VII - Các Lời Khai Khác Biệt
âu hỏi đầu tiên. Có cái hộp nào ở trên bàn không? Nếu có, hãy miêu tả nó. Cô Wills?”
Khóe miệng vốn ôn hòa của Marjorie trở nên nghiêm nghị. Cô vẫn đang giữ đôi mắt gắn chặt vào Elliot, và đôi mắt ấy đang thể hiện sự tức giận.
“Nếu anh nói đây là chuyện quan trọng, vậy tôi sẽ trả lời,” cô nói với anh. “Nhưng không phải việc này khá rùng rợn sao? Ngồi đây và hỏi những câu như thể chúng ta đang chơi một trò chơi, với bác ấy…” Cô nhìn về hướng những cánh cửa đóng kín và lại quay đi lần nữa.
“Chuyện này rất quan trọng, cô Wills. Có cái hộp nào ở trên bàn không? Nếu có, hãy miêu tả nó.”
“Dĩ nhiên là có một cái hộp ở trên bàn. Nó nằm ở phía bên tay phải của bác Marcus, quay mặt về phía trước. Một hộp sô cô la caramel khối lượng hai pound của hãng Henry. Tôi không thấy nhãn, vì lúc đó tôi đang ngồi, nhưng tôi biết đó là sô cô la caramel của Henry bởi chiếc hộp có in hoa màu xanh lá cây sáng trên vỏ ngoài.”
George Harding quay lại và nhìn cô gái.
“Vô lý,” anh ta nói.
“Cái gì vô lý?”
“Màu sắc của những bông hoa,” Harding nói. “Anh không biết nhiều về sô cô la, và anh đồng ý đó là một cái hộp khối lượng hai pound, và nó có hoa văn ngoài vỏ. Nhưng những bông hoa không phải màu xanh lá cây sáng. Chúng có màu xanh dương đậm. Chắc chắn là màu xanh dương.”
Biểu cảm của Marjorie không hề thay đổi gì cả. Cô quay đầu với vẻ kiêu hãnh và duyên dáng cổ điển. “Anh yêu, dù anh có không làm phiền và khiến em muốn la ó thì tối nay cũng đã đủ tệ hại lắm rồi. Làm ơn đừng như vậy nữa. Những bông hoa đó màu xanh lá cây. Đàn ông luôn nhầm lẫn màu xanh lá với xanh dương. Đừng, đừng, đừng đùa quá trớn, không phải tối nay.”
“Ồ, được rồi, nếu em đã nói vậy,” Harding nói với vẻ hối lỗi pha chút hờn dỗi. “Không, nếu như thế thì quá lắm!” anh ta nói thêm một cách tràn trề hi vọng. “Chúng ta có trách nhiệm phải nói thật. Những bông hoa đó có màu xanh dương, màu xanh dương đậm, và…”
“Anh yêu…”
“Khoan đã,” Elliot thình lình xen vào. “Giáo sư Ingram nên giải quyết vấn đề này. Thế nào, thưa ông? Màu nào mới đúng?”
“Cả hai bọn họ đều đúng,” Ingram trả lời, bắt chéo đôi chân mập mạp của mình một cách nhàn nhã. “Và vì vậy, cùng lúc đó, cả hai bọn họ đều sai.”
“Nhưng cả hai chúng cháu không thể nào cùng sai được!” Harding phản đối.
“Tôi nghĩ hai đứa hoàn toàn có thể,” giáo sư Ingram nói một cách lịch sự. Ông quay sang Elliot. “Thanh tra, tôi đang kể với anh về sự thật theo nghĩa đen. Bây giờ tôi có thể giải thích, nhưng tôi muốn chờ một chút nữa. Một trong số những câu hỏi tiếp theo sẽ giải thích cho việc này.”
Elliot ngẩng đầu lên.
uLàm sao ông biết những câu hỏi tiếp theo là gì, thưa ông?” anh hỏi.
