Chương 4
ddison đi bằng bốn chân với cái mũi tẹt hếch lên trong khi sinh vật hình người có tên là Grunt chạy vùn vụt xung quanh chúng tôi như một con cún con bị cuồng chân. Từ phía sau các bụi cỏ và những cái lán nằm rải rác đây đó, tôi có thể thấy những khuôn mặt đang nhìn lén về phía chúng tôi – phần lớn đều lông lá, và có đủ hình dạng, kích thước. Khi chúng tôi đi tới giữa mặt bằng đỉnh núi, Addison vươn lên đứng trên hai chân sau và gọi to, “Đừng sợ, các bạn! Hãy lại đây gặp những bạn trẻ đã trừ khử gã khách không được hoan nghênh của chúng ta!”
Lần lượt từng con, một đoàn sinh vật kỳ lạ bước ra khoảng trống. Addison giới thiệu chúng trong khi chúng lại gần. Sinh vật thứ nhất trông giống như nửa trên của một con hươu cao cổ thu nhỏ gắn vào nửa sau của một con lừa. Nó bước đi vụng về trên hai chân sau – mà kỳ thực nó cũng chỉ có hai chân. “Đây là Deirdre,” Addison nói. “Cô ta là một bán lừa cao cổ, trông hơi giống một con lừa và một hươu cao cổ ghép lại với nhau, chỉ có điều là ít chân hơn cộng với tính khí cáu bẳn hơn. Cô nàng là một kẻ thảm hại chua ngoa khủng khiếp khi chơi bài,” con chó thì thầm nói thêm. “Đừng bao giờ chơi bài với một con bán lừa cao cổ. Hãy chào đi nào, Deirdre!”
“Tạm biệt!” Deirdre nói, đôi môi to như môi ngựa của con vật co ra sau thành một nụ cười phô ra những cái răng vẩu. “Ngày chả ra gì! Gặp các vị khó chịu thật!” Rồi con vật phá lên cười – một tiếng hí be be cao vút – và nói, “Đùa thôi!”
“Deirdre nghĩ cô ấy khá vui tính,” Addison giải thích.
“Nếu cậu giống một con lừa và một hươu cao cổ,” Olive nói, “thì sao cậu lại không được gọi là một lừa hươu cao cổ?”
Deirdre cau có trả lời, “Bởi vì tên gì mà lại kinh khủng như thế? Bán lừa cao cổ nghe rất thuận miệng, cậu không nghĩ vậy sao?” Rồi con vật thè lưỡi ra – trơn nhẫy, hồng hào, và dài đến cả mét – rồi chỉnh cái vương miện trên đầu Olive cho ngay ngắn lại bằng phần chót lưỡi. Olive kêu ré lên chạy ra nấp sau lưng Bronwyn rồi cười khúc khích.
“Tất cả động vật ở đây đều biết nói sao?” tôi hỏi.
“Chỉ Deirdre và tôi thôi,” Addison nói, “và đó cũng là điều tốt. Đám gà mái sẽ không bao giờ ngơi miệng, và họ không thể nói được lấy một từ!” Vừa đúng lúc, một bầy gà mái cục tác không ngớt miệng như những quả cầu len lăn về phía chúng tôi từ một cái chuồng gà cháy đen. “À!” Addison nói. “Giờ đến lượt các cô nàng đây rồi.”
“Chuyện gì xảy ra với chuồng của bọn họ thế?” Emma hỏi.
“Cứ mỗi lần chúng tôi sửa chữa lại nó, bọn họ lại đốt trụi nó đi,” con chó nói. “Thật là bực mình.” Addison quay người hất hàm về phía khác. “Có lẽ các cô cậu sẽ muốn lùi lại một chút. Đám gà mái này mà bị kích động lên thì…”
BÙM! Một âm thanh nghe như tiếng nổ làm tất cả chúng tôi nhảy dựng lên, và vài tấm ván ít ỏi cuối cùng còn chưa bị tổn hại của cái chuồng gà vỡ vụn và bắn tung lên không khí.
“…trứng của họ liền nổ tung,” Addison kết thúc nốt câu.
Khi khói tan, chúng tôi thấy bầy gà mái vẫn đang chạy về phía mình, không hề bị thương tổn và có vẻ cũng chẳng ngạc nhiên gì trước vụ nổ, một đám mây lông vũ bay tơi bời xung quanh chúng như những bông tuyết.
Enoch há hốc miệng. “Mi muốn nói với ta là đám gà mái này đẻ trứng nổ sao?!” cậu ta nói.
“Chỉ khi bọn họ kích động thôi,” Addison nói. “Phần lớn trứng của họ khá an toàn – và ngon tuyệt nữa! Nhưng chính những quả trứng nổ đã làm họ có tên gọi không hay ho lắm: Gà mái Ngày Tận Thế.”
“Tránh xa chúng tôi ra!” Emma hét lên khi đám gà mái xích lại gần. “Các cô sẽ làm nổ tung tất cả chúng tôi mất!”
Addison phá lên cười. “Họ rất dễ thương và vô hại, tôi cam đoan với cô đấy, và họ cũng không đẻ trứng ở đâu hết ngoài chuồng của họ.” Đám gà mái hân hoan cục tác quanh chân chúng tôi. “Các cô cậu thấy chưa?” con chó nói. “Họ thích mấy người đấy!”
“Đây đúng là một trại thương điên!” Horace nói.
Deirdre bật cười. “Không đâu, cậu bé. Đây là một trại động vật.”
Sau đó, Addison giới thiệu chúng tôi với một số động vật có năng lực đặc biệt tinh tế hơn, bao gồm một con cú đậu trên cành cây quan sát chúng tôi, im lặng và chăm chú, và một đàn chuột dường như liên tục biến mất rồi lại hiện ra trong tầm mắt một cách huyền ảo, như thể chúng dành một nửa thời gian ở một không gian thực tại nào khác. Còn có cả một con dê với cặp sừng rất dài và đôi mắt đen thẳm; một thành viên mồ côi của một đàn dê đặc biệt từng sinh sống trong khu rừng bên dưới.
Khi tất cả đám động vật đã tập hợp lại, Addison lớn tiếng, “Ba lần hoan hô dành cho những người diệt trừ hồn rỗng!” Deirdre hí lên, con dê gõ móng xuống đất, con cú rúc lên, đội gà mái cục tác còn Grunt gầm gừ bày tỏ sự tán thưởng. Trong khi tất cả việc này diễn ra, Bronwyn và Emma liên tục đưa mắt nhìn nhau – Bronwyn liếc nhìn xuống áo khoác của cô, cô Peregrine đang được giấu ở đó, rồi nhướng mày sang Emma hỏi: Bây giờ nhé? Và Emma lắc đầu trả lời: Chưa đến lúc.
Bronwyn đặt Claire nằm xuống một đám cỏ dưới một bóng cây mát mẻ. Cô bé đang vã mồ hôi và run rẩy, lúc tỉnh lúc mê.
“Có một thứ thuốc nước đặc biệt tôi đã thấy cô Wren pha chế để trị sốt,” Addison nói. “Có vị kinh khủng nhưng hiệu quả.”
“Mẹ tớ hay nấu xúp gà cho tớ,” tôi đề xuất.
Đám gà mái hốt hoảng kêu quang quác, Addison liền ném về phía tôi một cái nhìn gay gắt. “Cậu ấy đùa đấy mà!” con chó nói. “Chỉ là đùa thôi, đùa rõ vô duyên, ha ha! Làm gì có thứ gì gọi là xúp gà chứ!”
Với sự giúp đỡ của Grunt và hai ngón cái có thể quay ra đối diện với nhau của anh ta, Addison cùng cô nàng bán lừa cao cổ đi chuẩn bị món thuốc nước. Chẳng mấy chốc, họ đã quay lại mang theo một cái bát đựng thứ gì đó như nước rửa bát bẩn thỉu. Sau khi Claire uống hết tới giọt cuối cùng và nằm xuống ngủ, đám động vật dọn ra cho chúng tôi một bữa ăn khiêm tốn: những giỏ bánh mì mới nướng cùng táo ninh nhừ và trứng luộc – loại không nổ - tất cả đều được đưa thẳng tới tận tay chúng tôi, vì họ không có đĩa hay khay bạc. Tôi đã không nhận ra mình đói tới mức nào cho đến khi ngấu nghiến hết ba quả trứng và một ổ bánh mì chỉ trong vòng chưa tới năm phút.
Khi đã ăn xong, tôi ợ lên một tiếng, quệt miệng và ngước mắt lên thì thấy tất cả đám động vật đang nhìn lại, háo hức quan sát chúng tôi, khuôn mặt họ sống động thông minh tới mức tôi trở nên đờ đẫn và phải vất vả chống đỡ lại một cảm giác mạnh mẽ quả quyết là tôi đang mơ.
