh sáng ma quỷ đó, cái tinh tú đạo sĩ đó, sự mời mọc nguy hiểm đó.
Prévot thức dậy và soi các đồng hồ của các động cơ. Tôi gạt tất cả ra, cả anh ta lẫn cái đèn. Tôi vừa chạm vào cái kẽ nứt giữa hai đám mây và tôi thừa dịp nhìn xuống bên dưới. Prévot ngủ lại.
Nhưng có gì để nhìn đâu.
Bay được bốn giờ năm phút. Prévot tới ngồi cạnh tôi:
“Đáng lẽ tới Cairo rồi…”
“Mình cũng nghĩ thế…”
“Kìa, sao hay đèn pha thế?”
Tôi đã giảm bớt máy và chính vì thế mà Prévot thức dậy. Anh ta rất thính với mọi tiếng động trong lúc bay. Tôi bắt đầu hạ xuống chậm rãi, mong chuồi xuống bên dưới khỏi mây.
Tôi vừa xem lại bản đồ xong. Cách nào thì tôi cũng đã đi vào vùng bờ biển. Ồ, sẽ không có gì rủi ro hết. Tôi xuống nữa, và quay ngoặt thẳng chính Bắc. Như vậy, tôi sẽ thấy, ngang cửa sổ máy bay, các ngọn đèn thành phố. Chắc là mình đã vượt quá các thành phố ấy rồi. Chúng sẽ hiện ra ở phía trái. Bây giờ tôi bay dưới các đám mây tích tụ. Nhưng lại đi dọc theo một đám mây khác đang hạ thấp hơn ở phía trái tôi. Tôi rẽ ngoặt để khỏi sa vào lưới của nó, lấy hướng Bắc Đông Bắc.
Đám mây ấy chắc chắn đang hạ thấp xuống nữa và ngáng mắt tôi không cho thấy chân trời. Tôi không dám hạ nữa. Tôi đã xuống tới cốt 400 của thước đo độ cao, nhưng lại không rõ áp lực. Prévot nghiêng ngó. Tôi hét cho anh ta nghe: “Mình vù tới biển đây. Cần thì mình cho rơi xuống biển để khỏi tan xác…”
Nhưng lại không có gì chứng tỏ rằng bên dưới tôi không phải là biển. Dưới đám mây này là tối đen dày đặc. Tôi dán chặt người vào thành cửa sổ, tìm cách nhận ra bên dưới là gì, mong phát hiện ra đèn và tín hiệu. Tôi là một người đi đào xới tro tàn. Tôi là một người cố đi tìm những đốm lửa của cuộc sống trong tận cùng một cái bếp lò.
“Một ngọn hải đăng!”
Chúng tôi cùng một lúc đều trông thấy cái cạm bẫy thoạt sáng, thoạt tối đó! Thật là điên rồ! Mà nó đâu rồi, cái ngọn đèn ma ấy, cái hư cấu ấy của đêm tối? Bởi vì chính vào giây phút mà Prévot và tôi nghiêng ngó để tìm nó, ba trăm mét dưới cánh, bỗng nhiên…
“Ái!”
Tôi nhớ là không có nói gì khác. Tôi nhớ là không cảm thấy gì khác ngoài một tiếng vỡ dữ dội lay động tất cả thế giới chúng tôi từ dưới đáy. Trong lúc đang bay hai trăm bảy mươi ki lô mét giờ chúng tôi đã chạm đất.
Tôi nhớ rõ là mình không có chờ đợi gì khác, vào cái phần trăm giây đồng hồ tiếp theo sau, ngoài cái ngôi sao màu tía vĩ đại của vụ nổ sẽ hòa nhập cả hai đứa chúng tôi vào. Cả Prévot lẫn tôi đều không cảm thấy mảy may xúc động. Tôi chỉ nhận thấy trong tôi một đợi chờ căng thẳng, đợi chờ ngôi sao sáng rực rỡ mà trong tích tắc đó chúng tôi sẻ tan biến vào nó. Nhưng chẳng có ngôi sao màu tía nào cả. Chỉ có một cái lắc như một cơn động đất nố tàn phá buồng lái của chúng tôi, bứt vứt các cửa kính, ném các miếng tôn ra xa một trăm mét, một cơn động đất làm đầy ứ đến ruột non ruột già chúng tôi tiếng ầm ầm của nó. Chiếc máy bay rung lên như một lưỡi dao từ xa phóng cắm vào gỗ cứng. Và hai chúng tôi bị nháo nhào bởi sự giận dữ này. Một giây, hai giây… Chiếc máy bay vẫn rung lên, và tôi chờ đợi, sốt ruột kinh khủng, chờ đợi kho năng lượng dự trữ sẽ làm cho nó nổ tung lên như một quả lựu đạn. Nhưng những chuyển động bên dưới lan tiếp nhau mãi mà không kết thúc với một cơn nổ hoàn toàn. Tồi chẳng hiểu tí gì về cái công việc vô hình ấy. Tôi không hiểu tí gì về cơn động đất ấy, cả nỗi giận dữ ấy, cả cái thời gian như không bao giờ dứt ấy… năm giây, sáu giây… Và, đột ngột, chúng tôi có cảm giác như bị lật ngược lại, một cái chạm mạnh bứt các điếu thuốc lá của chúng tôi ra ngoài cửa sổ, cánh máy bay bên phải vỡ tan tành, rồi không xảy ra điều gì nữa. Không có gì nữa ngoài một sự bất động lạnh lẽo. Tôi hét bảo Prévot:
“Nhảy ra, mau lên!”
Cùng lúc, anh la:
“Lửa!”
Và chúng tôi đã đu ra khỏi cái cửa sổ đã mất cánh. Chúng tôi đứng cách mặt đất hai mươi mét. Tôi nói với Prévot”
“Không đau ở đâu chứ?”
Anh trả lời tôi:
“Chẳng đau ở đâu cả!”
Nhưng anh lại xoa đầu gối.
Tôi bảo anh:
“Cậu nắn người xem, cử động xem có bị thương ở đâu không?”…
Và anh trả lời tôi:
“Không hề gì, va cái bơm cấp cứu đấy thôi mà…”
Tôi thì nghĩ anh ta sắp đột ngột lăn đùng ra đây, toác đôi ra từ đầu cho đến rốn, nhưng hai mắt không động đậy, anh lặp lại:
“Chỉ là cái bơm cấp cứu thôi mà!”
Tôi thì tôi nghĩ: anh ta lên cơn điên rồi, anh ta sắp nhảy múa đây…
Nhưng, sau cùng, hai mắt không nhìn chiếc máy bay nữa, chiếc máy bay, bây giờ biết là thoát không bị cháy rồi, anh ta nhìn tôi và lặp lại:
“Chẳng có gì. Chỉ là cái bình cứu hỏa nó ngoặc vào đầu gối mình mà thôi!”
o O o
Không thể nào giải thích được việc chúng sống sót. Cầm chiếc đèn bấm trong tay, tôi đi ngược lại theo vết chiếc máy bay trên mặt đất. Hai trăm năm mươi mét cách chỗ nó dừng hẳn, đã thấy những mảnh sắt cong queo và những vụn tôn mà nó đã bắn tóe suốt lượt trên mặt cát. Khi trời sáng, chúng tôi sẽ biết rằng chúng tôi đã va phải hầu như thành một đường tiếp tuyến một triền dốc thoải trên đỉnh một cao nguyên vắng vẻ, Ở chỗ va chạm là một cái lỗ trên cát dốc như vết một lưỡi cày.
Chiếc máy bay, không bị lật nhào, vẫn giận dữ tiến tới bằng bụng, với những cử động giống như đuôi rắn. Nó đã bò sát với tốc độ hai trăm bảy mươi ki lô mét giờ. Chúng tôi thoát chết có lẽ nhờ các đá đen và tròn kia, chúng lăn tự do trên cát giống như một cái bàn bi.
Prévot rứt các bình ắc quy ra để tránh một vụ cháy có thể xảy ra sau đó, do cầu chì. Tôi tựa vào động cơ và suy nghĩ: trên độ cao, tôi đã phải chịu trong bốn giờ mười lăm phút một ngọn gió năm mươi ki lô mét giờ, tôi tất bị xao động. Nhưng nếu ngọn gió đã chuyển hướng ngay sau khi vừa dự báo xong, tôi đã không biết tí gì về hướng đi của nó. Như vậy là tôi đã lọt vào trong một hình vuông mỗi bề bốn trăm ki lô mét.
Prévot đến ngồi cạnh tôi và nói với tôi:
“Ta còn sống, phi thường thật đấy!”
Tôi chẳng trả lời gì, cũng chẳng cảm thấy vui chút nào. Tôi bỗng nảy ra một ý nhỏ, cái ý đó nó đã manh nha trong đầu tôi và làm tôi hơi xúc động.
Tôi yêu cầu Prévot bật đèn để định tiêu điểm, và cầm chiếc đèn bấm trong tay, tôi cứ đi thẳng về phía trước mặt. Tôi nhìn mặt đất chăm chú. Tôi chậm rãi bước tới, quét ánh sáng thành một nửa vòng tròn, nhiều lần thay hướng. Tôi vẫn tìm kiếm trên mặt đất như thể đang tìm một chiếc nhẫn bị đánh rơi. Lúc nãy, như vậy đó, tôi đã tìm đốm lửa. Tôi vẫn bước tới trong tối đen, cúi xuống khoảng sáng trắng mà tôi lia đi lia lại. Đúng thế… đúng thế… Tôi chậm rãi đi ngược đến chiếc máy bay. Tôi ngồi xuống cạnh buồng lái và suy nghĩ. Từ nãy tôi tìm một lý lẽ để hy vọng và tuyệt chẳng tìm thấy. Tôi tìm một dấu hiệu từ cuộc sống, nhưng cuộc sống tuyệt chẳng hề ra hiệu cho tôi.
“Prévot! Mình chẳng thấy một lá cỏ nào…!”
Prévot nín thinh, tôi không rõ anh có hiểu tôi không. Ta sẽ nói lại chuyện đó khi màn đêm rút đi, khi ngày trở lại. Tôi cảm thấy vô cùng mệt mỏi, tôi nghĩ thầm: “Ngót bốn trăm ki lô mét, trong sa mạc!” Bỗng tôi nhảy lên:
“Ôi, nước!”