Có một sự im lặng dường như vừa chui ra và lan tỏa rộng khắp, như thể mọi ngóc ngách của căn phòng này đều bị nó lấp đầy. Qua những cánh cửa đóng kín, bạn hầu như tưởng tượng ra mình đang nghe được tiếng đồng hồ tích tắc trong phòng làm việc.
“Dĩ nhiên là tôi không biết,” giáo sư Ingram ôn tồn đáp lời. “Tôi chỉ đang đơn thuần chờ mong một câu hỏi chắc chắn sẽ xuất hiện trong danh sách này thôi.”
“Ông đã bao giờ nhìn thấy danh sách này trước đây chưa, thưa ông?”
“Chưa. Thanh tra, vì Chúa, lúc này làm ơn đừng cố làm tôi rối lên với những chuyện lặt vặt như vậy. Tôi là một con ngựa chiến, một kẻ lừa đảo giàu kinh nghiệm, một ông bầu đứng sau màn bạc. Những thủ thuật đó đều là những trò cũ rích với tôi, tôi từng tự mình làm thử chúng hàng ngàn lần trong các lớp học. Tôi biết chính xác cách chúng hoạt động. Nhưng, chỉ vì tôi không thể bị chúng qua mặt, đừng rơi vào cái bẫy mà tôi đang cố đánh lừa anh. Nếu tiếp tục những câu hỏi trong danh sách đó, anh sẽ thấy chính xác ý nghĩa của điều tôi đang nói.”
“Cái hộp có màu xanh lá,” Marjorie nói với đôi mắt khép hờ nhìn cố định trên một góc trần nhà. “Màu xanh lá, xanh lá, chắc chắn là xanh lá. Làm ơn tiếp tục đi.”
Elliot cầm cây bút chì của mình lên.
“Vậy tiếp theo là câu hỏi thứ hai. Tôi đã cầm từ bàn lên những đồ vật nào? Theo thứ tự ra sao? Ông Chesney,” anh diễn giải lại câu hỏi, “từ khi bắt đầu ngồi xuống, đã cầm những đồ vật nào từ bàn lên, và cầm lên theo thứ tự thế nào? Cô Wills?”
Marjorie lập tức trả lời.
“Tôi đã kể với anh về điều đó rồi mà. Sau khi ngồi xuống bác ấy cầm lên một cây bút chì, và giả vờ như viết gì đó lên miếng thấm mực, rồi đặt cây bút chì xuống. Sau đó bác ấy cầm bút mực lên, và cũng giả vờ như dùng nó để viết. Bác ấy đặt nó xuống ngay trước khi thứ trong chiếc mũ chóp cao bước vào.”
“Anh thì sao, anh Harding?”
“Vâng, đúng vậy,” Harding thừa nhận. “Ít nhất, phần đầu tiên thì đúng là vậy. Ông ấy đã cầm một cây bút chì lên – một loại bút chì màu hơi xanh hoặc đen – và đặt nó xuống. Nhưng đồ vật thứ hai ông ấy cầm không phải một cây bút mực. Đó là một cây bút chì khác, cùng màu nhưng khác chiều dài.”
Marjorie lại quay đầu lại lần nữa. “George,” cô nói mà giọng vẫn không có sự biến đổi nào, “anh cố ý làm điều này để hành hạ em đấy à? Làm ơn đi, em thực sự muốn biết. Anh cứ phải phản đối mọi điều em nói mới được hả?” Sau đó cô thét lên: “Em biết đó là một cây bút chì. Em đã thấy ngòi bút, và đầu của cây bút mực, nó màu đen hay xanh gì đó. Một cây bút nhỏ. Làm ơn đừng tiếp tục cố gắng…”
“Ồ, nếu em nghĩ vậy,” Harding nói với vẻ bị tổn thương lòng kiêu ngạo. Anh ta quay đôi mắt chỉ có một biểu cảm duy nhất về phía cô. Và với sự bực mình cùng cực trào lên trong người Elliot, biểu cảm của cô gái thay đổi và trở nên lo lắng. Trong tâm trí của Elliot đang có một bức tranh về một cặp tình nhân, trong đó vẻ quyến rũ nam tính của Harding đang lan truyền sự độc tài của nó đến một người phụ nữ thông minh nhưng tha thiết, và nó đang chơi một trò chơi đầy mưu ma chước quỷ.