Millard đang ngồi ăn cạnh tôi, tôi liền quay sang cậu ta và hỏi, “Trước hôm nay cậu đã bao giờ nghe nói tới các động vật đặc biệt chưa?”
“Chỉ trong các câu chuyện cho trẻ con thôi,” cậu ta lung búng, khoang miệng đầy ắp bánh mì. “Vì thế thật lạ lùng khi một câu chuyện như thế lại dẫn chúng ta đến với họ.”
Chỉ mình Olive dường như không hề ngạc nhiên trước tất cả những chuyện này, có lẽ vì cô vẫn còn quá bé – hay ít nhất là một phần trong cô – và do đó khoảng cách giữa những chuyện kể với đời thực vẫn chưa có vẻ quá lớn. “Những con vật khác đâu rồi?” cô hỏi Addison. “Trong câu chuyện kể về Cuthbert còn có cả gấu chân cà kheo và linh miêu hai đầu nữa.”
Và ngay lập tức, tâm trạng hân hoan của các động vật tan biến. Grunt giấu mặt vào hai lòng bàn tay to bản, còn Deirdre bật ra một tiếng hí phiền muộn. “Đừng hỏi, đừng hỏi,” cô bán lừa cao cổ nói, cúi gục cái đầu dài xuống. Nhưng đã quá muộn.
“Những bạn trẻ này đã giúp chúng ta,” Addison nói. “Họ xứng đáng được nghe câu chuyện buồn của chúng ta, nếu họ muốn.”
“Nếu các bạn không phiền thì hãy kể cho chúng tôi,” Emma nói.
“Tôi thích những câu chuyện buồn,” Enoch nói. “Nhất là những câu chuyện trong đó các công chúa bị rồng ăn thịt và tất cả mọi người đều chết vào đoạn kết.”
Addison hắng giọng. “Trong trường hợp của chúng tôi, nghe có vẻ giống con rồng bị công chúa ăn thịt hơn,” con chó nói. “Chuyện đã trôi qua vài năm với những con vật như chúng tôi, và đã bắt đầu chừng vài thế kỷ trước.” Con chó đi đi lại lại, giọng nói của nó đầy vẻ rao giảng quan trọng. “Ngày xửa ngày xưa, thế giới này đông nghịt những động vật đặc biệt. Vào thời Aldinn, có nhiều động vật đặc biệt trên trái đất này hơn người đặc biệt. Chúng tôi xuất hiện dưới mọi hình dạng, kích thước các bạn có thể hình dung ra: cá voi có thể bay như chim, những con giun to bằng cái nhà, chó thông minh gấp đôi so với tôi, cô cậu tin được không. Một số loài có cả vương quốc riêng, có thủ lĩnh cai trị.” Một tia sáng lóe lên di chuyển trong đáy mắt con chó, gần như khó lòng nhận ra – như thể nó đã sống đủ lâu để nhớ rõ về thế giới ở thời kỳ đó – rồi nó thở dài thật sâu, tia sáng tắt vụt đi, và nói tiếp, “Nhưng số lượng của chúng tôi chỉ còn không bằng một nhỏ trước đây. Chúng tôi đã rơi vào cảnh gần tuyệt chủng. Có ai trong các cô cậu biết chuyện gì đã xảy ra với các loại động vật đặc biệt từng có thời phổ biến trên thế giới không?”
Chúng tôi im lặng ăn, lấy làm xấu hổ vì mình không biết.
“Được rồi,” con chó nói. “Hãy đi cùng tôi và tôi sẽ chỉ cho các cô cậu thấy.” Và nó thong thả chạy ra ngoài nắng rồi ngoái lại nhìn, đợi chúng tôi theo sau.
“Làm ơn nào, Addie,” cô bán lừa cao cổ nói. “Không phải bây giờ - những vị khách của chúng ta đang ăn mà!”
“Họ hỏi, và giờ tôi đang trả lời họ,” Addison nói. “Bánh mì của họ sẽ vẫn ở nguyên đây sau vài phút nữa!”
Chúng tôi miễn cưỡng bỏ đồ ăn xuống và đi theo con chó. Fiona ở lại để trông nom Claire, lúc này vẫn đang ngủ, rồi với Grunt và cô bán lừa cao cổ chạy theo sau, chúng tôi băng qua bãi đất phẳng tới chỗ vạt rừng nhỏ mọc ở rìa phía xa. Một lối đi rải sỏi uốn lượn qua các gốc cây, chúng tôi giẫm lên đó lạo xạo bước đi tới một trảng trống. Ngay trước khi chúng tôi tới chỗ đó, Addison nói, “Tôi xin phép được giới thiệu với các cô cậu những động vật đặc biệt xuất chúng nhất từng sống!” và những hàng cây tách ra hé lộ một nghĩa địa nhỏ đầy ắp những hàng bia mộ trắng sắp xếp ngay ngắn.
“Ôi, không,” tôi nghe thấy Bronwyn thốt lên.
“Có lẽ ở đây có nhiều động vật đặc biệt được chôn cất hơn cả số hiện còn sống trên toàn châu Âu,” Addison nói, lách qua các ngôi mộ để đi tới, tựa chân trước vào một bia mộ. “Đây là Pompey. Bà ấy là một con chó tử tế, và chỉ liếm vài cái là có thể làm lành các vết thương. Một kỳ quan thực sự! Ấy thế nhưng bà ấy lại bị đối xử thế này đây.” Addison tặc lưỡi, và Grunt bước tới, cầm trên tay một cuốn sách nhỏ và dúi nó vào tay tôi. Đó là một tập album ảnh, được mở sẵn tới bức ảnh chụp một con chó bị đóng ách, như lừa hay ngựa, vào một cái xe nhỏ. “Bà ấy bị đám diễn xiếc rong trong hội chợ bắt làm nô lệ,” Addison nói, “bị buộc phải kéo xe cho những đứa trẻ béo phị được cưng nhiều như những con gia súc kéo tầm thường – thậm chí còn bị đánh bằng roi thúc!” Đôi mắt con chó cháy rực lên căm giận. “Đến nỗi khi cô Wren cứu được Pompey, bà ấy đã suy sụp đến mức gần như chết hẳn. Bà ấy chỉ thoi thóp thêm được vài tuần sau khi tới đây, rồi được chôn cất ở chỗ này.”
Tôi đưa cuốn album cho những người khác. Tất cả những ai trông thấy bức ảnh đều thở dài, lắc đầu hoặc cay đắng lẩm nhẩm.
Addison đi tới một ngôi mộ khác. “Còn vĩ đại hơn nữa là Ca’ab Magda,” con chó nói, “bà linh dương mười tám sừng đã tung hoàng trong các Vòng Thời Gian ở Ngoại Mông. Bà ấy thật kinh khủng! Mặt đất rung chuyển dưới móng guốc của bà khi bà chạy! Người ta kể thậm chí bà đã từng hành quân vượt dãy Alpes cùng quân đội của Hannibal năm 218 trước Công nguyên. Thế rồi vài năm trước, một tay thợ săn đã bắn bà.”
Grunt đưa ra bức ảnh chụp một phụ nữ lớn tuổi trông có vẻ như vừa trở về sau một chuyến đi săn ở châu Phi, ngồi trên một cái ghế kỳ dị làm từ những chiếc sừng.
“Tôi không hiểu,” Emma nói, nhìn chăm chăm vào bức ảnh. “Ca’ab Magda đâu?”
“Đang bị ngồi lên,” Addison nói. “Tay thợ săn lấy sừng của bà ấy chế thành một cái ghế.”
Thiếu chút nữa Emma đánh rơi mất tập album. “Thật ghê tởm!”
“Nếu đó là bà ấy,” Enoch vừa nói vừa gõ vào bức ảnh, “vậy cái gì được chôn cất ở đây?”
“Cái ghế,” Addison nói. “Một cuộc đời đặc biệt đã bị phí phạm như thế đấy.”
“Nghĩa địa này đầy ắp những câu chuyện như của Magda,” Addison nói. “Cô Wren muốn trại động vật này là một con thuyền cứu nạn, nhưng dần dà nó trở thành nghĩa địa.”
“Như tất cả các Vòng Thời Gian của chúng ta,” Enoch nói. “Như chính bản thân giới sinh vật đặc biệt. Một thử nghiệm thất bại.”
“ ‘Nơi này đang chết dần,’ cô Wren hay nói vậy.” Giọng Addison cất lên bắt chước bà Chủ Vòng. “ ‘Và tôi chẳng là gì ngoài người chủ trì một tang lễ dài!’”
