Phi Trường epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Phần I . 07
ió ầm ầm, lạnh buốt, vẫn còn mạnh mẽ trên sân bay, và vẫn cuốn tuyết đang rơi nặng hạt theo nó.
Bên trong xe hơi của mình, Mel Bakersfeld lại rùng mình. Ông đang tiến đến đường băng 1-7L, đang được cào tuyết, sau khi rời khỏi đường băng 3-0 và chiếc máy bay phản lực Aéreo-Mexican bị mắc kẹt. Rùng mình là do cái lạnh bên ngoài, Mel tự hỏi, hay là do ký ức, mà hơi thở của sự nguy hiểm một vài phút trước đây, cộng với lời nhắc nhở dai dẳng từ chấn thương cũ ở bàn chân của mình gây ra?
Chấn thương của ông đã xảy ra mười sáu năm trước đây ngoài khơi bờ biển Hàn Quốc khi Mel đang là một phi công hải quân tiến hành các phi vụ từ tàu sân bay Essex. Mười hai giờ trước lúc đó (ông nhớ rõ ràng, ngay cả bây giờ) ông đã có điềm rắc rối. Đó không phải là sự sợ hãi - như những người khác, ông đã quen sống với điều đó; đúng hơn, một niềm tin rằng một điều gì định mệnh, có thể cuối cùng đã di chuyển về hướng ông không thể nào tránh được. Ngày hôm sau, trong một trận không chiến với một chiếc MIG-15, chiếc máy bay hải quân F9F-5 của Mel bị bắn rơi xuống biển.
Ông điều khiển chiếc máy bay đáp xuống nước, nhưng mặc dù bản thân không bị thương, chân trái của ông lại bị vướng vào bàn đạp điều khiển cánh lái bị kẹt. Chiếc máy bay chìm rất nhanh - chiếc F9F-5 có đặc tính nổi như một viên gạch - Mel đã sử dụng con dao săn trong bộ đồ cấp cứu, chém liều mạng, hoang dại, vào bàn chân mình và các bàn đạp. Bằng cách nào đó, ở dưới nước, ông rút chân ra được. Trong cơn đau dữ dội, gần như chết đuối, ông nổi lên.
Ông đã mất tới tám giờ đồng hồ trên biển trước khi được kéo lên, bất tỉnh. Sau đó, ông biết được rằng ông đã cắt đứt dây chằng phía trước mắt cá chân của mình, vì thế bàn chân và chân của ông gần như thẳng, không gập lại được nữa.
Dần dần, y tế Hải quân chữa lành chân ông, dù Mel không còn bao giờ bay được nữa từ đó. Nhưng nhiều lần cơn đau vẫn quay trở lại, nhắc nhở ông rằng linh cảm chẳng lành của ông là đúng. Bây giờ cũng vậy, ông lại có cùng cái linh cảm ấy.
Lái chiếc xe thận trọng, cẩn thận để giữ hướng của mình trong bóng tối và tầm nhìn hạn chế, Mel tiến gần tới đường băng 1-7L. Đây là đường băng mà tháp KSKL sẽ sử dụng khi hướng gió thay đổi như đã được dự báo là sắp xảy ra sớm.
Hiện tại, sân bay đang sử dụng hai đường băng, đường băng 1-7R, và đường băng 2-5.
Sân bay quốc tế Lincoln có tất cả năm đường băng. Qua ba ngày và đêm qua chúng được xem như là chiến tuyến của cuộc chiến giữa sân bay và cơn bão.
Dài nhất và rộng nhất trong số năm đường băng là đường băng 3-0, đường băng hiện nay bị vướng bởi chiếc máy bay Aéreo-Mexican. (Với hướng gió và máy bay tiếp cận từ hướng ngược lại, nó lại được gọi là đường băng 1-2. Những con số trên thay cho hướng 300 độ và 120 độ trên la bàn). Đường băng này dài gần hai dặm và rộng gần như một khu phố ngắn, ở sân bay người ta thường nói đùa rằng đứng từ đầu này không thể thấy được đầu kia của đường băng vì độ cong của trái đất.
