Dành Hết Cho Em epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 7
hi Dawson đi chạy về, vài vị khách khác đang vừa ngồi nhấm nháp cà phê trong phòng khách vừa đọc báo USA Today được phát miễn phí. Anh có thể ngửi thấy mùi thịt xông khói và trứng ngào ngạt bay ra từ bếp trong lúc leo lên tầng tới phòng mình. Tắm xong, anh mặc quần Jean và áo sơ mi cộc tay rồi xuống nhà ăn sáng.
Lúc anh vào bàn, hầu hết những người khác đều đã ăn xong, vậy nên Dawson ngồi ăn một mình. Dù vừa đi chạy về, anh cũng không thấy đói lắm, nhưng người chủ nhà nghỉ một phụ nữ tầm sáu mươi tuổi tên là Alice Russell, vốn chuyển tới Oriental sau khi nghỉ hưu từ tám năm trước - đã chất đầy dĩa cho anh, và anh có cảm giác sẽ làm bà thất vọng nếu không ăn sạch sẽ mọi thứ. Bà mang dáng vẻ của một người bà, giống đến cả cái tạp dề và váy kẻ ca rô.
Trong lúc anh ăn, Alice giải thích rằng, giống như nhiều người khác, vợ chồng bà đã chuyển tới Oriental sau khi nghỉ hưu để đi thuyền. Tuy nhiên, dần dà chồng bà đã chán thú vui đó, vậy nên cuối cùng họ đã mua cơ sở kinh doanh này vài năm trước. Ngạc nhiên thay, bà gọi anh là “anh Cole” mà không hề có vẻ nhận ra anh là ai, dẫu rằng anh đã nhắc đến chuyện mình lớn lên tại thị trấn này. Rõ ràng bà vẫn là một người ngoài tại nơi này.
Tuy nhiên, gia đình anh ở quanh đây. Anh đã nhìn thấy Abee ở cửa hàng tiện lợi, và ngay khi đi vòng qua góc đường, anh bèn chui vội vào giữa mấy ngôi nhà nào đó và tìm đường quay trở lại nhà nghỉ, tránh con đường cái. Điều anh không mong muốn nhất là dính phải bất kỳ rắc rối nào với gia đình mình, đặc biệt là Ted và Abee. Nhưng anh có cảm giác bất an rằng mối thù của họ vẫn chưa nguôi ngoai.
Tuy nhiên, anh vẫn cần làm một chuyện. Sau khi ăn xong, anh cầm bó hoa đã đặt gửi đến nhà nghỉ từ lúc vẫn còn ở Louisiana, rồi vào chiếc xe thuê. Trong lúc lái xe, anh không rời mắt khỏi gương chiếu hậu, đảm bảo chắc chắn không có ai theo dõi. Đến nghĩa trang, anh luồn lách qua các tấm bia mộ quen thuộc để đến chỗ mộ của bác sĩ David Bonner.
Đúng như anh hy vọng, nghĩa trang vắng tanh. Anh đặt bó hoa xuống chân tấm bia mộ và cầu nguyện ngắn gọn cho gia đình. Anh chỉ ở lại vài phút rồi lại quay trở về nhà nghỉ. Ra khỏi xe, anh ngước mắt lên. Bầu trời xanh trải dài miên man đến tận đường chân trời, và trời đã bắt đầu ấm dần lên. Thầm nghĩ buổi sáng quá đẹp không nên để phí hoài, anh quyết định đi bộ.
Mặt trời chiếu sáng lấp lánh trên mặt sông Neuse, anh bèn đeo kính râm lên. Băng qua phố, anh quan sát khu vực xung quanh. Mặc dù các cửa hàng đã mở cửa nhưng hai bên vỉa hè hầu như vẫn vắng tanh, và anh thầm hỏi không biết sao họ có thể duy trì công việc kinh doanh được.