Đôi mắt Addison ươn ướt khi nhớ tới bà, nhưng nhanh chóng đanh trở lại. “Cô ấy đã rất kịch.”
“Làm ơn đừng nhắc tới Chủ Vòng của chúng ta bằng thời quá khứ,” Deirdre nói.
“Rất kịch,” con chó nói. “Xin lỗi. Không có đã.”
“Bọn họ săn các bạn,” Emma nói, giọng lạc hẳn đi vì bức xúc. “Tàn sát các bạn, giam hãm các bạn trong vườn thú.”
“Đúng như những tay thợ săn đã làm trong câu chuyện về Cuthbert,” Olive nói.
“Phải,” Addison nói. “Có những sự thực tốt nhất nên được diễn đạt dưới dạng truyền thuyết.”
“Nhưng chẳng có Cuthbert nào cả,” Olive nói, bắt đầu hiểu ra. “Không có người khổng lồ nào hết. Chỉ có một con chim.”
“Một con chim rất đặc biệt,” Deirdre nói.
“Các bạn đang lo lắng cho bà ấy,” tôi nói.
“Tất nhiên là thế rồi,” Addison nói. “Theo như tôi biết, cô Wren là Chủ Vòng duy nhất còn lại chưa bị bắt. Khi nghe nói các chị em của mình bị bắt cóc đưa tới London, bà đã bay ngay tới đó để giúp đỡ họ mà không dành ra lấy một khoảnh khắc nghĩ tới an nguy của bản thân.”
“Hay của chúng tôi,” Deirdre lẩm bẩm.
“London ư?” Emma hỏi. “Các bạn có chắc đó là nơi những Chủ Vòng bị bắt cóc bị đưa tới không?”
“Hoàn toàn chắc chắn,” con chó trả lời. “Cô Wren có điệp viên trong thành phố - một bầy bồ câu đặc biệt theo dõi mọi thứ và báo cáo lại cho bà. Gần đây, vài con bồ câu tới gặp chúng tôi trong tình trạng buồn phiền khủng khiếp. Họ nhận được thông tin chắc chắn là các Chủ Vòng đã – và vẫn đang – bị giam cầm trong các Vòng Trừng Phạt.”
Một vài đứa trẻ kêu lên thảng thốt, nhưng tôi không hiểu ý con chó muốn nói gì. “Vòng Trừng Phạt là gì vậy?” tôi hỏi.
“Chúng được thiết lập để giam giữ những xác sống bị bắt, những tên tội phạm bất trị, và những kẻ mất trí nguy hiểm,” Millard giải thích. “Chúng không hề giống những Vòng Thời Gian chúng ta biết. Là những nơi rất, rất kinh khủng.”
“Và bây giờ đến lượt bọn xác sống, và hẳn là cả đám hồn rỗng của chúng, đang canh giữ họ,” Addison nói.
“Lạy Chúa lòng lành!” Horace thốt lên. “Thế thì còn tồi tệ hơn những gì chúng tôi đã sợ!”
“Cậu đang đùa chắc?” Enoch nói. “Đây chính xác là điều tớ đã sợ!”
“Cho dù đám xác sống đang toan tính mục đích ám muội nào,” Addison nói, “rõ ràng là chúng cần đến tất cả các Chủ Vòng để hoàn thành điều đó. Giờ đây chỉ còn lại cô Wren… cô Wren can đảm, táo bạo một cách bất cẩn… và ai biết còn được trong bao lâu!” Sau đó, con chó ư ử hệt như một vài con chó vẫn làm trong lúc sấm chớp bão bùng, cụp tai lại và cúi đầu xuống.
***
Chúng tôi quay trở lại dưới bóng cây và hoàn tất bữa ăn của mình, và khi chúng tôi đã no căng không thể ăn thêm miếng nào nữa, Bronwyn quay sang Addison và nói, “Ông biết đấy, ông Chó, mọi thứ không đến nỗi khủng khiếp như ông nói đâu.” Sau đó, cô nhìn Emma rồi nhướng mày lên, và lần này Emma gật đầu.
“Vậy sao,” Addison đáp lại.
“Phải, đúng thế. Thực ra, ở ngay đây tôi có một thứ có thể sẽ làm ông vui lên.”
“Tôi hơi nghi ngờ điều đó đấy,” con chó lẩm nhẩm, nhưng vẫn ngẩng đầu lên khỏi hai chân trước để nhìn xem thứ đó là gì.
Bronwyn mở áo khoác ra và nói, “Tôi muốn ông gặp người Chủ Vòng thứ hai còn chưa bị bắt, cô Alma Peregrine.” Con chim ló đầu ra ngoài ánh nắng và chớp mắt.
Giờ đến lượt những con vật ngỡ ngàng. Deirdre há hốc miệng kinh ngạc, Grunt kêu lên the thé và vỗ tay, còn bầy gà mái vỗ phành phạch đôi cánh vô dụng của họ.
“Nhưng chúng tôi nghe nói vòng của các cô cậu đã bị tấn công!” Addison nói. “Chủ Vòng của các bạn đã bị bắt cóc!”
“Đúng thế,” Emma nói đầy tự hào, “nhưng chúng tôi đã đoạt lại được cô ấy!”
“Nếu vậy,” Addison nói, cúi đầu xuống trước cô Peregrine, “đây quả là một hân hạnh hiếm có. Sẵn sàng phụng sự bà. Nếu bà cần một chỗ để biến hình, tôi sẽ rất vui được dẫn bà tới nơi ở riêng của cô Wren.”
“Cô ấy không biến hình được,” Bronwyn nói.
“Thế là sao?” Addison hỏi. “Bà ấy ngại chăng?”
“Không,” Bronwyn nói. “Cô ấy bị kẹt.”
Cái tẩu rơi khỏi miệng Addison. “Ôi, không,” con chó khẽ thốt lên. “Cô có chắc thế không?”
“Cô ấy đã thế này được hai ngày rồi,” Emma nói. “Tôi nghĩ nếu có thể trở lại dạng người, thì đến lúc này cô ấy đã làm thế rồi.”
Addison lắc đầu hất đôi kính ra khỏi mặt mình rồi nhìn con chim, đôi mắt mở to đầy quan ngại. “Tôi có thể khám cho bà ấy được không?” con chó hỏi.
“Ông ấy là một bác sĩ Dollitle chính hiệu,” cô bán lừa cao cổ nói. “Addie chữa trị cho tất cả chúng tôi khi chúng tôi ốm.”
Bronwyn nâng cô Peregrine lên khỏi áo khoác của cô rồi để con chim xuống đất. “Nhưng mà hãy cẩn thận với bên cánh bị thương của cô ấy,” cô nói.
“Tất nhiên rồi,” Addison nói. Con chó bắt đầu chậm rãi đi vòng quanh con chim, quan sát từ mọi góc độ. Sau đó, nó dùng cái mũi to ươn ướt ngửi ngửi đầu và đôi cánh con chim. “Hãy cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra với bà ấy,” cuối cùng nó nói, “và khi nào, như thế nào. Hãy kể lại cho tôi biết tất cả.”
Emma kể lại toàn bộ câu chuyện: cô Peregrine đã bị Golan bắt cóc thế nào, bà đã suýt chết đuối trong lồng nhốt dưới biển ra sao, và bằng cách nào chúng tôi đã cứu được bà ra khỏi một chiếc tàu ngầm do đám xác sống điều khiển. Những con vật chăm chú lắng nghe. Khi chúng tôi kể xong, con chó dành một khoảnh khắc để ngẫm nghĩ, rồi sau đó đưa ra chẩn đoán, “Bà ấy đã bị đầu độc. Tôi tin chắc là thế. Bị đầu độc bằng thứ gì đó khiến bà ấy bị giữ nguyên ở dạng chim.”
“Thật ư?” Emma hỏi. “Làm sao ông biết được?”
“Bắt cóc và vận chuyển các Chủ Vòng khi họ đang ở dạng người và có thể thi triển các phép thuật làm ngừng thời gian là một việc làm nguy hiểm. Tuy nhiên, khi ở dạng chim, quyền năng của họ rất hạn chế. Theo cách này, cô phụ trách của các cô cậu trở nên nhỏ gọn, dễ cất giấu… và ít đe dọa hơn.” Con chó nhìn cô Peregrine. “Gã xác sống đã bắt bà có phun thứ gì lên bà không?” nó hỏi bà. “Một chất lỏng hay chất khí nào đó?”
Cô Peregrine gật gù – có vẻ như một cái gật đầu.
Bronwyn há hốc miệng. “Ôi, cô phụ trách, em rất xin lỗi. Chúng em không hề biết.”
