Mắc Kẹt epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 7
inh ra và lớn lên ở Tây Bắc Thái Bình Dương, Tracy đã quá quen thuộc với những con số thống kê và cả những điều thần bí của núi Rainier. Với độ cao trên bốn nghìn ba trăm mét, núi Rainier không chỉ là một ngọn núi, nó là một ngọn núi lửa cao sừng sững thống lĩnh cả một vùng. Đứng cách xa hàng trăm mét, dù ở hướng nào, người ta vẫn có thể nhìn thấy nó. Nó hùng vĩ và cao lớn đến độ nó tự tạo ra những đặc điểm thời tiết cho riêng mình. Thậm chí khi bạn không thể nhìn thấy ngọn núi, khi những lớp mây đen dày đặc như những tấm rèm bao trùm lấy vùng Tây Bắc Thái Bình Dương, bạn vẫn có thể cảm nhận được sự hiện diện của nó. Người dân Seattle vẫn thường ví von rằng “Ngọn núi đã đi vắng”, như thể Rainier là một vật thể đang sống, đang hít thở. Tuy xinh đẹp là thế, sự hấp dẫn của núi Rainier cũng thường tỉ lệ thuận với sự chết chóc. Mỗi năm có hàng nghìn người muốn thử sức chính phục đỉnh núi, mặc dù quá nửa số ấy đã thất bại. Một số đã bỏ mạng trên đường. Trong số này, có những người mà thi thể không bao giờ có thể tìm lại được, thi thể của họ bị chôn vùi vì tuyết lở, nằm lại dưới lớp băng tuyết và đá, hoặc bị đông cứng bên dưới những kẽ nứt sâu vài chục mét.
Với một người muốn làm giả cái chết của mình, núi Rainier chính xác là một tay sát thủ hoàn hảo.
Sau khoảng một giờ rưỡi tính từ khi rời khỏi Seattle, chiếc xe do Kins lái đã đi qua một cái cổng vòm có biển báo chỉ dẫn là cổng tây bắc dẫn vào Công viên quốc gia núi Rainier. Anh lái xe đi theo con đường dẫn tới chỗ lá quốc kỳ Mỹ được treo trên một cái cột ở bên ngoài một căn chòi bằng gỗ. Căn chòi, chẳng lớn hơn một cái lớp học là bao, nằm một mình ở giữa những cây thông cao vút.
Khi Tracy bước ra khỏi xe và vươn người cho đỡ mỏi, cô ngửi thấy mùi hương thân thuộc của cây lộc đề xanh, nó khiến cô vui vẻ nhớ lại những ngày tháng lớn lên ở Bắc Cascades, nhưng cô cũng ngửi thấy mùi khói và bồ hóng. Một lớp khói mù màu đỏ quạch do những trận cháy rừng vẫn chưa chịu tắt ở đông Wasington làm cho không khí trở nên ngột ngạt.
Cô và Kins bước vào trạm kiểm lâm White River. Một người kiểm lâm mặc quần đùi kaki, chiếc áo sơ mi ngắn tay cùng bộ và đi ủng cao cổ chào đón họ. “Anh chị chắc là hai điều tra viên đến từ Seattle.” Nói rồi, anh ta đưa tay ra. “Tôi là Glenn Hicks. Chúng ta đã nói chuyện qua về những điều bất thường, nhưng chuyện có vẻ còn nghiêm trọng hơn.”
“Hẳn là thế.” Kins nói.
Hicks đứng thấp hơn Tracy chừng vài phân, có lẽ anh ta cao chừng một mét bảy lăm, nhưng cơ thể anh ta rắn chắc, hai cánh tay vạm vỡ và bắp chân nổi cuồn cuộn. Trán anh ta bắt đầu hói, điều đó thật trớ trêu, bởi vì dường như lông lá đã che hết tất cả những phần có thể nhìn thấy được trên cơ thể anh ta. Râu ria lởm chớm cùng với cặp lông mày rậm rạp như bao trùm lấy cả sống mũi khiến cho gương mặt của anh ta lúc nào cũng như đang thất vọng.
“Mời anh chị vào đây.” Hicks đang đứng sau một cái quầy bằng gỗ, mời hai điều tra viên đi vào văn phòng. Văn phòng của anh ta cũng chẳng lớn hơn phòng ngủ của một đứa trẻ là bao. Cái bàn bằng gỗ nhắc Tracy nhớ lại những cái bàn giáo viên ở trường Trung học Cedar Grove. Trên bàn chỉ có duy nhất một cái cặp tài liệu bằng vải.
