Coi Lại
ới tài năng, Thanh Tâm Tuyền đã có một vị trí trân trọng trong văn học Việt Nam. Ðặc biệt về trào lưu thơ được gọi là thơ tự do. Người yêu chuộng, nghiên cứu và phê bình về văn học đương đại của Việt Nam nhất là giai đoạn khởi sắc của miền Nam 54-75 không thể kể thiếu tên ông. Toàn bộ tác phẩm của tác giả cần được tập trung lưu giữ đã đành, mà cuộc đời của tác giả cũng trở thành đối tượng cần thiết để đối chiếu về mặt ảnh hưởng trên sự nghiệp sáng tác. Người cùng thời, kẻ quen người biết ông rồi cũng lần lượt theo ông. Cho nên, nhiều người đang cố nhớ ghi lại những điều được biết về ông. Ý kiến có khác biệt, nhưng sự kiện là điều có thể kiểm chứng. Chỉ với mục đích đó, trong khả năng hiểu biết của mình, sau khi đọc nhiều bài viết về Thanh Tâm Tuyền, những điểm sau đây nên coi lại.
1. Khi đưa tin về cái chết của Thanh Tâm Tuyền, nhiều báo có ghi rằng:
sau khi tù cải tạo về, ông có thời gian đi làm ruộng ở Phước Tuy, Bà Rịa.
Thanh Tâm Tuyền chưa hề ra khỏi Sài Gòn cho đến ngày đi Mỹ.
2. Ông lấy vợ là người đẹp ở Bình Dương.
Lấy ông vì yêu thơ ông.
Chị Thanh Tâm Tuyền, tục danh là Cao Thị Mai Hoa, người gốc Cần Thơ theo gia đình lên Sài Gòn. Chưa ở Bình Dương ngày nào. Học trường Tây Michelet. Ông Diệm dẹp trường Tây. Chị vào Trung Học Nguyễn Bá Tòng, học đệ tứ chương trình Việt. Gặp thầy dạy Việt văn Dư Văn Tâm. Bị thầy đì vì không rành văn chữ Việt. Ý thì có mà chính tả quá bết. Lúc đó cô nữ sinh Mai Hoa mới tròn trăng mười sáu. Thầy hơn trò đến mười tuổi. Với tuổi đó và trình độ Việt ngữ như thế, chắc không cách nào mê được thơ đếm số cửa sổ “Một cửa sổ, hai cửa sổ...” (Tôi không còn cô độc) của thầy Tâm. Sau đó thầy dần dần mê trò. Câu chuyện tình đẹp này, đầu đuôi có một người biết rất rõ: nhạc sĩ Cung Tiến. Ðộng viên nhập ngũ Thủ Ðức, 1963. Ra trường. Gia đình đi hỏi. Phong tục, lễ nghi Bắc Nam có khác. Ba chìm bảy nổi. Cuối cùng đẹp đôi. Ðám cưới ngày 4 tháng 7, 1964.
Liên, đêm, mặt trời tìm thấy, tác phẩm xuất bản đánh dấu ngày vui này. Có người quyết đoán Liên là tên một người yêu của nhà thơ. Theo Thanh Tâm Tuyền giải thích, Liên chỉ có nghĩa là liên khúc của thơ và thơ xuôi trong tác phẩm. Ngày cưới vợ mà lấy tên người yêu cũ đặt cho quà cưới của mình thì có nước... đi thăm Bùi Giáng. Theo chị Mai Hoa, anh là mẫu người chồng, người cha lý tưởng. Dạy con rất nghiêm. Không nịnh vợ. Ðúng sai rõ ràng. Ðiều này chắc chúng ta, những ông chồng, khẩu phục, tâm phục! Như bao nhiêu gia đình khác, anh cũng mất một đứa con trai trên đường vượt biên.
Thơ của Thanh Tâm Tuyền thường đề tặng bạn hữu. Ðặc biệt tặng cho vợ, chỉ có hai bài.