Tôi cảm thấy cảm giác tội lỗi nhói lên. Chính tôi đã dẫn đám xác sống tới hòn đảo. Tôi chính là lý do khiến chuyện này xảy ra với cô Peregrine. Tôi đã làm đám trẻ đặc biệt mất đi mái nhà của họ, hay ít nhất là một phần. Nỗi hổ thẹn mà những điều đó gây nên chèn nặng như một tảng đá trong họng tôi.
Tôi nói, “Nhưng rồi bà ấy sẽ khá hơn đúng không? Và sẽ trở lại hình người chứ?”
“Cánh của bà ấy sẽ lành lại,” Addison đáp, “nhưng nếu không có sự trợ giúp, bà ấy sẽ không thể trở lại hình người được.”
“Cô ấy cần sự giúp đỡ thế nào?” Emma hỏi. “Ông có thể giúp cô ấy được không?”
“Chỉ một Chủ Vòng khác mới có thể giúp bà ấy. Và bà ấy còn rất ít thời gian.”
Tôi cứng người lại. Đây là một tin mới.
“Ý ông là sao?” Emma hỏi.
“Tôi không thích trở thành kẻ báo tin xấu,” Addison nói, “nhưng hai ngày là khoảng thời gian rất dài với một Chủ Vòng khi bị giam hãm trong hình dạng này. Càng trải qua nhiều thời gian dưới dạng chim, phần bản thể người của bà ấy càng bị mất đi. Ký ức, ngôn ngữ của bà ấy – mọi thứ tạo nên con người bà ấy – cho tới khi cuối cùng, bà ấy sẽ không còn là Chủ Vòng nữa. Bà ấy sẽ chỉ là một con chim, vĩnh viễn.
Trong đầu tôi hiện lên hình ảnh cô Peregrine nằm xoài trên giường bệnh của một phòng cấp cứu, xúm quanh là các bác sĩ, hơi thở đã ngừng – mỗi tích tắc trôi qua đều gây ra cho bộ não bà một tổn thương mới không thể chữa lành.
“Bao lâu?” Millard hỏi. “Cô ấy còn thêm bao lâu nữa?”
Addison nheo mắt, lắc đầu. “Hai ngày, nếu bà ấy mạnh mẽ.”
Những tiếng thì thầm và thảng thốt vang lên. Chúng tôi ai nấy đều tái mặt.
“Ông chắc chứ?” Emma nói. “Ông có hoàn toàn, thực sự chắc không?”
“Tôi từng chứng kiến chuyện đó xảy ra trước đây rồi.” Addison chỉ chân về phía con cú nhỏ đang đậu trên cành cây gần đó. “Olivia đây vốn là một Chủ Vòng trẻ nhưng gặp phải một tai nạn nghiêm trọng trong quá trình huấn luyện. Người ta mang cô ấy tới chỗ chúng tôi năm ngày sau đó. Cô Wren và tôi đã làm tất cả những gì có thể để cố đưa cô ấy trở lại hình người, nhưng chỉ vô vọng. Chuyện đó xảy ra mười năm trước; kể từ dạo ấy, Olivia vẫn cứ thế này.”
Con cú mở to mắt nhìn chăm chăm câm lặng. Bên trong nó không còn sức sống nào ngoài một con vật; có thể thấy ngay điều đó trong sự vô hồn của đôi mắt.
Emma đứng dậy. Cô dường như định nói gì đó – tôi hi vọng là để tập hợp chúng tôi, thúc giục chúng tôi hành động bằng những lời hô hào truyền cảm hứng nào đó – nhưng có vẻ cô không thể nói ra lời. Cố kìm lại tiếng nức nở, cô loạng choạng đi xa khỏi chúng tôi.
Tôi gọi với theo, nhưng Emma không dừng lại. Những người khác chỉ nhìn cô bước đi, choáng váng trước tin xấu kinh khủng; và cũng choáng váng trước biểu hiện của sự yếu đuối hay do dự từ Emma. Cô đã duy trì được sự mạnh mẽ của mình trước tất cả những người khác lâu đến mức chúng tôi dần coi thái độ đó là đương nhiên, nhưng cô không phải là sắt đá. Emma có thể đặc biệt, song cô cũng là một con người.
“Tốt hơn cậu nên đi gọi cô ấy về đi, Jacob,” Bronwyn nói với tôi. “Chúng ta không nên nán lại đây lâu.”
***
Khi tôi bắt kịp Emma, cô đang đứng gần rìa bãi đất phẳng trên đỉnh núi, nhìn chăm chú xuống phong cảnh bên dưới, những triền đồi dốc xanh rì thoai thoải dần xuống vùng đồng bằng phía xa. Cô nghe thấy tôi lại gần nhưng không ngoái lại.
Tôi lung túng đứng cạnh cô và cố nghĩ ra lời lẽ nào đó phấn chấn để nói. “Tớ biết cậu đang sợ, và… và ba ngày có vẻ không phải là quãng thời gian dài, nhưng…”
“Hai ngày,” cô nói. “Có thể là hai ngày.” Đôi môi cô run rẩy. “Và đó thậm chí còn chưa phải là điều tồi tệ nhất.”
Tôi giật mình. “Làm thế nào tình hình lại có thể tồn tại hơn nữa?”
Emma đã cố gắng kìm chế để khỏi rơi nước mắt, nhưng giờ đây, trong cơn vỡ òa đột ngột, cô đã thua. Cô ngồi phịch xuống đất và nức nở, một cơn bão tố bao trùm lấy cô. Tôi quỳ gối xuống, đưa cánh tay ôm lấy Emma và giữ chặt. “Tớ xin lỗi,” cô nói, nhắc lại câu đó ba lần, giọng khàn khan, như một sợi thừng bị tước rách dần. “Đáng ra cậu không bao giờ nên ở lại. Đáng ra tớ không nên để cậu ở lại. Nhưng tớ đã ích kỷ… ích kỷ khủng khiếp!”
“Đừng nói vậy,” tôi nói. “Tớ ở đây… tớ ở đây, và tớ sẽ không đi đâu cả.”
Câu nói đó dường như chỉ làm cô khóc dữ hơn. Tôi ép môi lên trán cô, hôn lên đó cho tới khi cơn bão tố bắt đầu lắng dịu trong cô, nhưng tiếng nức nở khẽ dần chỉ còn là thút thít. “Hãy nói cho tớ biết đi,” tôi nói. “Nói cho tớ biết điều gì không ổn.”
Sau một phút, Emma đứng dậy, lau mắt và cố trấn tĩnh lại. “Tớ đã hi vọng không bao giờ phải nói điều này,” cô nói. “Hy vọng rằng điều đó sẽ chẳng nghiêm trọng. Cậu có nhớ lúc tớ nói với cậu, vào buổi tối cậu quyết định đi cùng bọn tớ, là có thể cậu sẽ không bao giờ về nhà được nữa không?”
“Tất nhiên tớ nhớ.”
“Cho đến lúc này tớ đã không hề biết điều đó thực sự đúng đến mức nào. Tớ sợ là tớ đã kết án cậu, Jacob, bạn thân mến, vào một cuộc sống ngắn ngủi kẹt trong một thế giới đang lụi tàn.” Cô hít một hơi run rẩy, rồi nói tiếp. “Cậu đến với chúng tớ qua Vòng Thời Gian của cô Peregrine, và điều đó có nghĩa là chỉ cô Peregrine hay Vòng Thời Gian của cô mới có thể giúp cậu quay trở lại. Nhưng giờ đây Vòng Thời Gian của cô không còn nữa – hoặc nếu nó chưa biến mất thì cũng sắp rồi – như thế thì cô Peregrine là đường về nhà duy nhất của cậu. Nhưng nếu cô không bao giờ trở lại hình người nữa…”
Tôi nặng nề nuốt khan, cổ họng tôi khô khốc. “Thì tớ sẽ mắc kẹt trong quá khứ.”
“Phải. Và cách duy nhất để trở về cái thời vẫn được cậu coi là thời của cậu là phải đợi nó – từng ngày, từng năm.”
Bảy mươi năm. Đến khi đó bố mẹ tôi, và tất cả những ai tôi biết hay quan tâm hẳn đều đã chết, còn với họ thì tôi cũng đã chết từ lâu. Tất nhiên, nếu như chúng tôi sống sót qua được tất cả những thử thách sắp phải đối diện, tôi vẫn luôn có thể đi tìm bố mẹ tôi trong vài thập kỷ nữa, sau khi họ ra đời – nhưng để làm gì? Họ sẽ chỉ là những đứa trẻ, những người xa lạ với tôi.