“Tôi xin lỗi,” Marjorie nhìn anh. “Cũng không có gì khác cả, đó vẫn là một cây bút.”
“Một cây bút chì.”
“Ông nói sao, giáo sư Ingram. Bút mực hay bút chì?”
“Trên thực tế,” người giáo sư đáp, “nó không phải là cả hai thứ ấy.”
“Thật sao trời!” thiếu tá Crow thì thầm một cách mệt mỏi.
Giáo sư Ingram giơ tay lên.
“Anh không thấy sao?” ông hỏi. “Anh không hiểu rằng tất cả những thứ này đều là bẫy rập và mẹo lừa cả sao? Vậy các anh còn mong đợi điều gì nữa chứ?” Giọng ông nghe có vẻ hơi khó chịu. “Đơn giản là Marcus đã thiết lập một trong những cái bẫy thông thường cho mọi người, và họ đã bị sụp hố. Đầu tiên, như hai người kia đã nói khá chính xác, ông ấy cầm lên một cây bút chì thường và giả vờ như đang dùng nó viết gì đó. Việc này đã điều chỉnh suy nghĩ của mọi người. Sau đó ông ấy nhấc một vật không phải là bút mực hay bút chì lên (mặc dù nó có kích thước và hình dạng hoàn toàn không hề giống bút chì), và giả vờ viết nó. Mọi người ngay lập tức bị ảo giác tâm lí rằng mình đang nhìn thấy một cây bút mực hay một cây bút chì. Dĩ nhiên thứ ông ấy cầm lên hoàn toàn không phải cả hai thứ đó.”
“Vậy nó là gì?” Elliot hỏi.
“Tôi không biết.”
“Nhưng…”
Đôi mắt chân thành của Ingram lóe lên. “Bình tĩnh nào, thanh tra. Để tôi nói hết đã!” ông đề nghị bằng chất giọng hơi thiếu chuyên nghiệp. “Tôi đã đảm bảo sẽ nói cho anh biết cái bẫy nằm ở đâu. Tôi cũng đã đảm bảo sẽ chỉ ra những chỗ khiếm khuyết của màn trình diễn. Nhưng tôi không hề cam kết sẽ nói với anh về đồ vật ông ấy cầm lên. Và tôi thừa nhận chính tôi cũng chẳng biết đó là gì nữa.”
“Nhưng ông không thể mô tả nó sao?”
“Trong một chừng mực nào đó thì, có.” Giáo sư dường như đang rất bực mình. “Một thứ gì đó giống cây bút mực, nhưng mỏng và nhỏ hơn, màu xanh dương thẫm, tôi nghĩ vậy. Tôi có nhớ Marcus đã gặp vài khó khăn trong quá trình nhấc nó lên.”
“Phải, thưa ông, nhưng nhìn nó tương tự như loại vật thể nào?”
“Tôi không biết. Đó là việc đang quấy rầy tôi đây. Nó… Khoan đã!” Nói tới đây hai tay của Ingram nắm chặt quanh tay vịn của chiếc ghế đang ngồi, và ông cố gắng giữ tự chủ như thể ông sẽ nhảy khỏi ghế nếu không làm vậy. Sau đó sự nhẹ nhõm hoặc vài cảm xúc khác quét qua khuôn mặt ông. Ông buông lỏng cơ thể cùng tiếng whoosh và nắm chặt lấy ý tưởng đó. “Tôi biết rồi,” ông nói thêm. “Giờ tôi biết nó là gì rồi.”
“Vâng, thưa ông?”
“Nó là một cái cái phi tiêu của ống thổi.”
“Cái gì cơ?”