“Căn buồng này được xây từ khi nào vậy?” Tracy hỏi.
“Ý chị là cái trạm ấy hả?” Hicks nói. “Năm 1929. Sau này họ cũng có xây lại, mặc dù cũng không có nhiều tiện nghi cho lắm.” Nói rồi anh ta bước ra sau chiếc bàn. “Chị có ảnh đúng không?” Anh ta hỏi, rõ ràng là rất hứng thú muốn tìm hiểu tận cùng bí ẩn.
Tracy mở chiếc cặp đeo chéo bằng da và lấy ra bức ảnh bằng lái của Lynn Hoff. Đây không hẳn là một bản sao mà là một bức ảnh phóng to mà Faz đã lấy từ Cục Quản lý bằng lái. Cô đưa bức ảnh sang phía bên kia bàn. Hicks đeo kính lên, giơ bức ảnh lên cao để xem xét nó, rồi cẩn thận mở một tập tài liệu ở trên bàn, lấy ra một bức ảnh thứ hai, và đặt hai bức sát cạnh nhau, chăm chú nhìn từ bức này sang bức kia. Đầu anh ta thi thoảng lắc chầm chậm, như kiểu một người không thể tin được rằng anh ta đã bị một ai đó đánh lừa.
“Đó là cô ấy.” Anh ta nói, miệng căng cứng. “Tôi không biết Lynn Hoff là ai, nhưng cô gái trong tấm hình của tôi là Andrea Strickland.”
Nói rồi, anh ta đưa cả hai bức hình cho Tracy và Kins. Họ so sánh hai bức ảnh với nhau. Mặc dù trong tấm hình lấy được từ Cục Quản lý bằng lái, Strickland đeo cặp kính gọng dày, nhưng cũng không khó để kết luận rằng cả hai bức ảnh đều là từ cùng một người.
“Tôi vẫn còn những tấm ảnh khác.” Hicks nói và mở một tập tài liệu khác, lấy ra những bức ảnh có màu. “Chồng cô ta đã cung cấp cho chúng tôi những tấm ảnh này khoảng bốn tuần trước, khi chúng tôi cho rằng cô ta đã bị mất tích trên núi.”
Trong một tấm hình, Andrea Strickland đứng trên một mỏm đá, mặc quần đùi và áo ba lỗ, một chiếc sơ mi dài tay quấn quanh eo. Đỉnh núi Rainier hùng vĩ đang vươn mình lên cao phía sau cô.
“Anh có gì muốn chia sẻ với chúng tôi?” Tracy nói.
“Tôi có thể nói là rõ ràng cô gái này đã gây ra cho chúng tôi vô vàn nguy hiểm không đáng có, và khiến cho tính mạng của rất nhiều kiểm lâm phải gặp nguy hiểm.” Hicks nói, nghe như lời oán thán từ một người bị phụ tình. “Một người có thể làm những điều ấy chắc hẳn phải là một kẻ ích kỉ.”
Phải, cô ta chết rồi, cô ta đã phải trả cái giá đắt nhất.
Tracy muốn nói như thế, nhưng cô đã nén lại được. Cô và Kins sẵn lòng để cho Hicks trút hết cơn giận. Anh ta có quyền làm như thế. Andrea Strickland đã đánh lừa Hicks và những người đồng nghiệp của anh ta. Cô ta đã đánh lừa tất cả mọi người, ngoại trừ cái kẻ cuối cùng đã tìm thấy và hạ sát cô ta.
Hicks xoay ghế, chiếc ghế kêu lên kẻo kẹt, và chỉ tay về phía một tấm bản đồ địa chất của Mỹ đã rách bươm dán trên tường. Tấm bản đồ dường như thể hiện được toàn bộ diện tích công viên, ở trên có đánh những dấu X màu đỏ nổi bật, một số chỗ thì được khoanh tròn. “Những chữ X là để đánh dấu vị trí lần cuối những người vẫn còn đang mất tích trên núi được nhìn thấy. Những dấu tròn là chỉ những thi thể đã xác định được vị trí và được tìm thấy. Một vài trường hợp mất thời gian vài ngày. Một số khác cần tới hàng tháng hay hàng năm trời. Một số khác nữa thì vẫn chưa được tìm thấy. Những năm gần đây, do thời tiết ấm lên, số lượng sông băng sụt giảm với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Chúng tôi đã tìm kiếm thi thể những người đi leo núi bị mất tích hàng chục năm nay, và tôi có thể nói cho anh chị nghe, không có lần nào giống lần nào. Anh chị sẽ bị ám ảnh bởi những người mà anh chị không thể tìm được, lúc nào anh chị cũng tự chất vấn bản thân, tự hỏi liệu có khi nào họ chỉ cách địa điểm mà anh chị tìm kiếm có vài mét, hoặc có khi nào họ đang nằm dưới một khe nứt ở ngay dưới chân anh chị không.”