Bốn đường băng còn lại ngắn hơn đường băng 3-0 nửa dặm, và hẹp hơn.
Kể từ khi cơn bão bắt đầu, nhiều dặm đường băng đã được cào tuyết, quét, hút đi, và rải cát không ngừng. Các thiết bị cơ giới - những động cơ diesel đang gầm rú có giá nhiều triệu dollar - chỉ ngừng vài phút một lần, chủ yếu là để tiếp nhiên liệu hoặc thay người điều khiển. Đó là công việc mà du khách trên không trung không bao giờ thấy trong tầm mắt vì không một chiếc máy bay nào được sử dụng một đường băng cho đến khi bề mặt của nó đã được dọn sạch, được kiểm tra và công nhận an toàn. Các tiêu chuẩn là chính xác. Lớp tuyết cứng dày nửa inch hoặc lớp tuyết xốp dày ba inch là mức tối đa được phép cho đường băng của máy bay phản lực. Dày hơn thì tuyết có thể bị hút vào động cơ và gây nguy hiểm cho hoạt động.
Thật đáng tiếc, Mel Bakersfeld nghĩ, rằng đội dọn tuyết đường băng không được làm việc công khai cho mọi người xem. Cảnh tượng đó thật ngoạn mục và sôi nổi. Ngay cả bây giờ, trong cơn bão và đêm tối, tiếp cận các thiết bị nặng nề từ phía sau, hiệu quả thật ấn tượng. Những cột tuyết khổng lồ phun ra bên phải như thác theo vòng cung rộng một trăm năm mươi feet. Các vòng cung được chiếu sáng bởi những ngọn đèn pha của xe, và lấp lánh màu sắc của hai mươi chiếc đèn xoay trên mui của mỗi chiếc xe trong nhóm.
Mọi người trong sân bay gọi nhóm đó là đoàn Conga.
Nó có một đầu, một đuôi, một thân, một đoàn xe phụ trợ tháp tùng, và nó tiến trên đường băng với độ chính xác như việc biên đạo múa một vở ballet.
Người trưởng đoàn đi trên xe đầu tiên để dẫn đường. Ông là kỹ thuật viên trưởng trong bộ phận bảo trì của sân bay và lái một chiếc xe công vụ màu vàng sáng, giống như tất cả các xe khác trong đoàn. Người trưởng đoàn Conga quy định tốc độ cho cả đoàn, thường rất nhanh. Ông có hai máy radio và duy trì liên lạc thường xuyên với Phòng chỉ huy chống tuyết và tháp KSKL. Bằng một hệ thống đèn chiếu sáng, ông có thể ra các tín hiệu màu xanh lá cây để “tăng tốc”, màu hổ phách để “duy trì tốc độ”, màu đỏ cho “chậm”, và nhấp nháy màu đỏ để “dừng lại”. Ông được yêu cầu phải nhớ như in trong đầu bản đồ chi tiết của sân bay, và phải biết chính xác nơi ông đang hiện diện, ngay cả trong đêm đen tối nhất, cũng như bây giờ.
Đàng sau người trưởng đoàn, như một nghệ sĩ vĩ cầm số một của dàn nhạc, là xe cào tuyết số một - đêm nay là một chiếc xe hiệu Oshkosh khổng tượng với một lưỡi cắt chính lớn phía trước, và một lưỡi khác bên cạnh. Phía sau và chếch về bên phải xe cào tuyết số một là xe cào tuyết số hai. Xe cào số một cào tuyết qua bên phải; xe cào số hai gom tuyết từ xe số một vừa cào và, cùng số tuyết nó cào thêm, gạt tất cả ra xa hơn.
Sau đó là đến chiếc xe thổi tuyết, đi theo hình bậc thang với những xe cào tuyết, động cơ sáu trăm mã lực đang gầm rú. Chiếc xe thổi tuyết trị giá sáu mươi nghìn dollar và là chiếc sang trọng nhất trong các thiết bị dọn tuyết. Với máy thổi cực mạnh nó hút tuyết do hai xe cào chất đống, và thổi tuyết thành một vòng cung mạnh như Hercules ra khỏi mép đường băng.