Tôi tự hỏi đến khi nào bố mẹ tôi trong thời hiện tại ở nhà sẽ từ bỏ hy vọng tìm thấy tôi còn sống. Họ sẽ tự kể cho nhau những chuyện gì để lý giải cho sự biến mất của tôi. Có phải tôi đã bỏ trốn? Hay bị mất trí? Hay gieo mình xuống biển từ một vách đá?
Liệu họ có tổ chức tang lễ cho tôi? Mua cho tôi một cỗ quan tài? Khắc tên tôi lên bia mộ?
Tôi sẽ trở thành một bí ẩn họ không bao giờ lý giải được. Một vết thương không bao giờ lành.
“Tớ rất xin lỗi,” Emma lại nói. “Nếu biết tình hình của cô Peregrine tồi tệ đến thế, tớ xin thề với cậu, tớ sẽ không bao giờ đề nghị cậu ở lại. Hiện tại không có ý nghĩa gì với tất cả bọn tớ. Nó sẽ giết chết bọn tớ nếu bọn tớ lưu lại đó quá lâu! Nhưng cậu – cậu vẫn còn gia đình, một cuộc sống…”
“Không!” tôi nói, hét lên, vung bàn tay đập xuống đất – để xua đuổi những ý nghĩ than thân trách phận bắt đầu phủ bóng trong đầu. “Tất cả giờ đã qua rồi. Tớ đã chọn ở đây.”
Emma áp tay lên bàn tay tôi và dịu dàng nói, “Nếu những gì các động vật nói là đúng, và tất cả các Chủ Vòng của chúng ta đã bị bắt cóc, chẳng bao lâu nữa nơi đây cũng không còn.” Cô bốc lấy một ít đất trong bàn tay rồi rải chúng bay theo gió. “Không có các Chủ Vòng để duy trì các Vòng Thời Gian, chúng sẽ sụp đổ. Đám xác sống sẽ lợi dụng các Chủ Vòng để thực hiện lại thí nghiệm đáng nguyền rủa của chúng, và tai họa năm 1908 sẽ tái diễn – và hoặc chúng sẽ thất bại, cả thế giới sẽ bị biến thành một hố sâu bốc khói, hoặc chúng sẽ thành công và trở thành bất tử, khi đó chúng ta sẽ bị đám quái vật đó thống trị. Dù theo cách nào đi nữa, chúng ta sẽ sớm tuyệt chủng, nghiêm trọng hơn cả tình hình của các động vật đặc biệt! Và giờ tớ lại kéo cậu vào cơn ác mộng vô vọng này – để làm gì kia chứ?”
“Chuyện nào xảy ra cũng đều có lý do cả,” tôi nói.
Tôi không thể tin những lời đó lại được nói ra từ miệng mình, nhưng ngay khi chúng vang lên tôi đã cảm thấy sự đích xác của chúng ngân vang lên trong tôi như một tiếng chuông.
Tôi ở đây vì lý do nào đó. Có một điều đã khiến tôi được sinh ra không chỉ để tồn tại, mà để hành động – và hành động đó không phải là bỏ chạy, lẩn trốn hay bỏ cuộc ngay khi tình thế có vẻ khủng khiếp và vô vọng.
“Tớ tưởng cậu không tin vào định mệnh,” Emma nói, xem xét tôi với vẻ hoài nghi.
Tôi từng không tin – không hẳn là tin – nhưng tôi cũng không chắc nên giải thích thế nào về thứ tôi tin nữa. Tôi nghĩ lại những câu chuyện ông nội thường hay kể cho tôi nghe. Chúng đầy ắp những điều kỳ diệu và phiêu lưu, nhưng xuyên suốt chúng còn một điều sâu sắc hơn nữa – cái cảm giác biết ơn vĩnh cửu. Khi còn bé, tôi đã tập trung vào phần ông nội Portman mô tả một hòn đảo đầy mầu nhiệm cùng những đứa trẻ đặc biệt với năng lực kỳ diệu, nhưng giữ vai trò trung tâm trong các câu chuyện của ông lại là Peregrine, việc bà đã giúp đỡ ông vào thời khắc cần kíp khẩn thiết như thế nào. Khi tới xứ Wales, ông tôi từng là một cậu bé hoảng loạn, không nói được ngôn ngữ của nơi này, một cậu bé bị hai loại quái vật săn đuổi: một loại cuối cùng đã giết hại gần hết thành viên gia đình cậu, còn loại kia, gớm ghiếc đến khó tả và vô hình với tất cả mọi người trừ cậu, và có vẻ như trực tiếp bước ra từ những cơn ác mộng của cậu. Đối mặt với những mối đe dọa này, cô Peregrine đã che giấu ông, cho ông một mái nhà, và giúp ông khám phá ra con người thực của mình – bà đã cứu cuộc đời ông, và khi làm thế, bà cũng đã góp phần vào sự ra đời của bố tôi, và sau đó, của chính tôi. Bố mẹ tôi đã sinh ra, nuôi dạy và yêu quý tôi, và vì thế tôi nợ họ. Nhưng tôi hẳn đã không bao giờ có cơ hội chào đời nếu không nhờ lòng nhân ái lớn lao, vị tha cô Peregrine dành cho ông tôi. Tôi đã bắt đầu dần tin rằng mình được đưa tới đây để báo đáp món nợ đó – của chính tôi, của bố tôi, và cả ông tôi nữa.
Tôi cố hết sức để giải thích. “Chuyện này không phải là định mệnh,” tôi nói, “nhưng tớ thực sự nghĩ có một sự cân bằng trên thế giới, và đôi lúc những thế lực chúng ta không hiểu nổi can thiệp vào để chỉnh cán cân theo đúng hướng. Cô Peregrine đã cứu ông tớ, và giờ tớ có mặt ở đây để góp phần cứu bà.”
Emma nheo mắt lại, chậm rãi gật đầu. Tôi không thể đoán chắc liệu cô đang đồng ý với tôi hay tìm một cách lịch sự để nói với tôi là tôi đã mất trí..
Rồi cô ôm lấy tôi.
Tôi không cần giải thích thêm nữa. Emma đã hiểu.
Cả cô cũng nợ cô Peregrine mạng sống.
“Chúng ta có ba ngày,” tôi nói. “Chúng ta sẽ tới London, giải thoát một trong số các Chủ Vòng, rồi chữa khỏi cho cô Peregrine. Tình hình vẫn chưa vô vọng. Chúng ta sẽ cứu bà ấy, Emma, hoặc chết trong khi cố làm điều đó.” Những lời nói nghe có vẻ can trường và kiên quyết tới mức trong một khoảnh khắc tôi tự hỏi liệu tôi có thật là người đã nói ra chúng.
Trước sự ngạc nhiên của tôi, Emma bật cười, như thế cô thấy những lời tôi nói có vẻ gì đó tức cười, rồi cô nhìn đi hướng khác trong một thoáng. Khi cô quay lại nhìn tôi, quai hàm cô nghiến chặt, đôi mắt sáng lên; sự tự tin trước đây của Emma đã quay trở lại. “Đôi lúc tớ không thể chắc chắn được liệu cậu hoàn toàn mất trí hay cậu là một thứ phép mầu,” cô nói. “Dù tớ bắt đầu nghĩ có lẽ khả năng thứ hai là đúng.”
Cô vòng hai cánh tay ôm lấy tôi lần nữa, và chúng tôi ôm chặt lấy nhau hồi lâu, cô tựa đầu lên vai tôi, hơi thở của cô ấm áp phả vào cổ tôi, vậy là đột nghiên tôi không muốn gì hơn là loại bỏ nốt những khoảng cách nhỏ nhoi còn lại giữa cơ thể chúng tôi, hòa làm một. Nhưng sau đó cô gỡ mình ra, hôn lên trán tôi rồi bắt đầu quay trở lại chỗ những người khác. Tôi quá ngây ngất đến nỗi không thể đi theo ngay lập tức, vì vừa có một điều mới mẻ diễn ra, một vòng quay bên trong tim tôi trước đây tôi chưa bao giờ nhận thấy, và nó đang quay tít nhanh đến mức làm tôi chóng mặt. Và Emma càng đi xa dần, vòng quay đó càng quay nhanh hơn, như thể có một cuộn dây vô hình đang tuột ra từ nó, nối giữa hai chúng tôi, và nếu cô đi quá xa sợi dây đó sẽ đứt phựt – và giết chết tôi.
Tôi băn khoăn không biết liệu cảm giác đau nhói lạ lùng, ngọt ngào này có phải là yêu.