Các bình xăng, bình dầu đã vỡ. Các đồ chứa nước cũng thế. Cát đã uống hết. Chúng tôi chỉ tìm lại được có một nửa lít cà phê ở đáy một cái phích vỡ, một phần tư lít vang trắng ở đáy một cái phích vỡ khác. Chúng tôi lọc hai thứ nước ấy và trộn lẫn lại. Chúng tôi cũng tìm được mấy quả nho và một quả cam. Nhưng mà tôi tính: “Đi năm tiếng, dưới nắng, trong sa mạc, hết ngay mà…”
Chúng tôi vào buồng lái đợi sáng. Tôi duỗi người sắp ngủ. Vừa thiu thiu, tôi vừa nhẩm kể lại việc xảy ra với chúng tôi, hơn thiệt thế nào. Chúng tôi không biết gì hết về vị trí của mình. Chúng tôi không có đến một lít nước uống. Chúng tôi rơi xuống đây, nếu ở trên tuyến thẳng, tám ngày người ta mới tìm thấy chúng tôi, khó lòng mong sớm hơn, và như vậy là chậm quá. Nếu thật mà chúng tôi đã lái chệch đường, thì sáu tháng người ta mới tìm ra. Không thể trông vào các máy bay được: chúng sẽ phải lục tìm chúng tôi dọc ba nghìn ki lô mét.
“Ôi, đáng tiếc…” Prévot nói.
“Lúc này mà chết được ngay, hay hơn biết bao!”
Nhưng không nên khước từ sự sống sớm thế. Prévot và tôi, chúng tôi trấn tĩnh lại. Không nên để mất cơ hội, dẫu mong manh đến đâu, được cứu một cách kỳ diệu bằng đường không. Cũng không nếu ở yên một chỗ bỏ lỡ mất cái ốc đảo có thể ngay gần đây. Hôm nay chúng tôi sẽ đi cả ngày. Và chúng tôi trở lại chiếc máy bay của chúng tôi. Trước khi đi, chúng tôi sẽ ghi trên mặt cát, bằng chữ hoa to chương trình của chúng tôi.
Thế là tôi cuộn tròn người lại và ngủ cho đến sáng. Và tôi rất lấy làm thích được ngủ. Tôi mệt mỏi đến nỗi có cảm giác như có đông người xung quanh mình. Tôi không một mình trong sa mạc, giấc ngủ lơ mơ của tôi đầy các giọng nói, đầy kỷ niệm, đầy lời tâm sự thì thào. Tôi chưa cảm thấy khát, tôi thấy mình khoan khoái, tôi tự phó thân cho giấc ngủ như cho cuộc phiêu lưu. Hiện thực lùi bước trước sự mơ màng…
Ôi! Khi ngày trở lại, mọi việc thật là khác hẳn!
o O o
Tôi rất yêu Sahara. Tôi đã sống nhiều đêm ở đất loạn. Tôi thức dậy trong dải cát bao la màu vàng này nơi gió để lại những vệt sóng như trên mặt biển. Ở đấy tôi ngủ rúc dưới cánh tay mình mà đợi cấp cứu, và cái đó tuyệt không có gì so sánh được.
Chúng tôi bước đi trên sườn những ngọn đồi cong. Đất gồm có cát hoàn toàn bị bao phủ bởi một lớp độc nhất sỏi sáng và đen. Trông như là những chiếc vẩy bằng kim khí, và tất cả các mái vòm bao bọc chúng tôi đều rực chói như những áo giáp. Chúng tôi rơi vào trong một thế giới khoáng chất. Chúng tôi bị nhốt trong một cảnh trí bằng sắt.
Vượt qua một đỉnh đồi đầu tiên, xa hơn đã thấy báo hiệu một đỉnh đồi nữa giống như vậy, chói sáng và đen. Chúng tôi vừa bước đi vừa dùng chân nạo đất phía dưới, để tạo thành một cái rãnh dẫn đường, hòng sau này còn biết lối mà trở về. Chúng tôi nhắm vầng dương trước mặt mà đi. Thật là trái với mọi lẽ phải, việc tôi quyết định đi về hướng chính Đông, vì tất cả xui tôi nghĩ rằng tôi đã vượt qua sông Nil: khí tượng, thời gian bay. Nhưng tôi có thử đi một quãng về hướng Tây và tôi cảm thấy khó chịu mà không giải thích được vì sao. Vậy nên tôi dành lại hướng Tây cho ngày mai. Và tôi cũng tạm thời bỏ hướng Bắc, tuy hướng Bắc dẫn ra biển. Ba ngày sau, khi chúng tôi quyết định, trong cơn nửa còn tỉnh, nửa đã mê, rời bỏ hẳn chiếc máy bay của chúng tôi, và đi thẳng trước mặt cho đến cuối, cũng vẫn là hướng Đông mà chúng tôi đi. Đúng hơn, hướng Đông-Bắc-Đông. Và cái này cũng ngược với mọi lẽ phải, cũng như ngược với mọi hy vọng. Và chúng tôi khám phá thấy, một khi được cứu sống, rằng chẳng có hướng nào khác có thể cho phép chúng tôi trở lại, vì về hướng Bắc, kiệt sức, chúng rôi tất cũng chẳng tới được biển đâu. Nói thì vô lý, nhưng bây giờ nhớ lại, vì chẳng có chỉ dẫn gì mà chỉ dựa vào lựa chọn, tôi đã chọn cái hướng ất chỉ vì lẽ nó đã cứu anh bạn thân Guillaumet của tôi trong dãy Andes nơi tôi từng tìm kiếm anh biết bao. Cái hướng đó đã trở nên, đối với tôi, một cách mơ hồ, cái hướng của sự sống.
Sau năm tiếng đi bộ, cảnh vật thay đổi. Một dòng sông cát như chảy vào trong một thung lũng và chúng tôi men theo lòng thung lũng đó. Chúng tôi bước rảo, vì phải đi thật xa rồi trở lại trước khi trời tối nếu không phát hiện được gì. Và bỗng nhiên tôi dừng lại:
“Prévot này.”
“Cái gì?”
“Vết chân…”
Đã bao lâu rồi chúng tôi quên không lấy chân cào đất kéo dài vết chúng tôi đi? Không tìm lại được cái vệt ấy là chết.
Chúng tôi quay ngoặt lại, nhưng lại đi chéo sang phía phải. Chúng tôi đi khá xa rồi mới quay thẳng góc với hướng đi ban đầu, và chúng tôi mới lại gặp dấu vết của chúng tôi, ở nơi mà chúng tôi còn đánh dấu.
Khi nối lại được với đường dây ấy, chúng tôi lại đi. Nắng lên, và cùng với nắng, các ảo ảnh nảy sinh. Nhưng hãy còn là những ảo ảnh sơ đẳng. Những cái hồ lớn hợp và tan khi chúng tôi tiến tới. Chúng tôi quyết định vượt qua cái thung lũng cát, và trèo lên vòm đồi cao nhất để quan sát chân trời. Chúng tôi đã đi sáu tiếng rồi. Bước những bước sải dài, ắt chúng tôi đã đi ba mươi nhăm ki lô mét. Chúng tôi đã lên tới chóp của cái chỏm tròn màu đen đó, rồi lặng lẽ ngồi xuống. Cái thung lũng cát của chúng tôi, ở dưới chân, tiếp nối một sa mạc toàn cát không có đá, ánh sáng trắng rực rỡ nhìn muốn cháy mắt. Xa tít tắp, ấy là khoảng không. Nhưng ở chân trời, các trò chơi của ánh sáng đã cấu thành những ảo ảnh còn làm rối trí hơn nữa. Thành lũy và giáo đường, các khối nhà cửa có những đường thẳng đứng. Tôi cũng nhìn một vệt đen lớn giả làm cây cối nhưng bên trên lại có một đám trong những đám mây ban ngày đã tan đi đến chiều tối mới hình thành lại. Đó chỉ là cái bóng của một đám mây tích mà thôi.
Không cần đi tới nữa, mưu toan này chăng dẫn đến đâu. Phải trở lại chỗ chiếc máy bay, chiếc phao đỏ và trắng đó, có lẽ các bạn hữu sẽ nhìn thấy nó. Cho dẫu tôi tuyệt không xây niềm hy vọng của tôi trên các cuộc tìm kiếm đó, đối với tôi, các cuộc tìm kiếm đó lúc bấy giờ vẫn là cơ hội được cứu thoát duy nhất. Nhưng nhất là chúng tôi còn để lại trong máy bay những giọt nước cuối cùng của chúng tôi, và chúng tôi đã thấy nhất thiết phải uống rồi. Cần phải trở lại để mà sống. Chúng tôi là tù binh của cái vòng tròn bằng sắt ấy: tính chất ngự trị ngắn ngủi của cơn khát nơi chúng tôi.
Nhưng khi người ta tưởng người ta đang đi về phía cuộc sống, quay trở lại thật khó làm sao! Bên kia các ảo ảnh, chân trời có lẽ lại giàu có những thành phố thật giàu có những lạch nước ngọt và những bãi cỏ. Tôi biết là tôi có lý để mà trở lại. Tuy vậy, tôi vẫn có cảm giác như chìm đắm khi tôi hạ quyết định dữ dội phải chuyển hướng.
Chúng tôi nằm cạnh chiếc máy bay. Chúng tôi đã đi hơn sáu mươi ki lô mét. Chúng tôi đã uống hết các loại nước của chúng tôi.
Về hướng Đông, chúng tôi không tìm thấy gì hết, và không một người bạn nào đã bay trên vùng đất này. Chúng tôi còn chịu được bao lâu nữa? Chúng tôi đã khát quá thế này…
Chúng tôi cất một đống củi lớn có mượn một số mảnh vỡ của cái cánh đã tan tành. Chúng tôi đã tưới xăng vào, chất thêm các miếng tôn dạ quang sẽ cháy lên một ánh sáng trắng và sắc. Chúng tôi đợi thật tối kịt mới đốt bùng đám cháy của chúng tôi… Nhưng mà loài người, nào biết họ ở đâu?
Bây giờ ngọn lửa vút lên. Một cách thành kính, chúng tôi nhìn ngọn đèn hiệu ấy của mình bùng lên trong sa mạc. Chúng tôi nhìn ngời lên trong đêm cái thông báo lặng lẽ và chói rực của mình. Và tôi nghĩ rằng nếu nó có mang đi một lời kêu gọi tha thiết thì nói cũng mang đi rất nhiều tình yêu. Chúng tôi yêu cầu được uống nhưng chúng tôi cũng yêu cầu được giao tiếp. Được thấy một ngọn lửa khác cháy lên trong đêm, chỉ loài người là sử dụng lửa thôi, và loài người hãy trả lời chúng tôi!