“Tôi nghĩ vậy,” giáo sư nói với bọn họ, như thể đã vượt qua được một rào cản cực lớn. “Chúng tôi có một số phi tiêu ống thổi ở Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên ở trường đại học. Chúng dài dưới ba inch, làm bằng vụn gỗ mỏng, màu đen, có đầu nhọn nhô ra. Của người Nam Mỹ hoặc người Mã Lai hoặc người Borneo hay vùng nào đó giống giống vậy. Khái niệm địa lí của tôi lúc nào cũng loạn hết cả lên.”
Elliot nhìn Marjorie. “Bác của cô có cái ống thổi phi tiêu nào trong nhà không, cô Wills?”
“Không, chắc chắn là không. Ít nhất, tôi chưa từng nghe về nó.
Thiếu tá Crow hứng thú xen vào. “Ý anh là,” ông nói với giáo sư Ingram, “một chiếc phi tiêu có tẩm độc?”
“Không, không, không, không nhất định. Tôi nghi ngờ rằng, ở đây, chúng ta đã có một ví dụ tuyệt vời về cách trí tưởng tượng ảnh hưởng tới suy nghĩ cá nhân của con người, ảnh hưởng đó sâu đến mức không ai trong chúng ta có thể nhớ được những thứ mình đã thấy. Trong thoáng chốc có người nhớ ra rằng anh ấy từng thấy phi tiêu tẩm độc, và rồi chúng ta sẽ bị ý tưởng đó dẫn đến nơi nào khác. Hãy kiểm soát bản thân!” Ingram nói. Ông lấy hơi, và làm một cử chỉ dang rộng tay ra. “Tất cả những gì tôi nói là tôi đã thấy thứ gì đó trông như một cái phi tiêu ống thổi. Đã rõ ràng chưa? Vậy tiếp tục với mấy câu hỏi đi.”
George Harding gật đầu.
“Đúng vậy,” anh ta tán thành. Và Elliot ngạc nhiên thấy trên khuôn mặt anh ta xuất hiện ánh nhìn tò mò khi Harding liếc về phía giáo sư. Nó biến mất trong nháy mắt, nhanh đến nỗi Elliot cũng không kịp nắm bắt được gì. “Chúng tôi dường như không thể đồng ý với nhau hơn được nữa. Hãy tiếp tục với những câu hỏi đi.”
Elliot ngần ngừ. Anh vừa nảy ra một ý kiến mới, và anh muốn đào sâu vào đó. Nhưng chuyện đó không cần phải vội.
“Câu hỏi tiếp theo,” anh nhìn bản danh sách, “có lẽ đề cập đến sự xuất hiện của nhân vật mặc đồ ngụy trang đi vào qua chiếc cửa sổ kiểu Pháp. Dù vậy, cứ hiểu theo cách mọi người muốn. Lúc đó là mấy giờ?”
“Nửa đêm,” Marjorie nói ngay.
“Khoảng nửa đêm,” George Harding cũng thừa nhận.
“Nói một cách chính xác tuyệt đối,” giáo sư Ingram nói, đặt hai lòng bàn tay lại cùng nhau, “thì lúc đó chỉ còn một phút nữa là đến nửa đêm.”
Nói đến đây ông dừng lại như thể đang dò hỏi, và Elliot đưa ra thắc mắc mà ông dường như đang trông đợi.
“Vâng, thưa ông. Nhưng tôi có một câu hỏi riêng. Ông thực sự biết rằng lúc đó là mười hai giờ kém một phút nhờ nhìn đồng hồ đeo tay, hay ông biết lúc đó là mười hai giờ kém một phút nhờ chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi trong văn phòng? Tôi biết bây giờ chiếc đồng hồ đó chạy chính xác, nhưng ngay lúc ấy nó có chạy đúng không?”
Giáo sư Ingram nói một cách khô khan.