Liếc nhìn đồng hồ đeo tay, anh nhận ra vẫn còn nửa tiếng nửa mới tới cuộc hẹn. Tiến về phía trước, anh liếc mắt về phía quán cà phê sáng nay anh vừa băng qua trên đường chạy, và dù không muốn uống thêm cà phê nữa, anh vẫn quyết định có lẽ nên kiếm một chai nước. Vừa cảm nhận được gió nổi lên đương lúc dán mắt vào quán cà phê thì anh thấy cánh cửa ra vào bật mở. Anh dõi nhìn khi có người từ trong bước ra, và gần như lập tức, anh nở nụ cười.
• • •
Amanda đứng ở quầy tính tiền của Bean, đang cho thêm kem và đường vào cốc cà phê Ethiopia. Bean, từng là một ngôi nhà nhỏ trông ra bến cảng, cung cấp khoảng hai mươi loại cà phê khác nhau kèm bánh ngọt ngon lành, và Amanda luôn thích đến đây mỗi khi cô về thăm Oriental. Cùng với Irvin, đây là địa điểm tụ tập của dân địa phương để thu nhặt tin tức về bất cứ chuyện gì đang xảy ra trong thị trấn. Sau lưng, cô có thể nghe thấy tiếng lầm bầm trò chuyện. Mặc dù giờ cao điểm buổi sáng đã qua từ lâu, quán cà phê vẫn đông hơn cô tưởng tượng nhiều. Người thu ngân tầm hai mươi tuổi phía sau quầy tính tiền vẫn luôn tay luôn chân kể từ khi Amanda bước vào.
Cô cần cà phê kinh khủng. Cuộc nói chuyện sáng nay với mẹ cô đã khiến cô cảm thấy chẳng còn chút sức sống nào. Trước đó, lúc đang ở trong phòng tắm, cô đã thoáng cân nhắc đến chuyện quay lại bếp để cố gắng nói chuyện cho ra ngô ra khoai. Tuy nhiên, đến lúc đã lau khô người, cô lại thay đổi suy nghĩ. Mặc dù cô luôn hy vọng bà sẽ trở thành người mẹ cảm thông có thể hậu thuẫn cô như cô vẫn thường khao khát, nhưng quá dễ hình dung ra vẻ mặt choáng váng và thất vọng của mẹ cô khi bà nghe đến tên Dawson. Sau đó, tràng đả kích sẽ bắt đầu, chắc chắn là các bài thuyết giảng kể cả, giận dữ bà vẫn thường đưa ra hồi cô còn trẻ. Mẹ cô, xét cho cùng, vẫn bà một phụ nữ cổ hủ.
Quyết định thì có thể tốt hoặc xấu, lựa chọn có thể đúng hoặc sai, và có một số giới hạn không được vượt quá. Có những nguyên tắc cư xử không thể thương lượng được, đặc biệt khi liên quan đến gia đình. Amanda hiểu các quy tắc đó; cô luôn biết mẹ cô tin tưởng gì. Sự căng thẳng của bà xuất phát từ trách nhiệm, bà tin rằng gieo nhân nào gặt quả ấy, và bà không mấy kiên nhẫn trước những lời than vãn. Amanda biết rằng điều này không phải lúc nào cũng tệ; cô đã phần nào áp dụng những điều tương tự với chính con của mình, và cô biết nhờ thế mà chúng trở nên ngoan hơn.
Sự khác biệt nằm ở chỗ mẹ cô dường như luôn chắc chắn về mọi thứ. Bà luôn tin tưởng vào con người bà đã trở thành, những lựa chọn bà đã đưa ra, như thể cuộc sống là một bài ca và bà chỉ cần hòa nhịp với nó, biết rõ rằng mọi thứ rồi sẽ tiến triển y như đã định. Amanda thường xuyên nghĩ rằng, mẹ cô chẳng có gì để hối tiếc cả.