Hicks mở một ngăn kéo bàn và lấy ra một chiếc bút đánh dấu, rồi khoanh một vòng tròn quanh một trong số những chữ X. Anh ta đóng nắp bút và ngước mắt lên nhìn hai vị điều tra viên. “Andrea Strickland. Tôi không cần phải ghi tên. Tôi có thể vẽ chính xác nơi người ta nhìn thấy những người leo núi mất tích lần cuối cùng kể cả trong mơ.” Những ngón tay của Hicks di chuyển tới những khu vực cụ thể, vừa chỉ anh ta vừa nói. “Gần Success Cleaver, một kẽ nứt trên sông băng Cowlitz, trong khu vực Carbon River.” Anh ta gõ gõ cái bút lên chữ X mà anh ta vừa mới khoanh. “Đường Liberty Ridge. Anh chị biết vì sao chúng tôi lại phải cố gắng hết sức để đưa những thi hài đó trở về không?”
Tracy biết. Cô đã dành hai mươi năm ròng để tìm kiếm Sarah, mặc dù cô gần như chắc chắn rằng những gì họ tìm lại được chỉ là những mảnh xương cốt còn sót lại của em gái cô. “Một lời cáo chung cho gia đình nạn nhân.” Cô nói.
“Phải, một lời cáo chung cho gia đình họ.” Hicks gật đầu. “Làm quái gì có ai chịu chấp nhận lý lẽ rằng ngọn núi ấy sẽ là nơi an nghỉ xinh đẹp nhất dành cho những người mà họ thương yêu. Tôi không trách họ. Nhưng đó cũng là lời cáo chung dành cho chúng tôi. Ngày 30 tháng 5 năm 2014, chúng tôi đã mất đi sáu người đồng nghiệp trong một tai nạn. Chúng tôi đã tìm thấy ba người trong số họ vào mùa hè năm ngoái. Một vài năm khác, như năm ngoái chẳng hạn, chúng tôi may mắn không mất một ai. Đó là một ngọn núi khắc nghiệt và nó có thể trở nên xấu xa bất cứ lúc nào. Trong vòng một phút, mặt trời biến mất, xung quanh trở nên trắng xóa và gió thổi mạnh gần 130km/h. Anh chị sẽ chẳng bao giờ có thể dự đoán được điều gì sẽ xảy ra trong một ngày, và điều đó có nghĩa là anh chị sẽ không bao giờ được nghỉ ngơi. Cái đài vô tuyến đó sẽ réo lên bất cứ khi nào.”
“Anh có thể kể gì đó về Andrea Strickland cho chúng tôi nghe được không?” Tracy hỏi.
Hicks nhận ra là anh ta đang xả cơn giận dữ của mình. “Xin lỗi. Tôi nghĩ là tôi đã hơi quá xúc động về chuyện này.”
“Không sao đâu.” Kins nói. “Tôi sẽ nói rằng anh có quyền được làm như thế.”
Hicks mất một lát để lấy lại bình tĩnh. “Andrea Strickland và chồng cô ấy, Graham, đã xin giấy phép để được leo lên bằng đường Liberty Ridge vào ngày 13 tháng 5 năm 2017. Leo lên bằng đường Liberty Ridge không phải trò đùa. Đó là một trong số những con đường ít người chọn nhất để leo lên đỉnh.”
“Có bao nhiêu con đường để lên tới đỉnh?” Kins hỏi.
“Năm mươi, ít nhất là vậy.”
“Và con đường này ít người chọn leo là bởi nó khó đi hoặc nguy hiểm sao?” Tracy hỏi.
“Cả hai. Nó không hẳn là khó về mặt kĩ thuật. Có một hoặc hai điểm gì đó anh chị cần phải buộc dây leo núi với nhau và để cho một người giữ dây, nhưng anh chị không cần phải leo vách đá.”
“Vậy thì điều gì khiến cho nó khó đến vậy?” Tracy nói.