Trong một đội thứ hai, xa hơn về bên phải, là hai xe cào tuyết khác và xe thổi tuyết thứ hai.
Sau những xe cào và thổi tuyết là đến các xe san tuyết - năm chiếc đi ngang nhau, với những lưỡi cào xuống để san phẳng tất cả những chỗ còn lồi lõm mà những xe cào bỏ sót. Các xe san tuyết kéo theo những chổi quay, mỗi cái rộng mười sáu feet và hoạt động độc lập bằng động cơ diesel. Các chổi quay chà sát bề mặt đường băng giống như những cây chổi quét sân quái dị.
Sau cùng là những xe đánh nhám. Nơi mười một xe phía trước đã dọn sạch, ba chiếc xe tải FWD [11] khổng lồ, với thùng chứa mười bốn yard khối cát mỗi chiếc, trải cát ra đều và phẳng.
Cát là loại đặc biệt. Khác với những nơi khác bên ngoài sân bay, trên đường quốc lộ và các khu vực công cộng, muối được cho vào cát để tăng nhanh tốc độ tan băng. Nhưng không bao giờ được làm như vậy trong các khu vực hàng không. Muối sẽ ăn mòn kim loại, làm giảm tuổi thọ của chúng. Máy bay được xử lý thận trọng hơn nhiều đối với xe hơi.
Chiếc sau cùng trong đoàn Conga - chiếc “Charlie-khóa-đuôi” - do người trợ lý của trưởng đoàn lái trong chiếc xe công vụ thứ hai. Công việc của nó là để bảo đảm rằng cả đoàn hoạt động theo quy củ và để thúc giục những xe bị tụt lại sau. Nó liên lạc bằng radio với xe dẫn đường, thường không nhìn thấy được trong tuyết và bóng tối.
Cuối cùng là đoàn xe phụ trợ tháp tùng - một xe cào dự trữ, phòng trường hợp một xe cào trong đoàn bị hỏng; một chiếc xe buýt phục vụ chở thợ cơ khí; xe chở nhiên liệu - dầu diesel và xăng; và một xe phục vụ cà phê và thức ăn được gọi qua radio tại những thời điểm định trước.
Mel tăng tốc vượt qua đoàn xe phụ trợ và đưa chiếc xe của mình chạy bên cạnh xe của người trợ lý. Sự xuất hiện của ông được nhận ra. Ông nghe người trợ lý thông báo bằng radio, “Ông Bakersfeld vừa tham gia đoàn với chúng ta”.
Đoàn Conga đang di chuyển nhanh - gần bốn mươi dặm một giờ thay vì thông thường là hai mươi lăm. Người trưởng đoàn có lẽ đẩy nhanh tốc độ vì gió sắp đổi hướng và đường băng cần thiết phải mở sớm.
Chuyển đổi radio của mình sang tần số kiểm soát mặt đất, Mel nghe trưởng đoàn gọi tháp KSKL, “... trên đường 1-7L, gần ngã tư với đường băng 2-5. Yêu cầu giải phóng mặt bằng ngã tư”.
Đường băng 2-5 là đường băng đang còn hoạt động.
“Kiểm soát mặt đất gọi trưởng đoàn Conga, dừng lại tại ngã tư. Chúng tôi có hai chuyến bay đang hạ cánh. Bạn không được phép, tôi lặp lại, không được phép vượt qua ngã tư đường băng. Hãy xác nhận”.
Tiếng nói từ tháp giống như những lời xin lỗi. Ở trên đó, họ hiểu những khó khăn của việc dừng một đoàn Conga đang hoạt động, và sau đó đưa nó hoạt động trở lại. Nhưng các chuyến bay chắc chắn đang mò mẩm hạ xuống dựa vào các máy móc phức tạp khi tầm nhìn bị hạn chế và hiện nay đã gần tiếp đất, chiếc này sau chiếc kia. Chỉ có trường hợp khẩn cấp lắm mới biện minh cho việc bắt chúng bay vòng một lần nữa vào ban đêm như đêm nay.