***
Những người khác đang xúm lại dưới bóng cây, cả những đứa trẻ và đám động vật. Emma và tôi rảo bước về phía họ. Tôi cảm thấy thôi thúc muốn khoác tay cô, và thiếu chút nữa đã làm thế nếu không phải một điều đã ập đến làm tôi nghĩ lại. Tôi đột nhiên ý thức được – khi Enoch quay sang nhìn chúng tôi với sự nghi ngờ rõ ràng mà cậu ta luôn dành cho tôi trước đây, và giờ đây dành cho cả hai chúng tôi, với mức độ ngày càng tăng – là Emma và tôi đã trở thành một đội tách riêng khỏi những người khác, một mối liên kết riêng tư với những bí mật và hứa hẹn chỉ của hai người.
Bronwyn đứng lên khi chúng tôi lại gần, “Cậu ổn cả chứ, Emma?”
“Ổn cả, ổn cả,” Emma vội nói, “chỉ là tớ bị thứ gì đó bay vào mắt thôi. Bây giờ, tất cả mọi người thu dọn đồ đạc của mình. Chúng ta phải tới London lập tức, và tìm cách chữa cho cô Peregrine trở lại như cũ!”
“Bọn tớ rất mừng là cậu đồng ý,” Enoch nói kèm theo một cái đảo mắt. “Bọn tớ cũng đã đi tới kết luận đó vài phút trước, khi hai người đang ở đằng kia thì thầm.”
Emma đỏ mặt, nhưng không mắc bẫy khiêu khích của Enoch. Vào lúc này, còn nhiều chuyện quan trọng cần lo hơn là vài xung đột vặt vãnh – cụ thể là vô vàn nguy hiểm khó lường của cuộc hành trình chúng tôi sắp thực hiện. “Tớ chắc tất cả mọi người đều đã ý thức được,” Emma nói, “dù có đánh giá theo bất kỳ tiêu chí nào, đây vẫn là một kế hoạch rất tồi mà hy vọng thành công vô cùng ít ỏi.” Cô đưa ra một số lý do. London ở cách đây rất xa – có thể theo tiêu chuẩn của thế giới ngày nay thì không, khi chúng ta có thể dùng GPS tìm đường tới ga tàu hỏa gần nhất và lên một chuyến tàu tốc hành nhanh chóng đưa chúng ta tới trung tâm thành phố trong vài giờ. Tuy nhiên, vào năm 1940, ở một nước Anh đang bị chiến tranh làm rung chuyển, London dường như cách xa cả thế giới: các tuyến đường bộ và đường sắt có thể bị tắc nghẽn vì người tị nạn, bị bom phá hủy, hay bị dành riêng cho các đoàn quân xa, bất cứ lý do nào cũng có thể buộc chúng tôi phải mất thêm thời gian mà cô Peregrine không còn để lãng phí. Tệ hơn thế, chúng tôi sẽ bị săn đuổi – và thậm chí còn ráo riết hơn lúc trước đây, khi bây giờ gần như toàn bộ các Chủ Vòng khác đã bị bắt giữ.
“Hãy quên chuyến đi đi!” Addison nói. “Đó là điều ít đáng lo nghĩ nhất với các cô cậu! Có lẽ tôi đã can gián không đủ thuyết phục khi chúng ta bàn bạc chuyện này lúc trước. Có lẽ các cô cậu chưa hoàn toàn hiểu rõ tình hình các Chủ Vòng đang bị giam cầm.” Con chó nhấn mạnh từng âm tiết như thể chúng tôi bị nặng tai. “Chẳng lẽ chưa ai trong các cô cậu từng đọc về các Vòng Trừng Phạt từ những cuốn sách về lịch sử thế giới đặc biệt của các vị sao?”
“Tất nhiên là chúng tôi có đọc,” Emma nói.
“Vậy thì các cô cậu phải biết tìm cách xâm nhập vào đó cũng đồng nghĩa với tự sát. Chúng là những cái bẫy chết người, từng cái một trong chúng đều chứa đựng những giai đoạn kinh hoàng nhất của lịch sử London – vụ Đại Hỏa hoạn năm 1666; cuộc vây hãm chết chóc của người Viking năm 842; đỉnh cao thảm khốc của Dịch bệnh ghê rợn! Người ta không xuất bản các bản đồ định vị những nơi này vì lý do hiển nhiên. Vì thế, trừ phi các cô cậu đã có kinh nghiệm thực tế về những phần bí hiểm nhất của thế giới đặc biệt…”
“Tôi là người chuyên nghiên cứu về những Vòng Thời Gian bí hiểm và khó chịu,” Millard lên tiếng. “Điều đó từng là thú vui trong nhiều năm.”
“Khá lắm!” Addison nói. “Vậy tôi đoán cậu có cách để vượt qua cả bầy hồn rỗng canh gác lối vào của chúng nữa!”
Đột nhiên, có vẻ như ánh mặt mọi người đều đổ dồn vào tôi. Tôi khó nhọc nuốt vào, cố tỏ vẻ tự tin và nói, “Phải, thực tế thì chúng tôi có cách.”
“Tốt hơn nên thế,” Enoch lầm bầm.
Sau đó Bronwyn nói, “Tớ tin cậu, Jacob. Tớ chưa biết cậu lâu, nhưng tớ cảm thấy mình biết rõ trái tim cậu, một trái tim mạnh mẽ, chân thành – một trái tim đặc biệt – và tớ tin cậu.” Cô cúi người tựa sát vào tôi, khoác vai tôi, và tôi cảm thấy cổ họng thít lại.
“Cảm ơn cậu,” tôi nói, cảm thấy thật kém cỏi nhỏ bé trước cảm xúc lớn lao của cô.
Con chó tặc lưỡi. “Điên rồ. Các cô cậu chẳng có chút bản năng tự bảo tồn nào. Quả là kỳ diệu khi các cô cậu bây giờ vẫn còn hít thở.”
Emma bước tới trước mặt Addison và tìm cách làm con chó im lặng. “Phải, kỳ diệu,” cô nói, “cám ơn ông vì đã khai sáng cho chúng tôi bằng quan điểm của mình. Giờ đây, gạt những bi quan qua một bên, tôi cần phải hỏi các bạn còn lại: có ai phản đối gì việc chúng tôi đang đề xuất không? Tôi không muốn ai tình nguyện vì cảm thấy bị gây sức ép.”
Horace rụt rè từ từ giơ tay lên. “Nếu London là nơi tất cả đám xác sống đang có mặt, chẳng phải tới đó cũng có nghĩa là bước thẳng vào tay chúng? Liệu đó có phải là ý hay không?”
“Đó là một ý tưởng thiên tài,” Enoch bực bội nói. “Bọn xác sống tin chắc những đứa trẻ đặc biệt chúng ta đều ngoan ngoãn, yếu đuối. Việc chúng ta lần theo là điều chúng không bao giờ lường được.”
“Thế nhỡ chúng ta thất bại thì sao?” Horace hỏi. “Chúng ta sẽ tự tay giao cô Peregrine tới tận trước cửa nhà chúng!”
“Ai bảo London là cửa nhà chúng thế?” Hugh nói.
Enoch khịt mũi. “Đừng có bọc đường cho thực tế. Nếu chúng đã phá mở được các Vòng Thời Gian dùng làm nhà tù và sử dụng những nơi này để giam giữ các Chủ Vòng của chúng ta, các cậu có thể đánh cược hết thịt trên người của mình là chúng cũng đã kiểm soát nốt phần còn lại của thành phố! London chắc chắn sẽ nhung nhúc lũ chúng, hãy nhớ lấy lời tớ. Nếu không phải thế, đám xác sống đã chả bao giờ bận tâm truy lùng chúng ta trên hòn đảo Cairnholm cũ kỹ. Đó là chiến lược quân sự cơ bản. Trong chiến trận, đầu tiên các cậu không nhắm vào ngón chân hồng hồng của kẻ thù – các cậu sẽ đâm thẳng vào tim hắn!”
“Làm ơn nào,” Horace rên rẩm, “nói về những Vòng Thời Gian bị phá hủy và những quả tim bị đâm thế là đủ rồi đấy. Cậu làm mấy đứa nhỏ phát hoảng bây giờ!”
“Tớ không sợ!” Olive nói.
Horace co rúm lại. Ai đó lẩm bẩm đồ hèn.
“Không được nói thế!” Emma gay gắt nói. “Thấy sợ thì cũng chẳng có gì sai cả. Như thế có nghĩa là các cậu nhìn nhận điều cực kỳ nghiêm túc chúng tớ đề xuất một cách rất nghiêm chỉnh. Bởi vì, phải, việc này sẽ nguy hiểm. Phải, cơ hội thành công rất nhỏ nhoi. Và thậm chí dù chúng ta có tới được London, không gì đảm bảo chúng ta sẽ có thể tìm ra các Chủ Vòng, chưa nói gì tới cứu được một người. Hoàn toàn có khả năng là cuối cùng chúng ta sẽ héo mòn dần trong một nhà tù nào đó của bọn xác sống hoặc bị tiêu hóa trong bụng một con hồn rỗng. Mọi người hiểu cả chưa?”