“Mặt Bắc của ngọn núi Willis Wall. Có lúc nó giống như đường ném bóng bowling vậy, đặc biệt là mấy năm gần đây, khi thời tiết ấm hơn. Khi băng tan chảy và lớp tuyết trở nên mất ổn định, đất đá và cả đá tảng sẽ lăn xuống theo sườn dốc.”
“Vậy là không có nhiều người đi trên con đường đó.” King nói.
“Vâng.” Hicks đáp. “Đó có lẽ là lý do họ chọn nó.”
“Ý của anh là sao?” Tracy hỏi.
“Tôi đã kiểm tra những giấy phép được cấp phát vào cuối tuần đó, hi vọng có ai đó đã nhìn thấy cô ấy. Nhưng không còn ai khác xin giấy phép leo đường đó vào cuối tuần hôm ấy. Họ đã leo Liberty Ridge ngay từ lúc đầu mùa. Cơ hội để leo con đường này chỉ được giới hạn trong một khoảng thời gian ngắn chừng sáu tuần đến hai tháng, khi điều kiện thời tiết cho phép. Tôi nhớ đã hỏi người chồng vì sao họ lại muốn chọn leo con đường đó ngay lúc mới đầu mùa như thế.”
“Anh ta đã nói gì?” Tracy hỏi.
“Anh ta nói họ muốn thử thách bản thân. Họ đã chinh phục được đỉnh bằng đường Disappointment Cleaver và Emmons Glacier. Đó là hai tuyến đường phổ thông nhất. Nhưng hóa ra chỉ có người vợ là đã leo được lên đỉnh khi đi bằng đường Disappointment Cleaver. Anh chồng đã bỏ cuộc giữa chừng. Say độ cao. Và họ không hề leo lên bằng đường Emmons Glacier. Anh ta đã nói dối. Tôi phát hiện ra điều này sau khi sự việc xảy ra.”
“Tại sao anh ta phải nói dối?”
“Để nhận được giấy phép leo lên bằng đường Liberty Ridge. Cố để tỏ ra họ có kinh nghiệm. Anh ta khá là khoác lác, tôi nhớ là như vậy.”
“Vậy là họ không có nhiều kinh nghiệm đến thế?” Tracy hói.
“Kinh nghiệm là một khái niệm rộng. Trước đây họ đã từng leo núi, nhưng tôi không gọi đó là “kinh nghiệm” và tôi cũng có nói với họ như thế.”
“Tôi đoán là họ không có người dẫn đường, phải không?” Kins hỏi.
“Phải.” Hicks tựa lưng ra sau. “Hai mươi lăm phần trăm những vụ thiệt mạng trên ngọn núi đó mỗi năm là xảy ra tại con đường ấy. Những người dẫn đường không thích nó.”
“Thế rồi chuyện gì đã xảy ra?” Kins hỏi.
Hicks bật cười khúc khích nhưng trong tiếng cười chẳng có chút niềm vui nào. “Ừm, giờ thì tôi cũng chẳng dám chắc nữa.”
“Người chồng đã kể lại như thế nào?” Tracy hỏi.
“Người chồng xuống đến nơi, nhìn hết sức hoảng loạn và kiệt sức. Anh ta nói rằng họ đã leo tới Thumb Rock. Chờ tôi một chút.” Hicks mở ngăn bàn và lôi ra một tấm bản đồ, trải nó ra và xoay nó thẳng về chỗ Tracy và Kins. Anh ta tựa vào bàn, với cây bút chì trong tay. “Được rồi, như tôi đã nói, họ xin giấy phép vào ngày Mười ba tháng Năm tại đây, Trung tâm thông tin vùng hoang dã. Leo bằng đường Liberty Ridge có thể lên bất cứ đâu trong vòng ba đến năm ngày. Phần lớn mọi người sẽ đi trong ba ngày. Tôi biết có một vài người chỉ leo trong hai ngày. Người chồng nói rằng họ đã rời khu cắm trại White River và đêm đầu tiên ngủ lại ở khu cắm trại Glacier Basin.”
Hicks nguệch ngoạc vẽ vài đường bút chì để đánh dấu lại khu vực mà anh ta vừa nói. “Ngày hôm sau, họ đã leo ở đây, đi lên chỗ Wedge. Con đường bên tay trái sẽ dẫn anh chị tới trại Schurman nằm trên sông băng Emmons. Phía bên tay phải chính là đường Liberty Route. Họ đã vượt qua hẻm núi Saint Elmo, đi sâu xuống dưới sông băng Winthrop, tìm đường đi tới mỏm Curtis Ridge và cắm trại đêm thứ hai tại đây. Anh ta nói rằng họ đã thức dậy vào lúc nửa đêm, căng dây và tìm đường leo lên Thumb Rock.” Hicks khoanh tròn hai chữ đó trên bản đồ.