Tôi thấy lại đôi mắt vợ tôi. Tôi sẽ không còn thấy gì khác ngoài đôi mắt ấy. Hai mắt ấy đang hỏi. Tôi thấy lại mắt của những ai, có lẽ, thiết tha nhìn tôi. Và những cặp mắt ấy đang hỏi. Tất cả bao nhiêu ánh nhìn tụ hội đang trách móc sự im lặng của tôi. Tôi trả lời đây! Tôi trả lời đây! Tôi trả lời với tất cả sức lực của mình, tôi không thể ném được ngọn lửa nào chói rực hơn trong bóng tối!
Tôi đã làm tất cả những gì có thể. Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể: sáu mươi ki lô mét hầu như không uống. Bây giờ chúng tôi không uống nữa. Nếu chúng tôi không đợi được lâu hơn nữa, có phải tại chúng tôi không? Đáng lẽ chúng tội chỉ nên ngoan ngoãn nằm đó mà mút chiếc bi đông của chúng tôi. Nhưng từ cái giây phút mà tôi rít cái đáy bầu bằng thiếc, một cái đồng hồ đã bắt đầu hoạt động. Từ cái giây mà tôi hút giọt nước sau chót, tôi bắt đầu lăn xuống một sườn dốc. Tôi làm thế nào cưỡng lại khi thời gian cuốn tôi như cuốn một con sông? Prévot khóc. Tôi vỗ về anh ta. Tôi nói để an ủi anh ta:
“Đi tong thì đằng nào cũng là đi tong.”
Anh ta trả lời tôi:
“Anh tưởng là tôi khóc về tôi hay sao…”
Ấy, hẳn chứ, tôi đã khám phá ra điều hiển nhiên ấy. Không gì là không thể chịu được. Ngày mai, ngày kia, tôi sẽ biết quyết không gì là không thể chịu được. Tôi chỉ tin có một nửa vào sự đày đọa. Tôi đã suy nghĩ như thế. Một hôm tôi đã tưởng tôi chết đuối rồi, bị nhốt trong buồng lái và tôi không đau đớn nhiều lắm. Đôi khi tôi tưởng bị vỡ mặt và cái đó tuyệt cũng không phải là sự việc gì quan trọng lắm. Ở đây cũng thế, tôi tuyệt sẽ không biết nỗi tuyệt vọng đâu. Ngày mai, về vạn vật, tôi sẽ còn biết nhiều việc kỳ lạ hơn nữa. Và có Thượng Đế mới biết, cho dẫu đốt ngọn lửa này to lên tôi có thôi không để cho loài người còn nghe tiếng mình không!…
“Nếu anh tưởng là tôi khóc về tôi…” Phải, phải chính đó là điều không thể chịu nổi. Mỗi lần tôi nhìn thấy lại những cặp mắt đang chờ đợi, tôi cảm thấy lòng rát bỏng. Tôi đột ngột muốn đứng lên và chạy thẳng ra đằng trước. Ở đằng xa kia, người ta kêu cứu, người ta đang chìm đắm!
Ấy là một cuộc thay bậc đổi ngôi kỳ lạ, song tôi vẫn nghĩ rằng bao giờ nó cũng là thế. Tuy vậy, tôi, phải có Prévot để vững tin hoàn toàn điều đó. Phải, Prévot cũng sẽ không biết tới cái tuyệt vọng trước cái chết mà người ta nói đi nói lại mãi với chúng tôi. Nhưng có một cái gì đó mà anh không thể gánh chịu được, tôi cũng không chịu được.
Ôi, tôi sẵn sàng thiếp ngủ, ngủ qua đêm hay ngủ qua nhiều thế kỷ. Tôi ngủ thì tôi cũng tuyệt không phân biệt được. Và thật êm ả biết bao! Nhưng những tiếng mà người ta sắp thét lên ở đằng kia, những ngọn lửa thất vọng to lớn kia… hình ảnh chúng, tôi không chịu được. Tôi không thể khoanh tay trước những chìm đắm đó! Mỗi giây im lặng ám hại một ít những người tôi yêu thương. Và một con giận dữ dội rẽ lối đi vào trong tôi: vì sao có những xiềng xích ngăn cản không cho tôi đến kịp cấp cứu những ai chìm đắm? Tại sao đám lửa của chúng tôi không mang được tiếng kêu của chúng tôi đến được đầu kia thế giới? Hãy kiên nhẫn… Chúng tôi đang tới đây! Chúng tôi đang tới đây! Chúng tôi là những người đi cứu!
Ma giê đã được đốt hết và ngọn lửa của chúng tôi đỏ quạch. Ở đây đủ còn một đống tro than mà chúng tôi khom lưng vào sưởi. Hết rồi, cái thông báo lớn ngời sáng của chúng tôi, nó phát động được cái gì ở trên đời này? Ôi, tôi biết rõ là nó không phát động được cái gì. Nó chỉ là một lời khẩn cầu chẳng được ai nghe.
Thôi được, tôi đi ngủ đây.
o O o
Mờ sáng, chúng tôi vét được, bằng cách dùng một mảnh giẻ lau cánh, một ít nước sương lẫn sơn và dầu đựng được một đáy cốc. Thật khổ tâm. Nhưng chúng tôi đã uống thứ nước ấy. Cũng chẳng còn gì tốt hơn, ít ra chúng tôi cũng đã thấm được môi. Sau bữa tiệc đó, Prévot bảo tôi:
“Cũng may, còn khẩu súng ngắn.”
Bỗng nhiên tôi trở nên hung hăng, tôi quay lại phía Prévot, thấy giận và ghét anh ta. Trong lúc này, tôi không thù gì hơn sự sa sút tinh thần. Tôi đang cần vô cùng thái độ cho rằng mọi việc đều đơn giản. Đơn giản, việc ta sinh ra. Đơn giản, việc ta lớn lên. Và đơn giản, việc ta chết khát.
Tôi liếc nhìn Prévot, nếu cần tôi sẵn sàng đánh anh ta cho anh ta im đi. Nhưng Prévot nói với tôi giọng bình thản. Chỉ là anh ta luận về một vấn đề vệ sinh. Anh ta đề cập tới vấn đề đó giống như anh ta bảo tôi: “Ta phải đi rửa tay đi.” Thế là chúng tôi đồng ý với nhau. Tôi đã suy ngẫm hôm qua khi nhìn thấy cái bao da. Những suy nghĩ của tôi hợp lý nhưng không tình cảm. Chỉ cái gì đó có tính chất xã hội mới tình cảm. Cái bất lực của chúng ta khi muốn làm yên tâm những con người mà chúng ta chịu trách nhiệm. Chứ không phải là khẩu súng ngắn.
Người ta vẫn không tìm kiếm chúng tôi, hay đúng hơn, có lẽ người ta đang tìm kiếm chúng tôi ở chỗ khác. Chắc là ở vùng Ả Rập. Vậy là trước ngày mai, chúng tôi sẽ không nghe tiếng máy bay của chúng tôi rồi. Chỉ một chiếc bay qua thôi mà còn xa như thế thì trông mong gì. Là những chấm đen lẫn trong nghìn chấm đen trong sa mạc, chúng tôi chẳng thể mong gì được ai nhìn thấy. Chẳng gì là chính xác trong số những suy nghĩ mà về sau người ta có thể gán cho tôi trong cái nhục hình này. Tôi sẽ không chịu một nhục hình nào hết. Những kẻ đi cứu, đối với tôi, họ như đang đi, về trong một thế giới khác.
Phải đến mười lăm ngày lùng sục mới tìm lại được trong sa mạc một chiếc máy bay mà người ta chẳng biết chút tăm hơi, cách gần ba nghìn ki lô mét: mà chắc lúc này người ta lại đi tìm chúng tôi ở quãng từ Tripolitaine đến Ba Tư. Tuy vậy, cả cho đến bây giờ, tôi vẫn dự trữ cho cái may ít ỏi đó, trong lúc không còn cái may nào khác. Thế là đổi chiến thuật, tôi quyết định đi thám hiểm một mình. Prévot sẽ nhen một ngọn lửa và sẽ thổi to lên nếu có người tới, nhưng sẽ chẳng ai tới thăm chúng tôi đâu.
Thế là tôi đi và cũng không rõ là rồi mình có đủ sức trở lại không. Vụt hiện lại trong trí nhớ những điều tôi biết về sa mạc Libya. Trong sa mạc Sahara có bốn mươi phần trăm ẩm, trong khi ở đây chỉ có mười tám phần trăm. Cuộc sống bốc hơi như một thứ hơi. Người dân tộc Bedouin, những khách du lịch, các sĩ quan thuộc địa, họ cho biết rằng người ta có thể chịu khát được trong vòng mười chín tiếng. Sau hai mươi tiếng, mắt người ta quáng hẳn và sự kết thúc bắt đầu: cuộc hành trình của cái khát nhanh như sấm chớp.
Nhưng mà cái gió Đông Bắc này, cái gió không bình thường nó lừa dối chúng tôi, trái với mọi dự tính, nó đã đóng đinh chúng tôi trên cái cao nguyên này, cái gió ấy bây giờ có lẽ kéo dài sự sống cho chúng tôi. Nhưng nó cho chúng tôi bao nhiêu thời gian trước giờ những ánh sáng quáng mắt đầu tiên ập tới?
Vậy là tôi ra đi, nhưng tôi có cảm giác như mình đi ca nô trên biển lớn.
Tuy, nhờ bình minh, cảnh trí này đối với tôi bớt ảm đạm chết chóc hơn. Và tôi đi, thoạt tiên còn như một đứa toan hái trộm, cho tay vào túi. Chiều qua, chúng tôi có đi đặt một ít dây nhợ ở lỗ ra vào một vài hang ổ bí mật, và cái anh săn bắn nghiệp dư ở trong tôi thức dậy. Trước tiên, tôi đi xem lại các bẫy: chúng trống trơn.
Vậy là chẳng có tí máu nào mà uống. Thật ra tôi cũng không mong.