Những cái gật đầu nghiêm nghị tỏ vẻ đã hiểu.
“Tớ có bọc đường thứ gì không, Enoch?”
Enoch lắc đầu.
“Nếu thử làm việc này,” Emma nói tiếp, “rất có thể chúng ta sẽ mất cô Peregrine. Chừng đó là điều không còn gì để tranh luận nữa. Nhưng nếu không thử, nếu không đi, khi đó chắc chắn chúng ta sẽ mất cô – và kiểu gì lũ xác sống cũng sẽ bắt được chúng ta! Nói như vậy nghĩa là ai cảm thấy không đủ can đảm thực hiện chuyến đi có thể ở lại.” Cô muốn nói tới Horace và tất cả chúng tôi đều biết. Horace nhìn chăm chăm xuống đất. “Cậu có thể ở lại đây, một nơi an toàn, và bọn tớ sẽ tới đón cậu sau, khi trở ngại đã qua. Không có gì phải xấu hổ vì điều đó cả.”
“Có tâm thất trái của tớ chứng giám!” Horace nói. “Nếu tớ ngồi yên cho qua chuyện này thì tớ sẽ chết vì nhục mất.”
Đến cả Claire cũng từ chối bị bỏ lại. “Tớ vừa trải qua tám năm toàn những ngày vui vẻ nhàm chán,” cô nói, đang nằm ngủ dưới bóng cây bèn chống khuỷu tay ngồi nhổm dậy. “Ở lại đây trong khi các cậu đi phiêu lưu ư? Không đời nào!” Nhưng khi cố đứng dậy, cô nhận ra mình không thể, và lại nằm vật xuống, ho sặc sụa và chóng mặt. Cho dù thứ chất lỏng như nước rửa bát cô uống lúc trước đã làm cơn sốt dịu phần nào, vẫn không thể có chuyện Claire đủ sức thực hiện chuyến đi tới London – không phải hôm nay, hay ngày mai, và chắc chắn cũng không kịp thời gian để giúp cô Peregrine. Ai đó cần ở lại cùng Claire trong khi cô bé hồi phục.
Emma đề nghị mọi người xung phong tình nguyện. Olive giơ tay lên, nhưng Bronwyn bảo cô bé hãy quên chuyện đó đi – cô còn quá nhỏ. Bronwyn nhấp nhổm định giơ tay lên, nhưng rồi lại thôi. Cô nói đang bị giằng xé giữa mong muốn bảo vệ Claire và bổn phận với cô Peregrine.
Enoch đưa khuỷu tay huých Horace. “Có chuyện gì với cậu vậy?” Enoch châm chọc. “Đây là cơ hội tuyệt vời để cậu được tụt lại sau còn gì!”
“Tớ muốn phiêu lưu, tớ thực sự và thành thật muốn,” Horace khăng khăng. “Nhưng tớ cũng muốn được chứng kiến sinh nhật thứ 105 của mình, nếu cả hai đều có thể. Hãy hứa là chúng ta không cố cứu vớt cả cái thế giới bị nguyền rủa này đấy nhé?”
“Chúng ta chỉ muốn cứu cô P thôi,” Emma nói, “nhưng tớ không thể cam đoan gì về sinh nhật của bất cứ ai.”
Horace có vẻ hài lòng với câu trả lời này, và cả hai tay cậu ta vẫn nằm yên vị hai bên sườn.
“Còn ai khác không?” Emma vừa hỏi vừa nhìn quanh.
“Được rồi,” Claire nói. “Tớ có thể tự lo được cho mình.”
“Không có chuyện đó đâu,” Emma nói. “Những người đặc biệt chúng ta phải trông nom nhau.”
Bàn tay Fiona giơ lên. Cô lặng lẽ quá, tới mức tôi gần như quên mất cô đang ngồi cùng chúng tôi.
“Ê, cậu không được!” Hugh nói. Cậu ta trông có vẻ bị tổn thương, như thế Fiona đã chối bỏ cậu ta khi tình nguyện ở lại. Cô nhìn cậu ta với đôi mắt to tròn buồn bã, nhưng bàn tay cô vẫn giơ nguyên.
“Cảm ơn cậu, Fiona,” Emma nói. “Nếu may mắn, chỉ vài ngày nữa là bọn tớ gặp lại cả hai cậu thôi.”
“Xin như Chim muốn,” Bronwyn nói.
“Như Chim muốn,” những người khác hòa theo.
***
Chiều trôi dần sang tối. Trong một giờ nữa, trời sẽ tối trong Vòng Thời Gian của những con vật, và việc tìm đường xuống núi sẽ nguy hiểm hơn nhiều với chúng tôi. Trong lúc chúng tôi sửa soạn rời đi, những con vật tốt bụng chuẩn bị cho chúng tôi thực phẩm tươi ngon và những chiếc áo dệt từ len của con cừu đặc biệt, dù chính xác là gì thì cô bán lừa cao cổ không thể nhớ rõ ràng. “Không bắt lửa, tôi nghĩ vậy, hoặc có thể là không thấm nước. Phải rồi, chúng không bao giờ chìm trong nước, giống như những cái áo phao nhỏ vậy. Hay có thể, ồ, tôi không biết nữa, dù sao thì chúng cũng ấm!”
Chúng tôi cảm ơn Deirdre rồi gập áo lại cho vào chiếc rương của Bronwyn. Sau đó, Grunt bước tới, cúi gập người ra trước, bê một cái gói giấy có buộc dây. “Một món quà từ bầy gà mái,” Deirdre giải thích, nháy mắt trong khi Grunt ấn nó vào tay tôi. “Đừng đánh rơi cái gói.”
Một người khôn khéo hơn tôi hẳn đã cân nhắc thiệt hơn về chuyện mang chất nổ theo trong chuyến đi, nhưng chúng tôi đang cảm thấy mình rất dễ bị tấn công, và cả con chó lẫn cô bán lừa cao cổ đều thề rằng nếu chúng tôi nhẹ nhàng với những quả trứng thì chúng sẽ không phát nổ, vậy là chúng tôi cẩn thận xếp chúng vào giữa những chiếc áo len trong cái rương của Bronwyn. Đến lúc này, ít nhất chúng tôi không còn phải tay không đối diện với những kẻ có súng.
Sau đó, chúng tôi đã gần sẵn sàng, ngoại trừ một điều: khi rời khỏi Vòng Thời Gian của những con vật, chúng tôi sẽ trở lại lạc đường như khi tới. Chúng tôi cần biết phương hướng.
“Tôi có thể chỉ cho các cô cậu đường ra khỏi khu rừng,” Addison nói. “Hãy gặp tôi trên đỉnh tòa tháp của cô Wren.”
Không gian trên đỉnh tháp chật hẹp tới mức chỉ hai người trong chúng tôi đứng được cùng nhau trên đó, vậy nên Emma và tôi đi, leo lên những thanh tà vẹt xếp thành tòa tháp như những bậc của một cái thang khổng lồ. Grunt leo thoăn thoắt như khỉ lên tới đỉnh chỉ mất nửa thời gian, cắp theo Addison dưới nách.
Tầm nhìn từ trên đỉnh thật kinh ngạc. Về phía Đông, những triền rừng dốc thoai thoải trải dài ra xa rồi nhường chỗ cho đồng bằng hoang vu bát ngát. Về phía Tây, bạn có thể nhìn suốt tới tận đại dương, ở đó có một con tàu có vẻ cổ xưa với những lá buồm lớn phức tạp đang lướt đi theo bờ biển. Tôi chưa bao giờ hỏi ở đây đang là năm nào – 1492? 1750? – nhưng tôi đoán với những con vật điều đó chẳng mấy quan trọng. Đây là một nơi an toàn cách xa thế giới loài người, và chỉ trong thế giới loài người năm tháng mới tạo ra sự khác biệt.
“Các cô cậu sẽ hướng về phía Bắc,” Addison nói, quả quyết hướng cái tẩu của mình về phía một con đường có thể thấy loáng thoáng chạy qua những hàng cây bên dưới như một nét kẻ mờ bằng bút chì. “Ở cuối con đường đó là một thị trấn, và ở trong thị trấn đó – ít nhất là ở thời gian của các cô cậu – có một ga tàu hỏa. Thời điểm các cô cậu di chuyển giữa các Vòng Thời Gian là khi nào nhỉ - 1940 phải không?”
“Đúng thế,” Emma đáp.