“Họ leo núi vào ban đêm sao?” Kins hỏi.
“Anh sẽ đi vào lúc đó, khi trời lạnh sẽ hạn chế thấp nhất nguy cơ gặp phải đá lở và bởi vì tuyết lúc đó cứng hơn và leo lên dễ hơn. Mất khoảng bốn tới năm giờ leo núi từ độ cao 2680 mét đến độ cao dưới 3350 mét. Họ đã dựng trại ở Thumb Rock cho đêm thứ ba.”
“Và chỉ có mình họ sao?” Tracy hỏi. “Không còn người leo núi nào khác ở đó?”
“Không có ai cả.” Hicks nói. “Nhưng đến đó thì câu chuyện của người chồng bắt đầu lộ ra sơ hở, hoặc ít nhất đó là những gì tôi đã nghĩ.” Hicks vươn dài cái lưng, có vẻ như nó đang khiến anh ta đau. “Anh ta nói rằng họ đã ăn một bữa tối nhẹ, uống trà rồi đi vào trong lều vào khoảng tám giờ để nghỉ ngơi. Kế hoạch của họ là sẽ cùng nhau dậy và tiến thẳng lên đỉnh. Anh ta nói anh ta nghe thấy tiếng Andrea thức dậy nhưng anh ta không kiểm tra xem là mấy giờ. Cô ấy nói với anh ta là cô ấy ra ngoài đi vệ sinh và anh ta nói rằng anh ta đã ngủ tiếp.” Hicks làm vẻ mặt tỏ ý không tin những gì người chồng nói. “Anh ta khẳng định rằng mình ngủ quên, không nghe thấy chuông báo thức, và khi anh ta thức dậy, trời đã sáng và vợ anh ta không có trong lều. Khi anh ta ra ngoài tìm vợ thì không thấy cô ta ở đâu nữa. Anh ta tới trạm kiểm lâm vào khoảng sau năm giờ chiều và thông báo vợ mình đã mất tích.”
“Tại sao anh ta không gọi điện cho các anh? Vì sao phải đợi cho tới khi anh ta xuống tới nơi?” Kins hỏi.
“Sóng điện thoại ở trên núi không được tốt.”
“Thái độ của anh ta lúc đó như thế nào?” Tracy hỏi.
“Khá điềm tĩnh.” Hicks nói không chút ngập ngừng.
“Không hoảng sợ hay quẩn trí sao?” Tracy hỏi.
Hicks lắc đầu. “Nếu có gì khác thì tôi nghĩ là vẻ mặt và giọng nói của anh ta có vẻ bối rối nhiều hơn là quẩn trí. Anh ta nói rằng anh ta không biết tại sao vợ mình lại đi lung tung như vậy hay chuyện gì đã xảy ra với cô ấy. Rồi anh ta bắt đầu đưa ra giả thuyết rằng có lẽ vợ anh ta đã ra ngoài đi vệ sinh rồi bị mất phương hướng, lạc đường và rơi xuống khỏi một sườn núi nào đó. Đến đây thì tôi không hiểu lắm. Cô vợ không quay lại mà anh ta chẳng đi tìm cô ấy ngay lập tức? Vào cái đêm trước khi leo lên tới đỉnh, người ta thường lo lắng. Và có thể họ sẽ chẳng ngủ được ngon lành. Vậy mà anh chàng này lại nói rằng anh ta ngủ quên không nghe thấy chuông báo thức? Tôi dám chắc chắn là anh ta đã đẩy cô vợ xuống vách núi.”
“Các anh có tìm thấy dấu vết nào của cô ấy không?” Tracy hỏi.
“Có.” Hicks nói, miệng như mỉm cười. “Cuộc tìm kiếm diễn ra với chừng hai mươi người, có kiểm lâm leo núi và Trung tâm tuần tra tìm kiếm cứu nạn Nordic Ski. Tôi đã gọi các đơn vị cứu nạn trên núi ở Seattle, Everett và Tacoma để họ tiến hành tìm kiếm dưới mặt đất, và tiểu đoàn không vận dự bị 214 của quân đội từ LewisMcChord tiến hành tìm kiếm trên không. Như tôi đã nói, rất nhiều tiền bạc và nguồn lực phải đổ ra. Chúng tôi đã tới được Thumb Rock vào chiều muộn ngày hôm sau. Cuộc tìm kiếm trên không đã phát hiện ra một địa điểm có vẻ là những đồ còn sót lại tại đây, dưới chân Willis Wall.”