Tôi không hề thất vọng, trái lại, tôi thấy mình hơi tò mò. Những con vật ấy, ở sa mạc, chúng sống bằng gì cơ chứ? Có lẽ đó là những con cáo cát mà người ta gọi là phê nếch, loại thú rừng nhỏ ăn thịt chỉ lớn bằng loài thỏ, tai rất to. Tôi không cưỡng lại được ý muốn của minh và đi theo vết chân một con. Các vết chân dẫn tôi đến một dòng sông cát hẹp, ở đây tất cả các vết chân đều rõ mồn một. Tôi thấy xinh quá ba vệt ngón chân xòe cánh quạt giống hình lá cọ. Tôi tưởng tượng người bạn nhỏ của tôi vừa nhảy lúp xúp nhẹ nhàng vào lúc bình minh vừa liếm sương trên các tảng đá. Tôi thấy, các vết chân thưa hơn: con phê nếch của tôi chạy mà! Ở đây, một thằng bạn đã tới gặp cậu ta và hai con đã lúp xúp nhảy cạnh nhau. Thế đấy, tôi dự vào cuộc dạo chơi ấy của buổi sáng với một niềm vui lạ kỳ. Tôi yêu cái tín hiệu ấy của cuộc sống. Và tôi quên đi trong giây lát rằng tôi đang khát…
Sau cùng tôi đến chỗ những chạn thức ăn của lũ cáo. Sát mặt cát, cứ một trăm mét, lại trồi lên một thân cây con khô cỡ một cái liễn canh, cành nhánh chi chít những con sên nhỏ vàng óng. Mỗi rạng sáng con phê nếch đi kiếm thức ăn. Và ở đây, tôi va phải một bí mật thiên nhiên lớn.
Không phải bạ gặp cây con nào, con phê nếch cũng dừng lại. Có những cây đầy sên mà nó chẳng thèm dừng. Có cây nó đi vòng quanh và rõ ràng thận trọng. Có cây nó ghé đến nhưng không phá hoại. Nó chỉ rứt vài ba cái vỏ ốc rồi đi tới hàng quán khác.
Có phải để cho cuộc dạo chơi buổi sớm mai được thích thú lâu dài mà nó nhấm nháp mỗi nơi mỗi tí không? Tôi không cho là thế. Trò chơi của nó thật phù hợp với một chiến thuật cần thiết. Nếu con phê nếch ăn bằng thích những thực phẩm cái cây con gặp đầu tiên, chỉ cần hai, ba bữa, cái cây con đó tất trụi mất cái kho hàng nuôi sống nó. Và cứ thế, hết cây con này đến cây con khác, nó sẽ hủy hoại đàn vật chăn nuôi. Mà con phê nếch cũng gìn giữ để khỏi cản trở việc nhân giống. Một bữa ăn, nó nhấm nháp ở hàng trăm cái bụi màu nâu đó, mà còn không bao giờ ăn một lúc hai vỏ ốc nằm kề nhau ở một cành. Mọi việc diễn ra như là nó có ý thức về sự cơ nhỡ. Nếu nó cứ ăn no mà không phòng xa, rồi sẽ chẳng có sên nữa. Nếu tuyệt không có sên, cũng sẽ tuyệt không có phê nếch.
Các vết chân đưa tôi đến hang cáo. Con phê nếch đó, có lẽ nó đang đứng nghe chừng tôi, hốt hoảng bởi bước chân thậm thịch của tôi. Và tôi bảo nó: “Chú cáo nhỏ của tôi ạ, tôi đi tong rồi, nhưng mà lạ quá, tôi vẫn quan tâm đến vui buồn của chú đấy…”
Rồi tôi đứng yên đó mà mơ màng và tôi thấy như là con người ta thích ứng với tất cả. Ý nghĩ rồi ba mười năm nữa mình sẽ chết, ý nghĩ ấy không làm cho một con người mất vui. Ba mươi năm, ba ngày… cái đó chỉ là một vấn đề phối cảnh xa gần.
Nhưng ta cần quên một vài hình ảnh…
Bây giờ tôi đi tiếp con đường của tôi và, cùng với sự mệt nhọc, trong người tôi đã có một cái gì biến đổi. Những ảo ảnh, nếu khách quan không có, thì tôi cũng hư tạo ra.
“Ô hê!”
Tôi vừa hét vừa đưa hai tay lên trời nhưng cái người đang múa may kia chỉ là một tảng đá đen. Bây giờ trong sa mạc cái gì cũng hừng lên. Tôi muốn đánh thức anh thổ dân Bedouin đang ngủ kia, anh liền biến thành thân cây đen. Thành thân cây ư? Việc ở đây có cây làm tôi kinh ngạc và tôi cúi xuống. Tôi muốn nhấc lên một cành gãy: nó thật ra là cẩm thạch! Tôi đứng lên và nhìn xung quanh, tôi thấy nhiều cẩm thạch đen khác. Một khu rừng hồng hoang để lại trên mặt đất lởm chởm những khoảnh gốc vỡ. Khu rừng sụp đổ như một cái nhà thờ, đã mười vạn năm nay, dưới một cơn bão tố nguyên thủy. Và các thế kỷ đã lăn đến tận chân tôi các khoảnh cột khổng lồ, bóng nhoáng như là những vật bằng thép, cô đặc, bóng như gương, màu mực đậm. Tôi còn phân biệt được đâu là các khuỷu cành, tôi thấy mọi xoắn vặn của đời, tôi đếm các vành thân. Khu rừng này vốn đầy chim và ca nhạc, đã bị trừng phạt và biến thành muối. Và tôi có cảm giác cái cảnh trí này đối với tôi hiềm khích. Còn đen hơn cái áo giáp sắt ấy của các ngọn đồi, di tích uy nghi ấy từ khước tôi. Tôi là một con người sống, tôi có việc gì ở đây, giữa các tảng cẩm thạch bất tri này? Tôi, một sinh vật khả diệt, tôi, mà thân thể sẽ tan biến đi, tôi có việc gì ở đây trong vĩnh cửu?
Từ hôm qua, tôi đã đi ngót tám mươi ki lô mét. Cái choáng váng này cùa tôi chắc là do khát thôi. Hay là do mặt trời. Mặt trời chiếu lên các thân cây kia, chúng bóng nhoáng như ướp dầu. Nó chiếu trên cái vỏ cứng này của thế giới. Ở đây không có cát cũng không có cáo. Ở đây chỉ là một cái đe mênh mông. Và tôi đang bước đi trên cái đe này. Và tôi cảm giác như mặt trời âm vang trong đầu tôi. Ôi, kia kìa…
“Ô hê! Ô hê!”
“Chẳng có gì ở đằng kia đâu, đừng rối lên, mày mê sảng đấy.”
Tôi bảo tôi như vậy, vì tôi cần viện đến lý trí của mình. Từ khước cái mình thấy, đối với tôi, thật là khó. Thật là khó, đối với tôi, đừng chạy đến đoàn người và lạc đà đang đi kia… Kìa… Mày thấy rõ đấy!
“Đồ ngốc, mày biết rõ là chính mày hư tạo ra nó…”
“Thế thì ở đời chẳng gì là thật cả…”
Chẳng cái gì là thật, nếu không phải là cái chữ thập cách tôi hai mươi ki lô mét trên đồi. Chữ thập đó, hay cái đèn pha đó…
Nhưng hướng này không phải là hướng biển. Vậy đó là chữ thập. Suốt đêm tôi đã nghiên cứu bản đồ. Công việc của tôi vô ích, bởi tôi không rõ mình đang đứng ở đâu. Nhưng tôi cúi xuống tất cả mọi dấu hiệu chỉ cho tôi sự có mặt của con người. Và, đâu đó, tôi có phát hiện một đường tròn nhỏ trên có một chữ thập y như vậy. Tôi nhìn xuống chú giải và đọc: “Tu viện”. Cạnh chữ thập, tôi thấy có một chấm đen. Tôi lại nhìn xuống chú giải và đọc: “Giếng vĩnh cửu.” Tim tôi giật một cái mạnh, và tôi đọc to: “Giếng vĩnh cửu… Giếng vĩnh cửu… Giếng vĩnh cửu!” Ali Baba và các kho vàng, cái đó bây giờ nào có nghĩa gì trước một cái giếng vĩnh cửu? Xa hơn một chút, tôi chú ý thấy hai vòng tròn trắng. Tôi đọc xuống chú giải: “Giếng tạm thời.” Có bớt đẹp hơn một chút rồi. Rồi bốn chung quanh không có gì nữa. Không có gì hết.
Đó, cái tu viện của tôi, nó đó! Các tu sĩ đã trồng một chữ thập lớn trên đồi để gọi những người bị chìm đắm! Tôi chỉ việc bước tới chữ thập đó. Tôi chỉ việc chạy đến các vị khổ tu đó…
“Nhưng ở Libya chỉ có các tu vịện Ai Cập cổ thôi.”
“… chạy đến các vị khổ tu chăm chỉ đó. Họ có một cái nhà bếp xinh xinh mát mẻ lát đá hoa đỏ và ở ngoài sân, một cái bơm nước rỉ tuyệt diệu. Dưới cái bơm rỉ, anh có thể đoán ra được đấy… dưới cái bơm rỉ, ấy là cái giếng vĩnh cửu! Ôi chao! Cái tu viện ấy sẽ nổi tiệc lên nhé, khi ta đến cửa và giật chuông, khi mà ta kéo cái chuông lớn…”
“Đồ ngốc, mày đang tả một cái nhà vùng Provence, mà nhà vùng Provence thì làm gì có chuông.”
“… Khi mà ta kéo cái chuông lớn! Người gác cổng sẽ đưa cả hai tay lên trời mà hét: ‘Ông là phái viên của Thượng Đế!’ và ông ta sẽ gọi tất cả các tu sĩ. Các tu sĩ sẽ chạy vội lại. Và họ sẽ thết đãi ta như một đứa trẻ nghèo. Và họ sẽ đẩy ta vào bếp. Và họ sẽ bảo ta: ‘Một giây, một giây thôi, con ạ… ta đang chạy đến cái giếng vĩnh cửu…’”
“Và ta, ta sẽ run lên vì sung sướng…”
Nhưng mà không, tôi không muốn khóc, chỉ vì lẽ không còn chữ thập nào trên đồi hết.
Những hứa hẹn của hướng Tây chỉ là dối trá. Tôi đã ngoặt sang chính Bắc.
Hướng Bắc, nó ít ra cũng đầy tiếng hát của biển.
Ôi chao, đỉnh núi này vượt qua là trải dài chân trời trước mặt. Và đây là cái thị trấn đẹp nhất thế giới.
“Mày biết đó chỉ là ảo ảnh thôi…”
Tôi rất biết đó chỉ là một ảo ảnh. Tôi thì ai mà lừa dối được? Nhưng nếu tôi, chính tôi thích lún vào trong một ảo ảnh? Nếu tôi thích hy vọng? Nếu tôi thích cái thị trấn có khía răng cưa và rợp phủ ánh nắng kia? Nếu tôi thích đi thẳng, bước đi nhanh nhẹn, bởi vì tôi không thấy nhọc nữa, bởi vì tôi sung sướng… Prévot và cái súng ngắn của cậu ta, thật chết cười. Tôi thích cơn say của tôi hơn. Tôi đang say đây. Tôi chết vì khát đây!