Nhưng Amanda không giống như vậy. Cô cũng không bao giờ có thể quên được mẹ cô đã phản ứng lạnh lẽo đến mức nào trước căn bệnh của Bea và cuối cùng là cái chết của con bé. Tất nhiên, bà đã bày tỏ thái độ cảm thông và ở lại để chăm sóc Jared và Lynn khi cùng cô tới Trung tâm Ung thư Nhi tại Bệnh viện Duke; bà thậm chí còn nấu nướng một vài bữa cho họ trong mấy tuần sau đám tang. Nhưng Amanda không bao giờ có thể hiểu được thái độ chấp nhận hoàn cảnh đầy tính khắc kỷ của mẹ cô, cũng như không tài nào tiêu hóa nổi bài thuyết giáo bà vẫn rao giảng suốt ba tháng liền sau khi Bea mất, về chuyện cô cần phải “gượng dậy sau nỗi đau” và “ngừng thương tiếc” bản thân đi. Như thể việc mất Bea chẳng có gì nghiêm trọng hơn so với một vụ chia tay bạn trai không mấy tốt đẹp vậy. Cô vẫn cảm thấy giận sôi lên mỗi lần nghĩ lại chuyện này, và đôi lúc cô không khỏi băn khoăn không biết mẹ cô có chút lòng trắc ẩn nào không.
Cô thở hắt ra, cố nhắc nhở bản thân rằng thế giới của mẹ cô khác hẳn so với thế giới của cô. Mẹ cô không bao giờ học đại học, mẹ cô chưa bao giờ sống ở bất kỳ nơi nào khác ngoài Oriental, và có lẽ nó có phần liên quan đến điều này. Bà chấp nhận mọi thứ bởi vì bà không có gì khác để so sánh với chúng. Và từ những mẩu thông tin ít ỏi mà bà chia sẽ về quãng đời trưởng thành của bà, có thể thấy gia đình bên ngoại của cô chỉ biết đến tình yêu thương. Nhưng ai mà biết được kia chứ? Tất cả những gì cô chắc chắn đó là nếu nhẹ dạ cả tin mà nghe theo mẹ cô thì thể nào cũng dẫn đến nhiều rắc rối hơn mức đáng phải thế, và ngay bây giờ, cô không sẵn sàng cho điều đó.
Đúng lúc Amanda đang đậy nắp cốc cà phê thì chuông điện thoại của cô reo vang. Nhìn thấy là Lynn gọi, cô bước ra ngoài mái hiên nhỏ hẹp, đứng trả lời điện thoại, và hai mẹ con chuyện phiếm với nhau vài phút. Sau đó, Amanda gọi vào điện thoại di động cho Jared, đánh thức thằng bé dậy và nghe những tiếng lầm bầm ngái ngủ của nó. Trước khi ngắt máy, thằng bé nói nó rất mong được gặp cô vào Chủ nhật. Cô ước gì có thể gọi cho Annette nhưng rồi tự an ủi bản thân rằng con bé hẳn đang có quãng thời gian vui vẻ tại trại hè.
Lưỡng lự một lát, cô cũng gọi đến văn phòng cho Frank. Lúc sáng sớm cô không có cơ hội để gọi, dù đã bảo với mẹ cô là sẽ làm thế. Như thường lệ, cô phải đợi cho đến khi anh có vài phút rảnh rang giữa hai đợt khám chữa bệnh.
“Ừ, anh đây,” anh chào cô khi nhận máy. Lúc họ nói chuyện, cô suy ra được anh không nhớ gì về cuộc gọi đến nhà tối hôm qua. Tuy nhiên, anh có vẻ vui khi nghe thấy giọng cô. Anh hỏi về mẹ cô, và Amanda thông báo cho anh biết họ định sẽ đi ăn tối; anh bảo với cô anh có kế hoạch đi chơi golf sáng Chủ nhật cùng ông bạn Roger của anh, và sau đó có thể họ sẽ theo dõi trận đấu của đội Braves tại câu lạc bộ địa phương. Kinh nghiệm cho cô biết rằng những hoạt động này sẽ không tránh khỏi liên quan đến việc chè chén say sưa, nhưng cô cố đè nén cơn giận dữ, biết rằng chẳng hay ho gì nếu căn vặn anh.
Frank hỏi về đám tang và các kế hoạch khác của cô ở thị trấn. Mặc dù Amanda trả lời câu hỏi một cách chân thành - cô vẫn chưa biết rõ lắm - cô vẫn có thể cảm thấy mình đang tránh nhắc đến tên Dawson. Frank dường như không để ý thấy có bất cứ điều gì bất thường, nhưng đến lúc họ kết thúc cuộc trò chuyện, Amanda không tránh khỏi một cơn rùng mình áy náy rõ rệt và khó chịu. Cùng với cơn giận của cô, thế này đã quá đủ để khiến cô thấy bồn chồn khác thường.