Thơ tình trong tù (1980):
“Vẫn em của thuở trăng nào / Ðêm hôm nở đóa chiêm bao xanh ngần/ Vẫn em tình của trăm năm/ Ðoan trang khóe hạnh thâm trầm dáng thơ/ Vẫn em mối kết thiên thu/ Vẫn em xoa dịu sầu tư cõi này”.
Sáng sớm mồng một Tết 1984, ông bảo vợ pha trà thơm để ông đọc tặng bài thơ đầu năm. “Xuân tứ” (1984):
“Cỏ hoa thầm thì hát/ Ngoài vườn trăng đêm nay/ Xuân ngàn mùa vẫn một/ Hương sắc không hề phai/ Sự trôi chảy mãi thật/ Tình đơn sơ còn đây/ Ôi nỗi niềm bát ngát/ Thủy chung nào vơi đầy.”
Theo ông làm thơ dễ hơn viết văn. Ông thích làm thơ hơn là viết văn.
3. Một đôi điều thắc mắc nhân đọc một bài viết về Thanh Tâm Tuyền của Văn Quang, nhà văn quân đội quen thuộc trước 1975, nay còn trong nước. Ðọc được trên website Gio-o.
Trích:
“... Khoảnh khắc đáng nhớ nhất là lần cuối cùng gặp anh cũng là ngày anh được tha ra khỏi trại cải tạo Vĩnh Phú, vào khoảng năm 1982. Anh ghé vào khu nhà giam tôi đang sống, anh hỏi. ‘Có trà ngon không, mang đãi khách. Bây giờ anh là tù, tôi là người ngoài tù’. Tôi gật gù...”
Tôi không còn nhớ chắc Văn Quang có chung trại khi chúng tôi được tha hay không. Nếu có chăng (?) thì việc Thanh Tâm Tuyền đến thăm Văn Quang và nói những lời như trên đây khó có thể xảy ra được.
Thứ nhất, như đã nói ở trên, Thanh Tâm Tuyền trước ngày đọc lệnh tha hoàn toàn không biết có tên mình nên mới nhờ tôi lén mang những bài thơ về. Bữa cơm tưởng là chia tay nhau hôm đó, gồm có Thanh Tâm Tuyền, tôi và người học trò cũ anh rất thương mến, Nguyễn Văn Thích. Khi qua Mỹ, anh làm một bài thơ rất dài tặng tôi, trích đăng trên báo Văn 26. “Ăn tết với Nguyễn Văn Thích”:
“...Nhớ chứ, nhớ chứ Nguyễn Văn Thích/ Ðừng để riêng ta cái nhớ dai/ Cái nhớ thầm thì những khuya khoắt...”
Thứ hai, sau khi đọc lệnh, ai được tha tức khắc được ở khu riêng, không được tiếp xúc. Như chỗ tôi và gia đình biết, trước như thế nào tôi không rõ, nhưng sau này Thanh Tâm Tuyền không quá thân với Văn Quang, bản tính lại cẩn trọng không hồ đồ, không dại gì xé rào, hy sinh tấm giấy ra trại của mình để sang thăm Văn Quang. Ðã không quá thân tình, lại sợ làm nản lòng người ở lại, như Văn Quang viết, thì việc đòi hút thuốc, uống trà và ăn nói như trên, khó có thể xảy ra với Thanh Tâm Tuyền.
Trích tiếp:
“Thanh Tâm Tuyền tên thật là Dzư Văn Tâm, sinh ngày 13-3-1936, có bạn ghi ngày 15-3-1935, tôi lại nhận được một nguồn tin khác, anh sinh năm 1934, do chính Thanh Tâm Tuyền tiết lộ với một số bạn bè khi ngồi ở nhà hàng La Pagode.”
Giấy khai sinh cũ, rách, gia đình còn giữ được cho đến bây giờ. Cô mụ Nhự, làm chứng khai sinh ghi rõ không gì bàn cãi. Dư Văn Tâm sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936.
Thanh Tâm Tuyền – Những Điều Nhớ Thanh Tâm Tuyền – Những Điều Nhớ - Ninh Hạ Thanh Tâm Tuyền – Những Điều Nhớ