Hoàng hôn làm cho tôi tỉnh lại. Tôi chợt dừng khựng lại, hoảng hốt vì thấy mình đi xa thế. Vào lúc hoàng hôn, ảo ảnh chết. Chân trời cởi bỏ hết nào máy bơm, nào dinh thự, nào quần áo lễ. Đó là một chân trời sa mạc.
“Muộn quá rồi! Bóng đêm sắp chụp lấy mày bây giờ, mày phải đợi trời sáng, nhưng đến mai thì dấu chân mày sẽ bị xóa đi hết và mày sẽ không biết mày ở đâu nữa.”
“Thế thì tốt hơn nên đi tiếp thẳng trước mặt… Quay lại có ích gì nữa? Ta không muốn dừng lại khi có lẽ ta sắp mở, khi ta sắp rộng mở tay ta đón biển.”
“Mày thấy biển ở đâu? Mà mày chẳng bao giờ đi tới biển đâu. Có lẽ mày cách biển dễ đến ba trăm ki lô mét rồi. Prévot thì cậu ta lúc này đang rình trông cạnh chiếc Simoun! Và cậu ta, có lẽ, được một đoàn người và lạc đà nhìn thấy…”
Vâng, tôi trở lại đây, nhưng để tôi đi gọi mọi người đã:
“Ô hê!”’
Cái hành tinh này, Thượng Đế ôi, nó vốn có người ở kia mà…
“Ô hê! Người ta ơi!”…
Tôi khản giọng. Tôi không còn giọng nữa. Tôi cảm thấy hét thế là lố bịch… Tôi la lên một lần nữa:
“Người ta ơi!”
Nghe sao mà văn hoa và khoa trương!
Tôi quay lại.
Sau hai giờ đi, tôi nhìn thấy những tàn lửa mà Prévot, hoảng vì tưởng tôi lạc rồi, ném lên trời. Ôi, tôi thấy mà dửng dưng…
Một giờ đi nữa… Còn năm trăm mét. Còn một trăm mét. Còn năm mươi mét…
“Ôi!”
Tôi dừng lại, sửng sốt. Niềm vui sắp tràn ra ngoài trái tim tôi, tôi cố nén vì vui quá. Prévot, mà lửa soi sáng rực rỡ, đang nói chuyện với hai người Ả Rập đang đứng tựa lưng vào máy bay. Prévot chưa nhìn thấy tôi. Anh ta còn bận quá nỗi vui riêng của mình. Ôi, nếu mình mà ở lại đợi như anh ta, bây giờ mình có phải như người được giải thoát rồi không! Tôi cười vui vẻ:
“Ô hê!”
Hai người Bedouin giật mình và nhìn tôi. Prévot rời bỏ họ và một mình đi tới phía tôi, tôi sắp ngã sao? Tôi bảo anh ta:
“Tôi, thế là xong.”
“Cái gì?”
“Người Ả Rập!”
“Người Ả Rập nào?”
“Hai người Ả Rập kia, đang đứng với cậu ấy!…”
Prévot nhìn tôi lạ lắm, và tôi có cảm giác như anh miễn cưỡng tâm sự với tôi một bí mật nặng nề:
“Có người Ả Rập nào đâu!…”
Chắc hẳn, lần này, tôi phải khóc.
o O o
Ở đây, chúng tôi sống mà không uống nước đã mười chín tiếng đồng hồ. Từ chiều qua, chúng tôi đã uống gì? Vì giọt sương lúc bình minh! Nhưng gió Đông Bắc vẫn thổi về, có làm chậm hơn một chút hiện tượng bốc hơi trên da thịt chúng tôi. Cái gió chắn này dễ đùn thêm trong bầu trời những đụn mây cao. Ôi chao! Giá các đám mây cao ấy đi chệch đến tận chỗ chúng tôi, giá trời mưa được!
Nhưng trong sa mạc có mưa bao giờ đâu.
“Prévot ạ, ta lấy một cái dù cắt thành nhiều hình tam giác đi. Ta lấy đã giữ các miếng dù ấy trải lên mặt đất. Gió mà không chuyển hướng thì rạng sáng, ta vặn các miếng dù này vào một cái bình đựng xăng, sẽ hứng được một ít nước sương.”
Chúng tôi đã xếp thẳng hàng sáu tấm vải dù trắng dưới trời sao. Prévot đã tháo một bình xăng. Chúng tôi chỉ còn việc đợi trời sáng.
Trong đống vụn vỡ, Prévot tìm thấy một quả cam kỳ diệu. Chúng tôi chia nhau quả cam. Tôi bàng hoàng lắm vì bỗng được quả cam ấy, nhưng dẫu sao nào có thấm gì khi cơ thể chúng tôi cần đến hai mươi lít nước.
Nằm bên đống lửa đêm, tôi nhìn cái quả rực sáng ấy mà nghĩ thầm: “Loài người thật không biết giá trị của quả cam…” Tôi cũng nghĩ thầm: “Chúng ta đã đi tong rồi: đã chắc chắn như thế, nhưng tôi vẫn không hết vui… Nửa quả cam mà ta nắm chặt trong tay đây mang lại cho ta một niềm vui lớn nhất trong đời…” Tôi nằm ngửa, vừa nhấm từng tí trái cam của tôi, vừa đếm những ngôi sao băng. Tôi bắt gặp tôi có một phút cực kỳ sung sướng. Và tôi lại tự nhủ: “Thế giới cứ theo cái trật tự trong đó ta sống, nếu bản thân ta không tự khép mình trong đó, ta không thể đoán hiểu nó được.” Chỉ hôm nay tôi mới hiểu điếu thuốc và cốc rượu rum của người tử tù. Tôi không cho rằng người tù nhân chấp nhận sự khốn cùng ấy. Thế nhưng hắn ta hút và uống thú vị lắm. Hắn ta mỉm cười và người ta tưởng là hắn ta can đảm. Nhưng hắn mỉm cười vì được uống chén rượu rum. Người ta không rõ rằng, lúc đó, hắn đã thay đổi cách nhìn và hắn lấy cái giờ sau chót ấy mà coi đó là một đời người.
Chúng tôi chắt được nhiều nước: dễ đến hai lít. Thôi thế là hết khát nhé! Chúng tôi thoát rồi nhé, chúng tôi uống nước đây!
Tôi cầm cái cốc sắt múc nước trong cái bình đựng xăng, nhưng nước lại màu vàng lục rất đẹp, và ngay khi uống một ngụm, tôi đã thấy nó hăng, kinh khủng, nên dù là cơn khát giày vò tôi thì trước khi nuốt xong ngụm đó, tôi phải thở đã. Mà cái nước tôi uống nó chỉ là bùn, nhưng cái vị kim khí đã trở thành chất độc còn đáng sợ hơn cái khát của tôi.
Tôi trông thấy Prévot hai mắt cứ láo liên nhìn đất, như anh ta chăm chú tìm cái gì. Bỗng anh gập người lại và nôn, vẫn không hết láo liên. Ba mươi giây sau đến lượt tôi. Tôi quằn quại dữ đến nỗi phải quỳ xuống mà nôn, các ngón tay bíu sâu trong cát. Chúng tôi chẳng nói gì với nhau, suốt mười lăm phút liền, chúng tôi bị vật vã như vậy mà chỉ thổ ra có một tí mật.
Hết rồi. Tôi chỉ còn lờm lợm thôi. Nhưng chúng tôi đã mất cái hy vọng cuối cùng. Tôi không rõ chúng tôi thất bại là do vải dù có tẩm chất gì, hay do chất têtracloruya các bon tích bám trong cái bình đựng xăng. Phải lấy một cái bình khác hay một thứ vải vóc khác.
Thế thì nhanh lên! Trời sáng rồi! Ta lên đường thôi. Ta đi trốn khỏi cái cao nguyên ma quái này, sải bước lên, thẳng đằng trước mặt, cho đến khi ta đổ. Đây là tôi theo kinh nghiệm của Guillaumet trong dãy Andes: suốt từ hôm qua tôi đã nghĩ rất nhiều đến anh. Tôi vi phạm điều lệnh nhất thiết phải ở cạnh xác máy bay. Chẳng ma nào đến tìm chúng tôi ở đây đâu.
Một lần nữa, chúng tôi phát hiện ra chúng tôi không phải là những kẻ bị chìm đắm. Chìm đắm là những kẻ đang đợi! Những kẻ mà sự im lặng của ta đe dọa họ. Những kẻ đã bị xé rách bởi một lỗi lầm tai hại. Ta không thể không chạy đến họ. Guillaumet cũng thế, ngày ấy ở Andes về, có kể với tôi là anh chạy về phía những người chìm đắm! Đây là một chân lý có tính chất phổ thông.
“Nếu tôi chỉ có một mình ở trên đời thì tôi sẽ nằm xuống,” Prévot bảo tôi như vậy.
Và chúng tôi đi thẳng trước mặt, hướng Đông Đông Bắc. Nếu chúng tôi đã qua sông Nil rồi, mỗi bước chúng tôi sẽ đi sâu hơn vào sa mạc Ả Rập.
Về cái ngày hôm đó, tôi không còn nhớ nữa. Tôi chỉ còn nhớ sự hối hả của tôi. Hối hả hướng đến bất cứ cái gì, hướng đến sự sụp đổ của mình. Tôi cũng nhớ đã vừa bước đi vừa nhìn đất, lòng se lại bởi các ảo ảnh. Chốc chốc, chúng tôi nhìn vào la bàn mà sửa lại hướng đi. Đôi khi, chúng tôi cũng nằm duỗi ra để thở một lúc. Tôi cũng đã vứt ở đâu cái áo cao su mà tôi giữ để đắp đêm. Tôi không biết gì nữa hết. Chỉ đêm tối mát mẻ lại thì trí nhớ mới tiếp nối được với nhau. Tôi nữa, tôi cũng giống như cát vậy, và mọi vật trong tôi xóa nhòa hết.
Mặt trời lặn, chúng tôi quyết định nghỉ lại. Tôi rất biết là mình cần đi nữa: không có giọt nước nào, đêm nay nữa là mình chết. Nhưng chúng tôi có mang theo người các tấm vải dù. Nếu không phải tại chất tẩm của vải thì sáng mai có lẽ mình có cái uống. Chúng tôi phải một lần nữa, trải rộng dưới trời sao những cái bẫy hứng sương.