• • •
Dawson đợi dưới bóng cây mộc lan cho tới khi Amanda nhét điện thoại trở lại vào túi xách. Anh nghĩ anh đã nhìn thấy vẻ lo lắng trên mặt cô, nhưng đến lúc kéo căng quai túi xách trên vai, cô lại trở lên khó dò như trước.
Giống như anh, cô cũng đang mặc quần Jean, và lúc bước về phía cô, anh để ý thấy chiếc áo màu ngọc lam của cô càng làm cho màu mắt cô đậm hơn. Mải miên man suy nghĩ cô giật mình khi nhận ra anh.
“Ơ kìa,” cô nói, bừng nở nụ cười. “Em không ngờ lại gặp anh ở đây.”
Dawson bước lên hiên, dõi mắt nhìn cô đưa tay vuốt cái túm tóc đuôi ngựa gọn gàng. “Anh muốn uống miếng nước trước khi đến giờ hẹn của chúng ta.”
“Uống cà phê không?” Amanda ra dấu về phía sau. “Cà phê ngon nhất thị trấn đấy.”
“Anh đã uống lúc ăn sáng rồi.”
“Anh tới quán Irvin à? Bác Tuck ngày xưa tín nhiệm chỗ đó lắm đấy.”
“Không. Anh vừa ăn ở chỗ nhà nghỉ rồi. Bữa sáng được tính luôn vào giá phòng, và Alice đã chuẩn bị sẵn sàng hết cả rồi.”
“Alice?”
“Một siêu mẫu áo tắm tình cờ lại là chủ sở hữu nơi đó. Không có lý do gì để em ghen tuông đâu.”
Cô bật cười. “Phải rồi, em chắc chắn thế. Buổi sáng của anh thế nào?”
“Tốt lắm. Làm một cuốc chạy thoải mái và có cơ hội quan sát những thay đổi diễn ra quanh đây.”
“Và?”
“Đại loại như đang lẻn vào trong một khúc thời gian bị uốn cong vậy. Anh cảm thấy mình giống như Michael J. Fox trong Trở lại tương lai.”
“Đấy chính là một trong những nét quyến rũ của Oriental mà. Khi anh ở đây, rất dễ để vờ như phần còn lại của thế giới không hề tồn tại, và rằng mọi vấn đề của anh sẽ biến mất một cách nhẹ nhàng.”
“Em nói chẳng khác gì người quảng cáo của phòng du lịch địa phương.”
“Đó chính là một trong những nét quyến rũ của em mà.”
“Một trong rất nhiều nét quyến rũ, tất nhiên rồi.”
Khi anh nói thế, một lần nữa ánh mắt đăm đắm của anh lại dán thẳng vào cô. Cô không quen bị nhìn chăm chăm thế này - trái lại, cô vẫn thường có cảm giác mình hầu như chỉ là một bóng ma vô hình lần lượt thực hiện các hoạt động thường nhật đã ăn sâu thành nếp. Nhưng cô còn chưa kịp bày tỏ thái độ ngượng ngùng, anh đã hất hàm về phía cửa ra vào. “Nếu được thì anh vào lấy chai nước nhé.”
Anh vào trong, và từ vị trí thuận lợi của mình, Amanda để ý thấy cô nhân viên thu ngân xinh đẹp tầm hai mươi tuổi phải cố lắm mới không nhìn anh chằm chằm lúc anh tiến về phía tủ lạnh. Khi Dawson đã đến gần cuối cửa hàng, cô thu ngân bèn soi gương chỉnh trang diện mạo phía sau quầy, rồi mỉm cười thân thiện chào đón anh bên máy tính tiền. Amanda vội quay đi trước khi anh bắt quả tang cô đang nhìn.
Một phút sau, Dawson xuất hiện, vẫn còn đang cố kết thúc màn chuyện trò với cô thu ngân. Amanda buộc mình phải cố giữ vẻ mặt bình thản, và như đã thỏa thuận ngầm, họ rời khỏi hiên, rồi lang thang đến một chỗ có thể nhìn rõ bến cảng hơn.