“Tôi cũng đã tự đặt ra câu hỏi đó,” ông nói. “Tôi đã băn khoăn không biết liệu Marcus có thể nào can thiệp vào chiếc đồng hồ và thay đổi thời gian để tạo thử thách cho chúng tôi không, bởi vì như thế thì sau này chúng tôi sẽ thề rằng thời gian trên chiếc đồng hồ lúc đó là thật. Nhưng tôi nghĩ không có sự gian lận nào ở đây cả.” Một lần nữa, trông ông ấy có vẻ bực mình. “Theo quy tắc thì một loại mẹo lừa như thế sẽ không được tiến hành. Đây là một bài kiểm tra sự quan sát. Marcus yêu cầu tắt đèn, và hậu quả là chúng tôi không thể thấy giờ trên đồng hồ đeo tay của mình được. Do đó, nếu ông ấy cho chúng tôi một chiếc đồng hồ để định giờ, thì cách duy nhất chúng tôi có thể xác định thời gian là chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi đó. Tôi coi đó như là một loại thỏa thuận ngầm. Tôi có thể nói với anh những thời điểm mà mọi chuyện xảy ra nhờ chiếc đồng hồ đó. Nhưng tôi không thể nói liệu chiếc đồng hồ có chạy đúng ngay từ thời điểm bắt đầu hay không.”
Marjorie nói:
“Chà, thực ra tôi có thể xác định được chuyện giờ giấc. Dĩ nhiên là chiếc đồng hồ đó chạy đúng.”
Cô nói với vẻ quyết liệt, bất ngờ và có vẻ bối rối. Như thể cô không nghĩ mọi việc sẽ phát triển theo hướng này, hoặc như thể sự tuyệt vọng trong việc khiến mọi người thấy được nguyên nhân đã đẩy cô ấy tới giới hạn mệt mỏi cuối cùng.
“Tôi có những lí do hợp lí nhất để biết rõ điều ấy,” cô cho họ biết. “Ồ, nó không phải một câu hỏi về khả năng quan sát, cụ thể là khả năng quan sát của tôi! Tôi có thể chứng minh điều đó một cách dễ dàng. Dĩ nhiên chiếc đồng hồ chạy đúng. Nhưng dù sao, điều đó tạo nên sự khác biệt gì được chứ?”
“Nó tạo nên sự khác biệt rất lớn,” thiếu tá Crow nói, “với bằng chứng ngoại phạm của những người không có mặt tại hiện trường.”
“Joe Chesney,” giáo sư Ingram lầm bầm, và huýt sáo. “Mong anh thứ lỗi,” ông nói thêm.
Nếu như lần trước ông đã có thể ảnh hưởng đến mọi người với nụ cười mỉm nhẹ nhàng, thì bây giờ (rõ ràng bằng sự lỡ miệng của mình) ông cũng đã ảnh hưởng đến mọi người với một thứ nhẹ nhàng khác. Elliot tự hỏi không biết từ “gợi ý” được định nghĩa trong từ điển thế nào. Dù nó có là gì chăng nữa, Ingram rõ ràng đã khuấy động một mặt nước yên tĩnh.
“Bác Joe sao?” Marjorie thét lên. “Bác ấy thì làm sao chứ?”
“Anh cứ tiếp tục với mấy câu hỏi đi,” giáo sư đề nghị, và cười trấn an với cô gái.
Elliot, sau khi ghi chú nhanh, đã quyết định tăng nhịp độ.
“Chúng ta có thể tranh luận về mấy thứ đó sau, nếu mọi người không phiền. Chỉ cần cho tôi câu trả lời ngắn gọn nhất có thể. Tiếp theo: Chiều cao của người vào phòng bằng chiếc cửa sổ kiểu Pháp là bao nhiêu?”
“Sáu feet,” Maijorie lập tức trả lời. “Dù sao, hắn ta có cùng chiều cao với Wilbur, và tất cả chúng ta đều biết rõ chiều cao của Wilbur. Hắn có cùng chiều cao với Wilbur và bác J…” Cô dừng lại.
“Sáu feet có vẻ đúng,” Harding quyết định sau khi suy nghĩ. “Nếu có bất cứ điều gì tôi muốn nói thì đó là nó cao hơn mức đó một chút, nhưng có lẽ đó chỉ là hiệu ứng từ chiếc mũ trông có vẻ hoang dã đó.”
Giáo sư Ingram đằng hắng.