Hicks đánh dấu lên bản đồ.
“Những đồ còn sót lại có những gì?” Kins hỏi.
“Móng sắt để leo núi, một cái ba lô, chai đựng nước và vài mảnh quần áo.”
“Người chồng đã xác nhận chúng chứ?”
“Vâng.”
“Nhưng không tìm thấy người đâu à?”
“Không thấy người.”
“Nếu rơi xuống thì độ cao bao nhiêu?” Tracy hỏi.
“Vài ba trăm mét.”
“Có vẻ như nếu thấy đồ còn sót thì sẽ tìm thấy thi thể.” Kins nói.
“Cũng không nhất định là sẽ như thế. Tôi có thể nói anh nghe lúc đó chúng tôi đã nghĩ những gì. Dưới chân bức tường đó có một bergschrund.” Hicks tiếp tục dùng bút chì vẽ lên tấm bản đồ địa chất.
“Bergschrund á?” Tracy hỏi.
“Đó là một thuật ngữ trong tiếng Đức. Nó có nghĩa là một kẽ nứt lớn, nơi sông băng tách ra khỏi vách núi cố định.”
“Và anh dự đoán là cô ấy đã bị rơi vào trong kẽ nứt đó và sẽ không bao giờ tìm được.” Kins nói.
Hicks gật đầu. “Sẽ không có cách nào để đưa thi thể của cô ấy ra khỏi đó. Sông băng trên Willis Wall phân tách liên tục. Các kiểm lâm leo núi của tôi sẽ không tới chỗ đó và tôi sẽ không trách cứ gì họ.”
“Thật là một nơi hoàn hảo cho ai đó dàn dựng cái chết cho chính mình.” Tracy nói.
“Rõ ràng là thế, nhưng đó không phải là những gì tôi đã nghĩ vào lúc đó.”
“Anh đã nghĩ đó là nơi hoàn hảo để người chồng hạ sát vợ của mình, phải không?” Kins nói.
“Chẳng có lý do gì để cô ấy mang theo móng sắt và những dụng cụ khác chỉ để đi vệ sinh cả.”
“Có lí đấy.” Tracy nói.
Hicks ngồi xuống và tựa lưng ra sau. “Tôi đã bị thuyết phục rằng người chồng đã đẩy người vợ xuống khỏi vách núi mãi cho tới khi tôi tới văn phòng tối muộn hôm qua và nhìn thấy tờ rơi mà anh chị gửi trên máy tính. Tôi không quên những người bị mất tích trên núi.” Anh ta nói. “Họ mãi mãi hằn sâu trong trí óc tôi.”
“Vậy bây giờ anh nghĩ chuyện gì đã xảy ra?” Kins hỏi.
“Bây giờ ư? Bây giờ tôi không biết phải nghĩ sao nữa. Nhưng tôi sẽ nói với anh chị điều này. Cô vợ đó không thể nào tự mình bỏ trốn khỏi ngọn núi đó được. Không thể nào có chuyện đó. Phải có ai đó giúp cô ta. Khốn nạn, gã chồng của cô ta có lẽ đã tham gia vào kế hoạch đó để lấy tiền bảo hiểm. Điều tra viên ở quận Pierce nói rằng họ đã mua bảo hiểm và cuộc hôn nhân của họ có vấn đề.” Hicks nói.
Tracy đã liên lạc với đồn cảnh sát quận Pierce vào buổi sáng. Sau đó, họ có một cuộc hẹn nói chuyện với các điều tra viên từ Ban Trọng án.
“Tôi đã nói chuyện với vị điều tra viên đó vào sáng nay. Anh ấy nói rằng người chồng nằm trong số bị tình nghi.” Tracy nói.
“Có lẽ vậy.” Hicks cầm bức ảnh của Andrea Strickland lên. “Vấn đề là tôi không biết đến thời điểm này, liệu những chuyện đã xảy ra có thể loại trừ anh ta khỏi diện tình nghi hay là kéo anh ta vào sâu thêm.” Hicks nhìn lại vào chữ X màu đỏ mà anh ta đã khoanh tròn. “Nhưng tôi nghĩ giờ đó không còn là công việc của tôi nữa rồi. Công việc của tôi đã hoàn thành, và có vẻ như công việc của anh chị chỉ vừa mới bắt đầu thôi.”
Mắc Kẹt Mắc Kẹt - Robert Dugoni Mắc Kẹt