Phía trước Mel, đèn đỏ đã bật lên, nhấp nháy ra hiệu cho đoàn Conga đi chậm lại và dừng hẳn.
Người trợ lý, một thanh niên da đen vui vẻ, nhảy từ chiếc xe của mình xuống và đến cạnh xe Mel. Khi ông mở cửa, gió lọt vào xe, nhưng chỉ có thể cảm thấy, không nghe được gì vì tiếng ầm ĩ của các động cơ diesel phía trên. Người trợ lý ghé miệng sát tai Mel. “Ngài B., mời ông tham gia đoàn nhé? Một cậu sẽ chăm sóc chiếc xe của ngài”.
Mel cười. Bất cứ khi nào ông có thời gian rảnh rỗi, ông cảm thấy vui khi đi và đôi khi tự tay cầm lái các thiết bị cơ giới hạng nặng xung quanh sân bay. Tại sao không chứ? Ông tự nhủ. Ông đi ra đây để kiểm tra việc dọn tuyết, là hậu quả bởi bản báo cáo tai hại của Vernon Demerest ở Ủy ban chống tuyết cơ mà. Rõ ràng, bản báo cáo là vô lý, và mọi thứ đều tốt. Nhưng có lẽ ông nên xem xét thêm một vài phút nữa, từ bên trong đoàn Conga.
Gật đầu đồng ý, ông hét to, “Được rồi, tôi sẽ đi chiếc thổi tuyết thứ hai”.
“Vâng thưa ngài!”
Người trợ lý, mang theo một cái đèn soi trong tay và khom mình chống lại gió, dẫn Mel đi qua dòng xe tải chở cát và xe chổi quay. Mel quan sát thấy tuyết đã bắt đầu bao phủ khu vực đường băng vừa được dọn sạch chỉ cách đây một vài phút. Phía sau, một bóng người lách ra từ một chiếc xe buýt phục vụ và vội vã tiến đến xe của Mel.
“Nhanh lên, ông B. Đây chỉ là một điểm dừng ngắn”. Người thanh niên da đen rọi đèn vào chiếc xe thổi tuyết, sau đó giữ yên tại đó, chiếu sáng đường đi khi Mel leo lên. Trên cao, người điều khiển xe thổi tuyết mở cửa cabin và giữ nó trong khi Mel trườn vào bên trong. Lúc trèo lên, bàn chân yếu ớt của ông trở nên đau đớn, nhưng không có thời gian cho việc đó. Trước mắt, đèn đỏ nhấp nháy đã chuyển sang màu xanh, và có lẽ hai chiếc máy bay đang tiếp cận vừa hạ cánh và đã qua giao điểm. Đoàn Conga phải nhanh chóng vượt qua trước lần hạ cánh kế tiếp, có lẽ chỉ một hoặc hai phút. Liếc về phía sau, Mel có thể thấy người trợ lý chạy nhanh về phía chiếc xe Charlie-khóa-đuôi của anh ta.
Chiếc xe thổi tuyết bắt đầu di chuyển, tăng dần tốc độ với tiếng gầm thét trầm trầm. Người điều khiển xe liếc nhìn sang một bên khi Mel trượt vào một trong hai chiếc ghế đệm mềm.
“Chào ông Bakersfeld”.
“Xin chào, Will đấy à? Anh khỏe không?” Mel nhận ra người điều khiển xe, khi không phải dọn tuyết khẩn cấp, là nhân viên kế toán của sân bay.
“Rất tốt, thưa ngài. Dù hơi mệt một chút”.
Người điều khiển xe giữ vị trí cẩn thận đằng sau xe thứ ba và thứ tư, chỉ nhìn thấy được đèn hiệu của chúng. Những lưỡi cắt khổng lồ của xe đang cắm vào tuyết, cuốn nó vào máy thổi. Một lần nữa, một vòng cung trắng liên tục đang phóng ra ngoài xa đường băng.