Nhưng mà về phương Bắc, bầu trời chiều nay không gợn mây. Nhưng mà gió, nó đã đổi vị rồi. Nó cũng đổi hướng rồi. Chúng tôi đã thấy hơi nóng của sa mạc mơn man lên da thịt. Con thú dữ đã tỉnh dậy rồi đây! Tôi cảm thấy nó đang liếm tay tôi, liếm mặt tôi.
Nhưng nếu đi nữa thì tôi chẳng đi được mười ki lô mét. Đã ba ngày nay, chẳng nước nôi gì, tôi đã lê hơn một trăm tám mươi cây…
Nhưng, ngay lúc dừng lại:
“Nhất định kia là một cái hồ?” Prévot bảo tôi.
“Cậu điên rồi!”
“Vào giờ này, lúc hoàng hôn, mà vẫn còn ảo ảnh nữa ư?”
Tôi không trả lời. Từ lâu, tôi đã mất niềm tin ở chính mắt tôi. Cái đó không phải một ảo ảnh, có lẽ mà thế thì đó là một sự bịa đặt của cơn điên của chúng tôi. Làm sao Prévot còn có thể tin được cơ chứ?
Prévot vẫn khăng khăng:
“Chừng hai mươi phút thôi, để tôi đi xem…”
Sự bướng bỉnh ấy làm tôi nổi cáu:
“Thì cậu đi mà xem, đi mà hóng gió… Sẽ bổ khỏe lắm đấy. Nhưng này, nếu có cái hồ của cậu thì nó cũng mặn, cậu nhớ cho như vậy. Và có mặn hay không, thì nó cũng là ma làm quỷ ám. Nhưng chắc chắn là không có hồ.”
Prévot, mắt đăm đăm, đã bước đi. Những cuốn hút tột bậc ấy, tôi từng biết. Và tôi, tôi nghĩ thầm: “Có những người vừa bước vừa mê ngủ và vì thế đã lao vào bánh xe lửa đấy.” Tôi biết rằng Prévot sẽ không trở về. Anh ta sẽ bị cái choáng váng ấy của trống không chụp lấy và không thể quay lại được nữa. Và anh ta sẽ ngã xuống cách đây một chút. Và anh ta sẽ chết đằng anh ta, tôi chết đằng tôi. Mọi việc đó nào có quan trọng gì lắm!…
Cái trạng thái thờ ơ đến với tôi, tôi coi như là một điềm chẳng tốt đẹp gì. Chết đến thắt lưng rồi, tôi vẫn cảm thấy êm ả như lúc đó. Nhưng tôi lợi dụng trạng thái êm ả đó để nằm dài trên các tảng đá viết một bức chúc thư. Thư của tôi rất đẹp. Rất cao quý. Tôi tuôn ra những lời dạy bảo khôn ngoan. Đọc lại, tôi cảm thấy một thích thú khoác lác mơ hồ. Người ta sẽ nói về nó: “Thật là một bức chúc thư tuyệt diệu! Tiếc quá, anh ta chết mất rồi!”
Tôi cũng muốn biết là mình đang ở giai đoạn nào. Tôi cố lấy lưỡi đưa qua đưa lại cho có một ít nước bọt: đã bao nhiêu tiếng rồi mình không nhổ nước bọt? Tôi không còn nước bọt nữa. Tôi mà ngậm miệng, một chất dính khép chặt lại môi tôi. Chất đó khô đi, làm thành, ở bên ngoài, một vành tròn cứng. Tuy vậy, tôi thử nuốt còn thấy nuốt được. Và mắt thì tuyệt chưa quáng đầy ánh sáng. Khi mà tôi được dâng tặng cái cảnh trí rực rỡ đó, ấy là tôi chỉ còn hai tiếng ở trên đời nữa mà thôi.
Đã tối rồi. Mặt trăng đã to ra, so với đêm hôm trước. Prévot không trở về. Tôi nằm ngửa, duỗi người và nghiền ngẫm những điều tất nhiên ấy. Tôi bắt gặp lại trong tôi một cảm giác cũ. Tôi tìm cách định rõ cái cảm giác ấy. Tôi… tôi là… Tôi là kẻ đi thuyền! Ngày ấy tôi đi Nam Mỹ, tôi nằm dài như thế này đây nơi boong trên. Đỉnh cột buồm xoay qua xoay lại, rất chậm, giữa đám tinh tú. Ở đây thiếu một cái buồm, nhưng tôi vẫn là kẻ đi thuyền, đến một nơi không còn tùy thuộc sự cố gắng của tôi. Những kẻ buôn người đã trói tôi và ném tôi lên một con thuyền.
Tôi nghĩ đến Prévot, Prévot không về. Tôi không hề nghe anh ta thở than một lần nào. Thật tốt. Nếu mà nghe kêu rên, thật không thể nào chịu được. Prévot là một con người.
Ôi, anh ta đang lắc cây đèn, cách tôi năm trăm mét, kìa! Anh ta lạc mất dấu vết của mình rồi! Tôi không có cây đèn nào để trả lời anh, tôi đứng lên, tôi hét nhưng anh không nghe…
Một ngọn đèn thứ hai cháy lên cách hai trăm mét ngọn đèn của anh, rồi một ngọn thứ ba. Thượng Đế ôi, rõ là một cuộc lùng sục: người ta đang tìm tôi. Tôi hét:
“Ô hê!”
Nhưng người ta không nghe.
Ba cây đèn vẫn tiếp tục làm hiệu gọi.
Tối nay, tôi có điên đâu. Tôi thấy trong người ổn lắm. Tôi thanh thản lắm. Tôi nhìn chăm chú. Cách năm trăm mét có ba ngọn đèn.
“Ô hê!”
Nhưng người ta vẫn không nghe.
Thế là một cơn hốt hoảng ngắn chụp lấy tôi. Chưa bao giờ tôi hốt hoảng cả. Ôi, tôi còn chạy được: “Đợi với… Đợi với…” Họ sắp quay đi rồi. Họ sắp đi xa đây, tìm ở nơi khác, còn tôi thì sắp ngã đây! Tôi sắp ngã ở ngay bên thềm của sự sống, và khi có những cánh tay đón ôm tôi!…
“Ô hê! Ô hê!”
“Ô hê!”
Họ nghe rồi. Tôi ngạt thở, tôi ngạt thở, nhưng tôi vẫn còn chạy. Tôi chạy về hướng có tiếng “Ồ hê!”, tôi nhìn thấy Prévot và tôi ngã.
“Ôi, thấy mấy ngọn đèn đó mình mừng quá!…”
“Đèn nào?”
Đúng: Prévot chỉ có một mình.
Lần này, tôi không mảy may thất vọng mà âm ỉ giận.
“Còn cái hồ của cậu?”
“Mình bước tới thì nó bước đi. Trong nửa tiếng đồng hồ. Mình bước tới mãi, nó đi xa mãi. Sau nửa tiếng đồng hồ, nó đi xa quá. Mình trở lại. Nhưng mình vẫn chắc chắn đó là một cái hồ…”
“Cậu điên rồi, điên hẳn rồi. Ôi, tại sao cậu lại làm thế? Tại sao chứ?”
Anh ta đã làm gì? Tại sao anh ta làm thế ư? Tôi khóc vì bất bình, và tôi không hiểu tại sao tôi bất bình. Và Prévot giảng giải cho tôi bẳng một giọng nghẹn ngào:
“Mình chỉ muốn tìm nước uống… Hai môi của cậu đã trắng bệch cả ra!”
Ra thế! Tôi vụt hết giận… Tôi đưa tay lên trán như vừa tỉnh dậy, và cảm thấy buồn. Và tôi kể lại nho nhỏ:
“ Mình có thấy, như mình thấy cậu đây, rõ rành, không thể sai được, ba ánh lửa… Mình nói quyết với cậu như vậy, Prévot!”
Prévot thoạt tiên nín thinh.
“Thôi,” sau cùng anh ta đành nói. “Thế là hỏng rồi.”
Mặt đất sẽ phát quang nhanh chóng với cái không khí không có hơi nước này. Trời đã lạnh lắm. Tôi đứng lên và đi. Nhưng tức thì tôi run lên không chịu được. Máu mất hết nước lưu thông rất khó khăn, và tôi lạnh buốt thấu xương, không chỉ là cái lạnh của ban đêm. Hai hàm tôi lập cập và khắp cơ thể co giật. Tay tôi run quá không cầm nổi cái đèn bấm nữa kia. Tôi không bao giờ nhạy cảm với cái lạnh, thế mà bây giờ tôi lại sắp chết vì lạnh, thật là phản ứng kỳ lạ của sự khát nước!
Tôi đã đánh rơi đâu đó cái áo cao su, vì trời nắng mà phải mặc nó thì mệt quá. Thêm gió dần dần mạnh lên. Và tôi nhận ra rằng, trong sa mạc, chẳng có chỗ nào ẩn náu cả… Sa mạc phẳng lì như là cẩm thạch. Ban ngày không có bóng râm, ban đêm phó anh trần trụi trong gió. Không một cái cây, không một bờ rào, không một tảng đá có thể ẩn nấp. Gió bắn vào tôi như một đội kị binh giữa khoảng đất trống. Tôi xoay mòng mòng hòng tránh gió. Tôi nằm xuống đứng lên. Nằm xuống hay đứng lên đều bị ngọn roi băng giá ấy quất. Tôi không chạy được, không còn sức, tôi không thể trốn khỏi bọn sát nhân và tôi ngã quỵ, hai tay bưng lấy mặt, phía sau một lưỡi gươm!
Ít lâu về sau, tôi biết cái tình thế ấy, tôi đứng lên, tôi đi thẳng phía trước mặt, người vẫn rét cóng. Tôi ở đâu đây? Ôi mình vừa mới bước đi mà Prévot gọi mình kia! Những tiếng gọi ấy làm tôi tỉnh lại…
Tôi đi tới chỗ Prévot, người vẫn run, giật bắn toàn thân. Tôi bảo tôi: “Không phải do lạnh đâu. Do cái khác. Hết rồi đấy.” Tôi đã mất nước nhiều quá. Tôi đã đi nhiều quá, hôm kia, và hôm qua, khi tôi đi một mình.