Dù chỉ hiểu lơ mơ điều hai người họ đang nói đến, tôi vẫn là kẻ chưa bao giờ ngại đưa ra những câu hỏi ngớ ngẩn. “Cứ đi từ đây ra luôn thì sao?” tôi hỏi. “Đi tới London ngay trong năm hiện tại, dù nó là năm nào đi nữa?”
“Cách duy nhất là dùng ngựa hay xe ngựa,” Addison nói, “sẽ mất vài ngày… lại còn gây ra những chuyện rầy rà đáng kể, theo kinh nghiệm của tôi. Tôi e rằng các cô cậu không còn nhiều thời gian đến thế để lãng phí.” Con chó quay lại dùng mũi đẩy mở cánh cửa dẫn vào căn nhà nhỏ trên đỉnh tháp. “Mời vào,” nó nói, “còn một thứ nữa tôi muốn cho các cô cậu xem.”
Chúng tôi theo Addison vào trong. Căn nhà rất chật chội và giản dị, khác xa tòa nhà vương giả của cô Peregrine. Toàn bộ đồ nội thất gồm một cái giường nhỏ, một tủ đựng quần áo và một bàn viết có nắp cuộn. Một cây kính viễn vọng được lắp trên giá ba chân hướng ra ngoài cửa sổ: đài quan sát của cô Wren, bà dùng nó để theo dõi những dấu hiệu bất trắc và những con bồ câu điệp viên dưới quyền hết đi rồi lại đến.
Addison tới bên bàn. “Nếu các cô cậu gặp khó khăn gì trong việc tìm đường,” con chó nói, “ở đây có tấm bản đồ khu rừng.”
Emma mở nắp bàn ra và tìm thấy tấm bản đồ, một cuộn giấy cũ ố vàng. Bên dưới là một bức ảnh nhàu nhĩ. Bức ảnh chụp một phụ nữ quàng khăn san đen có những hình tròn kim loại trang trí với mái tóc hoa râm búi cao lên theo kiểu thật lạ. Bà đang đứng cạnh một con gà mái. Thoạt nhìn, nó giống như một kiểu ảnh chụp hỏng vào một khoảnh khắc không tập trung khi người phụ nữ đang nhìn đi hướng khác với đôi mắt khép lại, thế nhưng lại có một điều rất hợp lý trong bức ảnh – màu tóc và trang phục của người phụ nữ tiệp với bộ lông đốm trắng và đen của con gà mái; người phụ nữ và con gà đang ngoảnh mặt đi hai hướng đối diện, ngụ ý một mối liên hệ lạ lùng giữa họ, như thế họ đang nói với nhau mà không dùng đến lời; đang mơ về nhau.
Rõ ràng đây là cô Wren.
Nhìn thấy bức ảnh Addison dường như có rúm lại. Tôi có thể đoan chắc con chó lo lắng cho bà, nhiều hơn những gì nó muốn thừa nhận. “Làm ơn đừng coi đây là sự đồng thuận với chuyến đi tự sát của các cô cậu,” nó nói, “nhưng nếu các cô cậu thành công trong nỗ lực điên rồ của mình… và tình cờ gặp cô Wren trên đường… các cô cậu có thể cân nhắc… ý tôi là, liệu các cô cậu có thể cân nhắc…”
“Chúng tôi sẽ bảo bà ấy về nhà,” Emma nói, sau đó gãi gãi lên đầu Addison. Đó là một cử chỉ hoàn toàn bình thường với một con chó, nhưng dường như lại là chuyện lạ với một con chó biết nói.
“Chó cầu chúc may mắn cho các cô cậu,” Addison đáp.
Sau đó, tôi định vuốt ve con chó, nhưng nó đã đứng lên hai chân sau và nói, “Cậu không phiền chứ? Làm ơn dừng tay lại!”
“Xin lỗi,” tôi lẩm bẩm, và khoảnh khắc lúng túng tiếp sau có thấy rõ ràng đã đến lúc ra đi.
Chúng tôi leo xuống khỏi tòa tháp để tới chỗ các bạn mình, nói lời tạm biệt đầy nước mắt với Claire và Fiona dưới bóng mát của gốc cây to. Đến lúc này Claire đã có một tấm nệm để nằm và chăn để đắp, và như một công chúa, cô chào đón chúng tôi tại chỗ nằm tạm kê ngay trên đất của mình, bòn lấy những lời hứa khi chúng tôi quỳ gối bên cạnh cô.
“Hãy hứa cậu sẽ quay trở lại,” cô nói với tôi khi đến lượt tôi, “và hứa sẽ cứu cô Peregrine.”
“Tớ sẽ cố hết sức,” tôi nói.
“Như thế vẫn chưa được!” cô nghiêm khắc nói.
“Tớ sẽ quay lại,” tôi nói. “Tớ hứa.”
“Và cứu cô Peregrine!”
“Và cứ cô Peregrine,” tôi nhắc lại, dù những lời này nghe thật sáo rỗng; tôi càng cố nói cho có vẻ tự tin thì thực ra lại càng cảm thấy ít tự tin.
“Tốt,” cô gật đầu nói. “Tuyệt vời vô cùng khi được biết cậu, Jacob, và tớ rất mừng vì cậu tới để ở lại.”
“Cả tớ cũng thế,” tôi nói, rồi hối hả đứng dậy vì khuôn mặt bừng sáng với mái tóc vàng óng viền quanh của cô có vẻ chân thành đến mức làm tôi nhói đau. Claire tin tưởng hoàn toàn vào mọi điều chúng tôi nói với cô: rằng cô và Fiona sẽ ổn cả ở đây, giữa những con vật đặc biệt, trong một Vòng Thời Gian đã bị Chủ Vòng của nó bỏ lại. Rằng chúng tôi sẽ quay lại đón họ. Tôi dốc lòng hy vọng điều đó sẽ không chỉ là diễn một màn kịch được dựng lên để khiến nhiệm vụ khó khăn chúng tôi phải làm trở nên khả thi.
Hugh và Fiona đứng riêng sang một bên, tay cầm tay, trán tựa vào nhau, chào tạm biệt theo cách riêng lặng lẽ của họ. Cuối cùng, tất cả chúng tôi đã tạm biệt Claire xong và sẵn sàng lên đường, nhưng không ai muốn quấy rầy hai người họ, vì thế chúng tôi đứng nhìn trong khi Fiona tách mình ra khỏi Hugh, lắc vài hạt cây rơi xuống từ mái tóc tổ chim bù xù của cô, và làm mọc lên một bụi hồng nở đầy những bông hoa đỏ thắm ở đúng nơi họ đã đứng. Những con ong của Hugh ùn tới thụ phấn cho bụi hoa, và trong khi chúng bận bịu với việc đó – như thể cô gái đã tạo ra bụi hoa chỉ để hai người họ có được một khoảnh khắc cho riêng mình – Fiona ôm lấy cậu con trai và thì thầm gì đó vào tai cậu, và Hugh gật đầu rồi thì thầm lại gì đó. Cuối cùng hai người quay lại thì thấy tất cả chúng tôi đang nhìn, Fiona đỏ bừng mặt còn Hugh bước lại chỗ chúng tôi với hai bàn tay đút vào túi quần, bầy ong bay theo thành một dải, và gắt lên, “Đi thôi, màn trình diễn kết thúc rồi.”
Chúng tôi bắt đầu xuống núi đúng lúc trời nhá nhem. Những con vật tiễn chúng tôi tới tận chỗ vách đá dựng đứng,
Olive nói với chúng, “Các bạn không đi cùng chúng tôi sao?”
Cô bán lừa cao cổ khịt mũi. “Ra ngoài đó chúng tôi sẽ không sống sót nổi quá năm phút! Các cô cậu ít nhất có thể hy vọng được coi như những người bình thường. Nhưng nếu ai đó thấy tôi…” Con vật lắc lư thân hình không có chi trước của mình. “Tôi sẽ bị bắn, nhồi bông rồi treo lên trong nháy mắt.”
Sau đó, con chó lại gần Emma và nói, “Nếu tôi có thể yêu cầu một điều cuối cùng từ cô…”
“Ông đã rất tử tế,” cô đáp. “Bất cứ điều gì cũng được.”
“Phiền cô châm tẩu thuốc cho tôi được không? Ở đây chúng tôi không có diêm; cả năm nay tôi chẳng được hút thuốc cho đàng hoàng.”
Emma làm theo yêu cầu, chạm một ngón tay cháy sáng vào nõ tẩu. Con chó bập một hơi thuốc dài đầy hài lòng rồi nói, “Chúc các cô cậu may mắn, những đứa trẻ đặc biệt.”
Thành Phố Hồn Rỗng Thành Phố Hồn Rỗng - Ranson Riggs Thành Phố Hồn Rỗng