Ở trên cao đây giống như trong cầu chỉ huy một con tàu. Người điều khiển xe giữ tay lái chính nhẹ nhàng, giống như một người lái tàu. Vô số các mặt đồng hồ và cần gạt, phát sáng trong bóng tối, được sắp xếp để có thể điều khiển bằng một ngón tay. Cần gạt nước kính chắn gió tốc độ cao theo hình cánh quạt - như trên tàu - cung cấp tầm nhìn rõ ràng xuyên qua màn tuyết.
“Tất nhiên là mọi người đều mệt”, Mel nói. “Tôi có thể nói anh rằng thời tiết như thế này không thể kéo dài mãi được”.
Ông quan sát kim đồng hồ tốc độ tăng lên - từ hai mươi lăm đến ba mươi rồi ba mươi tới ba mươi lăm. Lắc lư trong chỗ ngồi của mình, Mel quan sát bên ngoài. Từ vị trí này, tại trung tâm của đoàn Conga, ông có thể thấy ánh sáng và hình dạng của những chiếc xe khác. Ông nhận thấy rằng việc lập ra đoàn Conga này là chính xác.
Một vài năm trước, trong một cơn bão như thế này, sân bay sẽ đóng cửa hoàn toàn. Bây giờ thì không, chủ yếu là nhờ các cơ sở mặt đất - trong lĩnh vực này - đã bắt kịp với sự tiến bộ trong không trung. Nhưng có bao nhiêu lĩnh vực hàng không có cùng tiến bộ như đã nói? Mel buồn bã: rất ít.
Người điều khiển xe nói, “Thật tuyệt khi thay đổi sang công việc làm thêm với máy móc, và việc này càng duy trì lâu, thì sẽ càng có nhiều lương ngoài giờ hơn”. Anh chạm vào một cái cần, nghiêng cabin về phía trước để kiểm tra lưỡi cắt. Với một cần điều khiển khác, anh ta điều chỉnh các lưỡi dao, sau đó đưa cabin về vị trí bình thường. “Tôi không cần phải làm việc này; ông biết đó, ông Bakersfeld, tôi tình nguyện. Nhưng tôi cũng thích việc ở đây. Đó là một loại...” Anh ta ngập ngừng. “Tôi không biết nữa”.
Mel để nghị, “Sức mạnh thiên nhiên chăng?”
“Tôi đoán vậy”. Người lái xe cười. “Có lẽ tôi vui với tuyết”.
“Không, Will, tôi không tin bạn là người như thế”. Mel vung tay về phía trước, đối mặt với con đường đoàn Conga đang di chuyển. Đó là sức mạnh thiên nhiên ở đây. Hơn nữa, cô đơn giữa sân bay, có một cảm giác gần gũi với hàng không, hàng không thực sự mà theo nghĩa đơn giản nhất của nó là con người chống lại sức mạnh thiên nhiên. Bạn sẽ mất cảm giác đó nếu ở quá lâu trong các nhà ga và tòa nhà văn phòng hàng không; ở đó, những thứ thiết yếu, không liên quan đến cộng đồng làm bạn bối rối. Có lẽ tất cả chúng ta trong quản lý hàng không, Mel nghĩ, nên đứng ở đầu xa của đường băng một lần, và cảm thấy gió trên mặt. Nó có thể giúp tách chi tiết khỏi các nguyên tắc cơ bản. Nó thậm chí có thể làm thông thoáng bộ não của chúng ta.
Đôi khi trong quá khứ Mel đi ra khoảng không bao la của sân bay khi ông cần suy nghĩ, lý luận, lặng lẽ và cô đơn. Ông đã không mong đợi tối nay, nhưng thấy mình làm như vậy bây giờ... tự hỏi, suy đoán, vì ông thường xuyên như vậy trong những ngày gần đây, về tương lai của sân bay và của chính ông.
 Phi Trường  Phi Trường - Arthur Hailey  Phi Trường