Tôi thấy cực lòng phải kết thúc cuộc đời bằng cơn rét run. Những ảo tưởng bên trong tôi, tôi thấy thích hơn. Cây thánh giá ấy, những người Ả Rập ấy, những ngọn đèn ấy. Sau rốt, cái đó bắt đầu làm cho tôi chú ý. Tôi không ưa bị roi quất như một kẻ nô lệ…
Nhưng tôi lại quỵ lần nữa.
Chúng tôi có mang theo một ít thuốc. Một trăm gam ê te nguyên chất, một trăm gam cồn 90 và một lọ i ốt. Tôi uống thử vào ba hớp ê te nguyên chất. Như là nuốt dao sắc vậy thôi. Rồi uống một ít cồn 90 nhưng cồn làm tắc họng tôi.
Tôi moi một cái hố trong cát, tôi nằm xuống hố và phủ cát lên người. Chỉ còn hở có cái mặt. Prévot tìm thấy một số cành nhỏ, anh dùng đốt lên một ngọn lửa chóng tàn. Prévot không chịu chôn người dưới cát như tôi. Anh cho là nhảy lúp xúp tại chỗ thì hơn. Anh nhầm.
Cổ họng tôi vẫn thít lại, đó là dấu hiệu xấu, tuy vậy, tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi thấy lòng thanh thản. Tôi thấy lòng tôi thanh thản vượt quá ước mong. Dù không muốn nhưng tôi cũng phải dấn vào cuộc hành trình, tôi bị trói trên boong một con thuyền của lũ buôn người dưới trời sao. Nhưng có lẽ tôi không đau khổ lắm…
Tôi không còn thấy lạnh, miễn là chớ nhúc nhích cơ chân cơ tay gì. Thế đó, tôi bỏ quên cái thân thể tôi ngủ thiếp trong cát. Tôi sẽ không cử động nữa, và như vậy, tôi không bao giờ đau đớn nữa. Và thật ra, con người ta đau khổ ít quá… Đằng sau tất cả những dằn vặt đó, có sự phối hợp của mệt nhọc và điên rồ. Rồi tất cả bây giờ biến thành sách ảnh, thành truyện thần tiên có hơi tàn bạo… Lúc nãy, ngọn gió săn rượt tôi, và để tránh nó tôi cứ chạy vòng quanh như một con vật. Rồi tôi thấy khó thở: một cái đầu gối đè lên ngực tôi. Một cái đầu gối. Và tôi vùng vẫy để gạt ra sức nặng của thiên thần. Tôi không bao giờ một mình trong sa mạc cả. Bây giờ lúc mà tôi không còn tin ở điều gì quanh tôi nữa, tôi rút vào trong tôi, tôi nhắm mắt và một cái mi mắt tôi cũng không động đậy nữa. Tất cả những hình ảnh cuồn cuộn ấy cuốn tôi đi, tôi cảm thấy thế, đến một giấc mơ êm ả: những dòng sông bình lặng đi vào bề dày của biển.
Từ biệt, các người mà tôi mến yêu. Không phải lỗi tại tôi nếu như thân thể con người không chịu đựng được ba ngày không uống. Có bao giờ tôi nghĩ rồi mình là tù nhân của các giếng nước thế này đâu. Tôi không ngờ sự tự cai quản lấy mình nó ngắn ngủi như vậy. Ta tưởng con người có thể thẳng tới đằng trước. Ta tưởng con người tự do. Ta không nhìn thấy sợi dây thừng buộc con người vào cái giếng, buộc anh ta, như một cái dây rốn vào bụng của đất. Anh ta mà bước đi nữa, anh ta sẽ chết.
Ngoài sự đau khổ của các người ra, tôi chẳng tiếc gì hết. Thanh toán mọi bề, tôi là người được phần hơn. Nếu tôi còn trở về, tôi lại sẽ bắt đầu trở lại. Tôi cần sống. Trong các thị thành, không còn có sự sống con người.
Đây không phải là nghiệp máy bay. Máy bay, nó không phải là mục đích, nó là phương tiện. Không phải vì chiếc máy bay mà người ta liều cuộc sống người ta. Cũng không phải vì cái cày mà người nông dân cày. Nhưng bằng chiếc máy bay, người ta xa rời các thị thành với bọn kế toán của thị thành và người ta lại tìm thấy một chân lý nông dân.
Ta làm một công việc tính người và ta biết được những lo âu tính người. Ta tiếp xúc với gió, với sao, với đêm, với cát, với biển. Ta mưu mẹo đối với cái sức mạnh tự nhiên. Ta đợi hừng đông như kẻ làm vườn đợi mùa xuân. Ta đợi trạm nghỉ như là một thứ Đất Hứa, và ta tìm sự thật của ta trong các vì sao.
Tôi sẽ không than thở đâu. Ba ngày nay tôi đã đi, tôi đã khát, tôi đã bước theo những lối mòn trên cát, tôi đã lấy sương đêm làm niềm hy vọng của mình. Tôi đã tìm cách trở về với đồng loại của tôi, tôi đã quên nơi cư trú của đồng loại của tôi trên mặt đất. Và đó là những lo âu của những con người còn sống. Tôi không thể cho những lo âu ấy là ít quan trọng hơn việc tôi quyết định đi xem ca vũ vào buổi tối.
Tôi không hiểu được nữa những đám người trên các chuyến xe lửa ngoại ô, những con người ấy vẫn tự cho mình là người, thế mà, do một sự dồn ép họ không cảm thấy, họ thu mình lại như những con kiến, với công dụng của kiến. Khi họ được tự do, họ lấy những việc gì chứa cho vừa những ngày Chủ nhật nhỏ nhoi vô lý của họ?
Một hôm ở Nga, tôi có nghe chơi nhạc Mozart trong một nhà máy. Tôi có viết ca ngợi việc ấy. Tồi nhận được hai trăm bức thư chửi rủa. Tôi không giận những kẻ không thích nhạc bằng tiếng bò rống. Họ có biết bài hát nào khác bò rống đâu. Tôi giận là giận anh chủ quán nhạc bình dân bò rống. Tôi không thích việc làm tì ố những con người.
Tôi, tôi thấy hạnh phúc trong nghề nghiệp của mình. Tôi cảm thấy mình là nông dân của các trạm nghỉ. Trong chuyến tàu ngoại ô, tôi cảm thấy phút hấp hối của mình khác hẳn ở đây. Ở đây, thanh toán hết mọi việc, thật là sang trọng!…
Tôi không tiếc gì hết. Tôi đã chơi và đã thua. Ấy là theo phép tắc nghề nghiệp tôi. Nhưng dẫu sao ngọn gió của biển, tôi cũng hít thở được nó.
Những kẻ nào đã một lần nếm thì không thể nào quên cái thức ăn đó. Phải không, các bạn của tôi? Mà vấn đề không phải là sống một cách gian nguy. Cái công thức này là tự cao tự đại. Tôi không ưa những anh đấu bò tót. Không phải là hiểm nguy mà tôi ưa. Tôi biết tôi ưa cái gì. Cái đó là cuộc sống.
Tôi thấy trời như trắng dần ra. Tôi rút một tay ra khỏi cát. Tôi có một mảnh vải dù ở tầm tay, tôi nắn xem, nhưng nó khô nguyên. Ta đợi vậy. Sưong sa vào lúc bình minh. Song bình minh lại trắng dần ra mà không thấm ướt quần áo chúng tôi. Thế là những suy ngẫm của tôi có rối rắm một chút và tôi nghe thấy mình nói: “Ở đây có một trái tim khô… một trái tim khô… một trái tim khô không bao giờ biết làm nên những giọt lệ!…”
“Lên đường, Prévot! Họng chúng ta chưa bị tắc: ta phải bước đi!”
o O o
Ngọn gió Tây làm khô người trong mười chín tiếng đồng hồ, ngọn gió ấy đang thổi. Thực quản tôi chưa bị tắc hẳn, nhưng nó rắn và đau. Tôi đoán ở đó có cái gì tổn thương. Rồi bắt đầu cái ho đó, mà người ta có tả cho tôi nghe, mà tôi chờ đợi. Lưỡi tôi sướng to, vướng víu. Nhưng nghiêm trọng nhất là tôi đã nhìn thấy những vệt sáng chói. Khi nào các vệt đó biến thành ngọn lửa, tôi sẽ nằm xuống.
Chúng tôi đi nhanh. Cần tận dụng không khí mát mẻ khi trời còn mờ sáng. Chúng tôi biết rằng đến lúc trời nắng to, theo như người ta nói, chúng tôi sẽ không đi nữa. Dưới trời nắng to…
Chúng tôi không được ra mồ hôi. Cũng không được đợi. Cái mát mẻ này chỉ là cái mát mẻ mười tám phần trăm ẩm. Ngọn gió đang thổi đây là từ sa mạc tới. Và dưới cái mơn trớn giả dối và dịu đàng của nó, máu chúng tôi bốc hơi.
Chúng tôi có ăn một ít nho ngày đầu. Ba ngày nay, một nửa quả cam và một nửa chiếc bánh ngọt. Với nước bọt nào chúng tôi có được để nhai thức ăn đó? Nhưng tôi chẳng thấy đói, tôi chỉ thấy khát. Và dường như là từ nay, tôi cảm thấy khát ít hơn là thấy những hậu quả của khát. Cái họng cứng này. Cái lưỡi như bằng thạch cao này. Cái bỏng rát và cái vị kinh khủng ở trong miệng. Những cảm giác đó xảy ra cho tôi mới đây thôi. Hẳn nước sẽ chữa được các chứng ấy, nhưng tôi chẳng có kỷ niệm nào gán được thuốc ấy vào các chứng ấy. Cái khát dần dần trở nên một bệnh, và ngày càng ít là một nỗi thèm.
Dường như là các giếng nước và trái quả lúc này dâng cho tôi những hình ảnh bớt giằng xé hơn. Tôi quên bóng sáng tỏa ra từ trái cam cũng như tôi có vẻ đã quên những niềm thương mến của mình. Có lẽ tôi đã bắt đầu quên hết.
Chúng tôi đang ngồi, nhưng phải tiếp tục đi.
Chúng tôi thôi không đi những chặng dài nữa. Cứ năm trăm mét là chúng tôi lại đổ ra vì mệt. Và tôi cảm thấy thật vui được nằm dài. Nhưng lại phải đi tiếp.
Cảnh vật biến đổi. Đá trở nên rải rác. Chúng tôi bây giờ đi trên cát. Hai cây số trước mặt chúng tôi, những đụn cát. Trên các đụn đó, vài vạt cỏ đế. Tôi thích cát hơn cái áo giáp thép kia. Đó là sa mạc màu vàng. Đó là Sahara. Tôi tưởng nhận ra nó…
Bây giờ, hai trăm mét chúng tôi đã kiệt sức.