“Không có thứ gì, theo tôi biết, gây bực bội hơn là cứ liên tục mâu thuẫn trong những chi tiết thế này.”
Và dưới vẻ ngoài khá điềm tĩnh của ông rõ ràng là cơn giận đang sẵn sàng sôi trào. Cơn thủy triều của những ý tưởng mới đang được khuấy động. Đôi mắt của Marjorie đang tóe lửa.
“Ôi chao, tôi không thể chịu đựng được điều này! Chắc bác không định nói hắn ta mập và lùn đấy chứ?”
“Không, cháu thân mến. Giờ thì thoải mái nào.” Giáo sư Ingram nhìn Elliot. “Thanh tra, đây là câu trả lời. Người vào phòng bằng chiếc cửa sổ đó khoảng năm feet chín inch, về chiều cao, như anh Harding hay bản thân tôi, đã nói. Không thì (hãy chú ý điểm này) hắn ta là một người đàn ông cao sáu feet bước đi với đầu gối khuỵu xuống sau chiếc áo khoác dài đó để giả như là một người có chiều cao thấp hơn. Trong bất kì trường hợp nào, thì chiều cao của hắn ta cũng nằm trong khoảng năm feet chín.”
Xung quanh lặng ngắt như tờ.
Thiếu tá Crow, người đang đeo chiếc kính gọng vành – thứ mà bằng cách nào đó đã phá hủy vẻ ngoài đầy nghiêm túc của ông – đưa tay lên quệt ngang trán. Ông đang ghi chú lại ở mặt sau của một cái phong bì.
“Nghe này,” ông bắt đầu.
“Vâng?”
“Giờ tôi hỏi ông điều này,” cảnh sát trưởng nói với vẻ tức giận có chừng mực, “tôi hỏi ông, với tư cách hai người đàn ông, đó là câu trả lời kiểu gì vậy? Hoặc là anh ta cao năm feet chín inch, hoặc có thể là anh ta cao sáu feet. Nghe này, Ingram. Nó khiến tôi nghĩ rằng anh đang gieo rắc những ý tưởng trong đầu mọi người. Bất cứ chỗ nào có khả năng gây mâu thuẫn với ai đó, anh liền phủ nhận họ. Anh muốn nghe tranh cãi đến vậy à?”
“Tôi rất sẵn lòng.”
“Chà, tất cả đều đồng ý rằng có một hộp sô cô la khối lượng hai pound nằm trên bàn, và rằng vật thể đầu tiên mà Chesney nhấc lên là một cây bút chì. Nhưng hãy nhìn vào phần còn lại. Tôi đã ghi lại những thắc mắc của riêng mình rồi.”
Ông ném chiếc phong bì qua cho giáo sư Ingram, người kiểm tra nó và sau đó lướt quanh những dòng ghi đáng chú ý sau:
Màu của hộp sô cô la là gì? Wills Xanh lá
Harding Xanh dương
Ingram Cả hai
Vật thứ hai mà Chesney nhấc lên là gì? Wills Một cây bút
Harding Một cây bút chì
Ingram Một cái phi tiêu ống thổi
Lúc đó là mấy giờ? Wills Nửa đêm
Harding Khoảng nửa đêm
Ingram Mười hai giờ kém một phút
Gã đội mũ cao bao nhiêu? Wills Sáu feet
Harding Sáu feet
Ingram Năm feet chín
“Sự đồng thuận duy nhất ở đây.” Thiếu tá Crow tiếp tục, “là về thời gian. Và đó có lẽ lại là điểm bất hợp lí nhất của màn trình diễn này.”
Giáo sư Ingram đứng lên.
“Tôi không nghĩ tôi hiểu anh, thiếu tá,” ông nói. “Anh hỏi tôi, như một nhân chứng có chuyên môn, kể lại cho anh những điều thực sự đã xảy ra. Anh mong đợi những khác biệt. Anh muốn tìm ra những điều không nhất quán. Và rồi vì vài nguyên nhân nào đó anh dường như bực mình với tôi khi tôi chỉ chúng ra cho anh.”