“Cô gái ở quầy thu ngân đang tán tỉnh anh đấy,” cô nhận xét.
“Cô ấy chỉ tỏ ra thân thiện thôi.”
“Cô ấy thể hiện rõ ràng thế còn gì.”
Anh nhún vai, vặn mở nắp chai nước. “Anh không để ý lắm.”
“Sao anh lại không để ý chứ?”
“Anh đang mải suy nghĩ đến chuyện khác.”
Dựa vào cách nói của anh, cô biết anh vẫn còn muốn nói nữa, và cô chờ đợi. Anh dõi mắt nhìn ra dãy thuyền đang bập bềnh ngoài bến cảng.
“Sáng nay anh đã nhìn thấy Abee,” cuối cùng anh lên tiếng. “Lúc anh ra ngoài chạy bộ.”
Amanda cứng đờ người khi nghe nhắc đến cái tên ấy. “Anh chắc chắn chính là hắn ta chứ?”
“Hắn là anh họ của anh mà, nhớ không?”
“Sau đó có chuyện gì?”
“Chẳng có gì cả.”
“Thế là ổn cả, đúng không?”
“Anh không chắc nữa.”
Amanda căng thẳng. “Thế nghĩa là sao?”
Anh không trả lời câu hỏi ngay lập tức. Thay vào đó, anh nhấp một ngụm nước, và cô cơ hồ có thể nghe thấy tiếng những bánh xe đang quay trong đầu anh. “Anh đoán như thế có nghĩa là anh càng ít ló mặt ra thì càng tốt. Ngoài ra, nếu bọn chúng đến, anh sẽ chơi cùng chúng.”
“Có khi bọn chúng sẽ chẳng làm gì đâu.”
“Có thể,” anh tán thành. “Cho đến giờ thì vẫn ổn, đúng không?” Anh vặn cái nắp chai chặt lại, thay đổi chủ đề. “Theo em thì ông Tanner định nói gì với chúng ta? Lúc nói chuyện qua điện thoại, ông ấy tỏ ra khá bí hiểm. Ông ấy sẽ chẳng nói gì với anh về đám tang đâu.”
“Ông ấy cũng chẳng nói gì nhiều với em. Sáng nay hai mẹ con em vừa khéo nhắc đến chuyện này đấy.”
“Vậy hả? Mẹ em thế nào?”
“Mẹ hơi bực vì tối qua đã lỡ mất vụ chơi bài. Nhưng bù lại, mẹ vẫn tử tế đủ để cưỡng ép em tối nay đến ăn tối ở nhà một người bạn.”
Anh mỉm cười. “Vậy... có nghĩa là từ giờ cho đến tối em sẽ rảnh?”
“Sao hả? Anh có ý gì à?”
“Anh không biết nữa. Trước tiên hãy đi xem xem ông Tanner có chuyện gì cần nói đã. Nhắc mới nhớ, có khi chúng ta nên khởi hành đi thôi. Văn phòng ông ấy nằm ngay dưới phố đấy.”
Amanda đậy chặt cái nắp cốc cà phê, rồi họ bắt đầu bước dọc vỉa hè, chuyển từ vạt bóng râm này sang vạt bóng râm khác.
“Anh còn nhớ lúc anh hỏi liệu anh có thể mua kem cho em được không?” cô hỏi. “Lần đầu tiên ấy?”
“Anh chỉ nhớ mình cứ băn khoăn mãi sao em lại nói đồng ý.”
Cô phớt lờ bình luận của anh. “Anh đã dẫn em đến hiệu thuốc, cái cửa hàng có cái quầy dài thượt và máy bán nước cổ lỗ sĩ ấy, rồi cả hai chúng ta đều gọi kem sundae rưới sô cô la nóng. Họ làm kem ngay ở đó, và cho đến giờ nó vẫn là món kem ngon nhất em từng ăn. Không thể tin nổi cuối cùng họ lại phá tan chỗ ấy.”
“Ủa, phá khi nào vậy?”