“Chúng ta cố gắng đi ít ra là đến chỗ các bụi cây con kia.”
Đó là giới hạn tối đa. Sau này đi xe soát lại, khi chúng tôi đi ngược các đấu vết của mình để tìm 1 chiếc Simoun, tám ngày sau, chúng tôi thấy sự mưu toan cuối cùng này là tám mươi cây số. Như vậy là tôi đã đi ngót hai trăm. Làm sao tôi đi tiếp được?
Hôm qua, tôi đi không hy vọng. Hôm nay, các tiếng ấy đã mất nghĩa của chúng. Hôm nay chúng tôi bước đi vì chúng tôi bước đi. Chắc những con bò trong lúc cày cũng như vậy. Hôm qua tôi mơ màng những thiên đường vườn cam. Nhưng hôm nay, đối với tôi, chẳng còn thiên đường nào. Tôi không còn tin ở sự tồn tại của những quả cam.
Tôi không phát hiện ra điều gì ở tôi nữa hết, ngoài một sự khô ráo cùng cực của trái tim. Tôi sắp ngã và tôi không mảy may biết tới sự thất vọng. Tôi cũng hầu như không thấy khổ. Tôi tiếc lại là như vậy, vì nỗi buồn tủi có thể dịu ngọt cũng như nước. Ta thương hại ta và ta phàn nàn như một người bạn thân. Nhưng trên đời tôi không còn có bạn thân.
Khi về sau người ta tìm thấy tôi; hai mắt cháy bỏng, người ta sẽ tưởng tượng là tôi đã thét gọi nhiều và tôi đã đau khổ lắm. Nhưng mà những bồng bột, nhưng mà những tiếc nuối, nhưng mà những đau khổ dịu dàng, chúng vẫn là của cải giàu sang. Còn tôi, tôi không còn của cải nữa. Các cô gái tươi thắm, vào buổi tàn héo của mối tình đầu, biết thế nào là tủi buồn và khóc. Tủi buồn gắn chặt với những rung động của cuộc sống. Còn tôi, tôi không buồn tủi nữa…
Sa mạc là tôi. Tôi không cách nào làm cho có nước bọt nữa, tôi cũng không cách nào hợp thành nữa những hình ảnh dịu dàng để hướng về chúng, tôi sẽ có thể rên lên. Mặt trời đã làm khô cạn trong tôi nguồn suối nước mắt.
Thế nhưng tôi nhác thấy điều gì vậy? Một hơi thở hy vọng lướt qua người tôi như một chút gió nhẹ trên biển. Cái dấu hiệu vừa tới báo động cho linh tính tôi trước khi đánh vào tri giác tôi, dấu hiệu đó nó là cái gì? Không có gì là đã đổi thay, thế nhưng tất cả đều thay đổi. Tấm thảm cát này, các gò đống này và các mảng lá xanh nhẹ nhàng này không còn cấu thành một cảnh trí mà là một sân khấu. Một sân khấu còn trống, nhưng mọi cái chuẩn bị rồi. Tôi nhìn Prévot. Anh ta cũng sửng sốt như tôi, nhưng anh ta cũng không hiểu anh ta cảm thấy cái gì.
Quyết là có một cái gì sắp xảy ra…
Quyết là sa mạc đã bừng lên. Quyết là sự vắng vẻ này, sự lặng lẽ này đột nhiên trở nên cảm động hơn tiếng xôn xao của một quảng trường…
Chúng tôi thoát rồi, có vết trên cát đây này!…
Ôi! Chúng tôi đã lạc mất lối vẫn đi của giống người, chúng tôi tách lìa bộ lạc, chúng tôi thấy chi còn chơ vơ có hai đứa trên đời, bị đại đồng cư trú lãng quên, và đột nhiên, chúng tôi phát hiện, in trên mặt cát, những dấu chân kỳ diệu của con người.
“Chỗ này, Prévot ơi, hai người đi hai ngả…”
“Chỗ này, một con lạc đã quỳ…”
“Chỗ này…”
Và tuy vậy, chúng tôi thật vẫn còn chưa thoát. Đợi chờ không thôi chưa đủ. Trong vài tiếng đồng hồ nữa, người ta sẽ không cứu được chúng tôi. Cơn khát một khi đã bắt đầu, một khi đã ho, thì sẽ đi nhanh lắm. Và họng chúng tôi…
Nhưng mà tôi tin ở đoàn người và lạc đà này, nó đung đưa đâu đó trong sa mạc.
Thế là chúng tôi đi tiếp và bỗng nhiên tôi nghe có tiếng gà gáy. Guillaumet từng nói với tôi: “Vào lúc cuối cùng, tôi nghe gà gáy trên dải Andes. Tôi cũng nghe tiếng xe lửa…”
Tôi nhớ câu chuyện anh kể vào đúng lúc gà gáy và tôi nghĩ thầm: “Mắt mình nó lừa mình trước tiên! Đó chắc chắn là hậu quả của cơn khát. Tai mình chịu đựng tốt hơn…” Nhưng Prévot chộp lấy cánh tay tôi!
“Anh nghe gì không?”
“Gì?”
“Tiếng gà!”
“Vậy là… Vậy là…”
Hẳn chứ, đồ ngốc, vậy là ta sống…
Tôi bị một ảo giác cuối cùng nữa: tưởng có ba con chó đuổi nhau. Prévot cũng nhìn nhưng chẳng thấy gì… Nhưng chúng tôi, cả hai đứa dang tay đón người Bedouin kia. Chúng tôi hai đứa hướng về anh ta dùng hết hơi thở cuối cùng của lồng ngực mình. Chúng tôi hai đứa cười lên sung sướng!…
Nhưng giọng nói chúng tôi không vang quá ba mươi mét. Các dây thanh đới đã khô rồi. Chúng tôi thật ra thì thào khi nói với nhau mà cũng không biết là như thế!
Nhưng mà người Bedouin và cơn lạc đà vừa ló dạng ra sau một gò đất kia, kia! Người Bedouin và con lạc đà ấy chậm rãi, chậm rãi đi ra xa. Có lẽ chỉ có mỗi người đó. Một con qủy tàn ác nào vừa chỉ cho chúng tôi nhìn thấy anh ta thì tức khắc lại rút anh ta về…
Mà chúng tôi thì không thể nào chạy được nữa!
Một người Ả Rập khác thấy đang đứng nghiêng trên đụn cát. Chúng tôi gào lên nhưng tiếng không thoát khỏi miệng. Thế là chúng tôi đưa tay lên vẫy, và chúng tôi có cảm giác như mình phóng đi đầy trời những tín hiệu bao la. Nhưng người Bedouin ấy vẫn nhìn về phía phải…
Và, bây giờ, không vội vàng, anh ta bắt đầu xoay người một chút. Anh ta mà xoay hẳn mặt về phía này, cái giây ấy tức mọi việc xong xuôi. Cái giây anh ta sẽ nhìn phía chúng tôi, đúng lúc đó anh ta xóa bỏ được trong chúng tôi cái khát, cái chết và các ảo ảnh. Anh ta chỉ mới xoay mình có một tí, tí chút đó đã đủ thay đổi thế giới rồi. Chỉ với sự vận động của ngực anh, chỉ với mắt anh dạo tìm, anh đã đủ sáng tạo ra sự sống, và đối với tôi, anh giống như một vị thần…
Thật là một sự kì diệu… Anh ta đi về phía chúng tôi, trên mặt cát, như một vị thần trên bể…
Người Ả Rập chỉ nhìn qua thôi. Anh ta đạt hai tay ấn vai chúng tôi xuống và chúng tôi đã vâng theo. Chúng tôi duỗi dài. Ở đây chẳng còn màu da, tiếng nói, phân biệt nữa… Chỉ có con người du mục nghèo này, anh ta đã đặt lên vai chúng tôi những bàn tay thiên thần.
Chúng tôi úp trán vào cát mà chờ đợi. Và bây giờ chúng tôi nằm sấp mà uống, đầu vục trong chậu giống như con bê. Người Bedauin sợ, buộc chúng tôi tôi chốc chốc phải nghỉ một tí. Nhưng hễ anh ta buông ra là chúng tôi lại úp mặt vào trong nước.
Nước!
Nước ơi, mày có vị gì đâu, hương gì đâu, sắc màu gì đâu, không ai định rõ được mày, người ra thưởng thức mày, mà chẳng rõ mày. Mày không phải là cần thiết cho cuộc sống: mày là cuộc sống. Mày đi vào ta bằng một thích thú không thể giải thích được bằng giác quan. Có mày, tất cả những quyền lực mà chúng ta từ bỏ vụt trở về. Bằng ân huệ của mày, lại mở lại trong ta tất cả những nguồn suối đã cạn của trái tim ta.
Mày là sự giàu sang lớn nhất trên thế giới, và mày cũng tế nhị nhất, mày trong sạch vậy trong bụng Trái đất. Người ta có thể chết bên một cái hồ nước mặn. Người ta có thể chết mặc dầu có hai lít sương trong đó sót một tí cặn hóa chất. Mày không chấp nhận sự trộn lẫn nào, mày không chịu nổi một biến chất nào, mày là một vị thần linh dễ tự ái…
Nhưng mày lan tỏa trong chúng ta một hạnh phúc vô cùng giản dị.
Còn anh là người cứu sống chúng tôi, anh bạn Bedouin của xứ Libya ơi, vậy mà anh xóa nhòa đi mãi mãi trong trí nhớ tôi. Tôi sẽ không bao giờ còn nhớ khuôn mặt anh nữa. Anh là Con Người và anh hiện ra trước mặt tôi cùng một lúc với khuôn mặt của tất cả những con người. Anh đã không hề nhìn tận mặt chúng tôi thế mà đã nhận ra chúng tôi. Anh là người anh em yêu dấu. Và, đến phiên tôi nhận ra anh trong tất cả những con người.
Anh hiện ra với tôi, đẫm đầy cao thượng và hào hiệp, vị đại thần có quyền lực cho người ta uống. Cùng với anh, tất cả bạn thân tôi, tất cả kẻ thù tôi đi về phía tôi, và trên đời, tôi không còn có một kẻ thù nào nữa.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Xứ Con Người
Antoine de Saint Exupéry
Xứ Con Người - Antoine de Saint Exupéry
https://isach.info/story.php?story=xu_con_nguoi__antoine_de_saint_exupery