“Tôi biết, và tất cả những điều đó đều rất tốt.” Thiếu tá Crow đáp lại, chỉ chiếc phong bì vào ông ấy. “Nhưng còn chuyện hộp sô cô la thì sao? Một chiếc hộp có thể màu xanh lá hoặc màu xanh dương, nhưng chết tiệt là nó không thể nào là cả hai màu đó được, và đó chính xác là những điều anh đã nói. Giờ thì có thể anh sẽ hứng thú nếu biết rằng”, nói tới đây, mặc dù Elliot và Bostwick điên cuồng ra dấu hiệu, ông đã ném sự thận trọng của cảnh sát ra sau đầu, “có thể anh sẽ hứng thú khi biết rằng chiếc hộp trong căn phòng đó có màu xanh dương. Màu xanh dương với họa tiết hoa trên đó. Và vật thể duy nhất nằm trên chiếc bàn đó là một cây bút chì hơi bẹt. Không có bất kì dấu hiệu nào của vật thể thứ hai: dù là một cây bút, hay một cây bút chì khác, hoặc một chiếc phi tiêu ống thổi. Một hộp sô cô la màu xanh dương, một cây bút chì, không có gì khác. Tôi có thể hỏi anh sẽ nói gì về việc này không?”
Giáo sư Ingram lại ngồi xuống lần nữa, một nụ cười châm biếm nở trên môi ông.
“Có,” ông nói, “nếu có cơ hội, tôi sẽ giải thích ngay.”
“Được rồi, được rồi.” Thiếu tá Crow lớn tiếng càu nhàu, nâng bàn tay của mình lên như thể đang bắt đầu một điệu chào. “Cứ làm theo cách của anh, và giải thích khi mà anh muốn; tôi sẽ rút lui. Tiếp tục đi, thanh tra. Xin lỗi vì đã xen vào. Đây là buổi diễn của anh.”
Và trong suốt vài phút tiếp theo, Elliot bắt đầu cảm thấy rằng những bất đồng của họ đã kết thúc. Hai câu hỏi tiếp theo và một nửa số còn lại được trả lời bằng sự đồng thuận gần như tuyệt đối. Những câu hỏi này, những câu liên quan đến gã yêu tinh đến từ chiếc cửa sổ kiểu Pháp, bao gồm: Miêu tả trang phục của người này? Anh ta mang theo thứ gì trong tay phải? Miêu tả vật thể này. Miêu tả hành động của anh ta.
Những câu hỏi đó làm nổi bật lên bức tranh về một sinh vật lố bịch ngớ ngẩn, người có vẻ như đã để lại ấn tượng mạnh mẽ cho tất cả bọn họ. Từ chiếc mũ chóp cao đến cái khăn choàng cổ len màu nâu, kính mát, áo mưa, và chiếc quần tây đen với giày đi tiệc, tất cả mọi người đều không bỏ lỡ bất kì chi tiết nào trong số đó. Mỗi người đều mô tả chính xác chiếc túi đen, được sơn những chữ R. H. Nemo, M.D. màu trắng bên trên, và được mang trong tay phải của người khách. Chi tiết mới mẻ duy nhất là người khách này có đeo một đôi găng tay bằng cao su.
Sự đồng thuận này đã khiến Elliot bối rối và hoang mang, cho tới khi anh nhớ ra rằng tất cả những nhân chứng không chỉ một lần có cơ hội quan sát bộ trang phục này. Phần lớn đồ đạc của hắn ta, bao gồm cả bộ tóc giả màu đen, đã bị vứt xuống ngoài cửa sổ phòng làm việc. Những nhân chứng đã không chỉ nhìn thấy chúng trong suốt màn trình diễn. Họ còn nhìn thấy chúng sau đó, khi họ ra ngoài để tìm Wilbur Emmet.
Tuy nhiên, ngay cả như thế, họ cũng không hề bỏ lỡ hành động nào của người khách trên sân khấu. Hình dáng của gã đeo kính đen này, bao gồm cái cúi chào và gật đầu dưới bóng lớn của ánh sáng trắng, dường như đã đổ đầy tâm trí họ như một cơn ác mộng. Họ tả lại sự xuất hiện của hắn. Họ miêu tả cái cách mà, khi nghe lời chế nhạo khinh suất của George Harding từ vị trí người xem, gã đã quay lại và nhìn vào họ. Sau đó họ kể lại cách gã đi đến phía bên phải cái bàn, rút hộp thuốc ra khỏi túi áo, lấy viên nhộng, và…
Nhưng trong tất cả các chi tiết đó, đâu mới là đầu mối?
Đó là điều mà Elliot muốn biết. Anh đã gần kết thúc danh sách câu hỏi, và đến tận đây anh vẫn chưa thấy điều gì có thể dẫn đường cho mình cả. Có xuất hiện mâu thuẫn trong lời khai của các nhân chứng, đúng vậy. Nhưng những điều đó sẽ giúp ích bằng cách nào?
“Chúng ta sẽ tiếp tục,” anh nói với họ. “Vậy chúng ta sẽ kết thúc với câu hỏi này. Anh ta có di dời bất kì vật nào đang nằm trên bàn không?”
Ba giọng nói vang lên gần như cùng một lúc.
“Không,” Marjorie nói.
“Không,” George Harding nói.
“Có,” giáo sư Ingram nói.
Trong sự ồn ào theo ngay sau đó, Harding nói chắc nịch. “Thưa ngài, tôi thề là không. Hắn ta chưa bao giờ chạm vào cái bàn đó. Hắn ta…”
“Dĩ nhiên là hắn không rồi,” Marjorie nói. “Bên cạnh đó, hắn ta có thể dời vật gì đi được chứ? Thứ duy nhất có vẻ di chuyển được là một cây bút – hay bút chì, hay phi tiêu ống thổi, bất cứ thứ gì mà anh dùng để gọi nó – và tôi biết hắn đã không lấy thứ đó. Bác Marcus đặt nó xuống miếng thấm mực trước mặt mình. Và thứ đội mũ chóp cao đó chưa bao giờ lại gần miếng thấm mực ở trước mặt bác Marcus. Vậy hắn ta có thể di dời vật gì được chứ?”
Giáo sư Ingram ra hiệu cho mọi người yên lặng. Giờ đây trông ông có vẻ hơi dữ tợn.
“Đó,” ông nói, “là điều mà tôi đã kiên nhẫn cố gắng nói với mọi người. Cụ thể hơn: Hắn ta lấy đi một chiếc hộp sô cô la caramel Henry hoa màu xanh lá cây, và thay thế bằng một hộp sô cô la bọc kem bạc hà có vỏ in hoa màu xanh dương, đó là chiếc hộp đang nằm ở trên bàn bây giờ. Các bạn muốn sự thật theo thực tế. Vậy nó đây. Đừng hỏi tôi hắn ta làm điều đó bằng cách nào! Khi đặt chiếc túi đen lên bàn, hắn ta đặt nó xuống ngay trước chiếc hộp màu xanh lá cây. Khi lấy chiếc túi đi, và bước ra khỏi phòng, chiếc hộp trên bàn là màu xanh dương. Tôi nhắc lại: Đừng hỏi tôi hắn ta đổi hộp bằng cách nào. Tôi không phải ảo thuật gia. Nhưng tôi nghĩ câu trả lời cho vài vụ đầu độc tệ hại nằm trong hành động nhỏ nhặt đó. Tôi đề nghị các anh sử dụng trí thông minh của mình vào đây. Tôi cũng tin rằng việc này đã gỡ bỏ một vài sự nghi ngờ của thiếu tá Crow về sự minh mẫn hay lòng tin đối với tôi. Và trước khi có bất cứ vụ mất bình tĩnh nào xảy ra tối nay nữa, có ai có thể làm ơn cho tôi một điếu thuốc không?”
Vụ Án Viên Nhộng Xanh Vụ Án Viên Nhộng Xanh - John Dickson Carr Vụ Án Viên Nhộng Xanh