“Em không biết. Chắc khoảng sáu bảy năm trước? Một hôm, lúc em về đây chơi, em để ý thấy nó đã biến mất rồi. Em đã khá là buồn. Hồi bọn trẻ nhà em còn nhỏ, em vẫn thường dẫn chúng đến đấy, và lần nào chúng cũng rất vui.”
Anh cố tưởng tượng ra hình ảnh mấy đứa con của cô đang ngồi cạnh cô ở hiệu thuốc cũ ấy, nhưng anh không sao hình dung được khuôn mặt bọn chúng. Anh thầm hỏi, không biết chúng có giống cô không, hay chúng giống bố? Liệu chúng có được thừa hưởng trái tim phóng khoáng, nồng nhiệt của cô không?
“Em có nghĩ là các con của em thích lớn lên ở nơi này không?” anh hỏi.
“Hồi còn nhỏ thì chúng thích đấy. Thị trấn xinh đẹp, nhiều chỗ vui chơi khám phá. Nhưng khi đã lớn hơn rồi, có lẽ chúng thấy nơi này thật gò bó.”
“Giống như em hả?”
“Phải,” cô nói. “Giống em. Em chỉ muốn rời đi cho nhanh. Không biết anh còn nhớ không, nhưng em đã nộp đơn vào Đại học New York và Cao đẳng Boston, chỉ để có thể trải nghiệm một thành phố đích thực.”
“Sao anh quên được chứ? Nghe như đã xa xăm lắm rồi,” Dawson nói.
“Phải, chà... bố em đã học ở Duke, em lớn lên cùng những câu chuyện về Duke, em đã theo dõi đội bóng rổ của Duke thi đấu qua truyền hình. Có lẽ trong tâm trí em đã khắc sâu cái ý nghĩ rằng, nếu em đi học thì sẽ phải là học ở đó. Và hóa ra đó là một lựa chọn đúng đắn, vì trường rất tuyệt vời, em đã kết bạn được với rất nhiều người và chính tại nơi đó, em đã trưởng thành. Thêm nữa, em không biết liệu em có thích cuộc sống ở New York hay Boston không. Từ tận trong thâm tâm, em vẫn là một cô gái nơi thị trấn nhỏ. Em thích tiếng dế kêu mỗi khi đi ngủ.”
“Vậy thì em sẽ thích Louisiana cho xem. Nó là thủ đô của các loài bọ trên thế giới đấy.”
Cô mỉm cười trước khi nhấp một ngụm cà phê. “Anh còn nhớ hồi chúng ta lái xe ra bờ biển khi cơn bão Diana sắp đến không? Em cứ nài nỉ anh hãy đưa em đi, còn anh thì cứ cố gắng bảo em bỏ ý nghĩ đó đi ấy?”
“Hồi đó anh tưởng em điên rồi.”
“Nhưng rồi anh vẫn đưa em đi. Vì em muốn thế. Chúng mình gần như chẳng thể chui ra khỏi xe của anh được, gió quật dữ quá, còn biển thì quá là... hung bạo. Sóng tung bọt trắng xóa tới tận chân trời, và anh cứ đứng đó túm chặt lấy em, cố gắng thuyết phục em quay vào xe.”
“Anh không muốn em bị thương.”
“Khi anh ở trên giàn khoan, có nhiều trận bão như thế không?”
“Ít hơn em tưởng nhiều. Nếu bọn anh nằm trên đường di chuyển của bảo thì bọn anh thường sẽ được di tản.”
“Thường?”
Anh nhún vai. Các nhà khí tượng học thỉnh thoảng cũng nhầm lẫn. Anh bị vài lần mấp mé bên mép bão, và nó thật đáng sợ. Thực sự ta đành phải phó mặc cho thời tiết, và ta chỉ có thể ngồi sụp xuống trong lúc giàn khoan chao đảo, biết thừa rằng nếu nó có bị lật thì cũng sẽ chẳng có ai đến giải cứu mình. Anh đã từng chứng kiến vài người phát điên lên.”
“Có lẽ em cũng giống như một trong những người phát điên lên đó.”
“Em vẫn ổn thỏa cả lúc cơn bão Diana đang đến mà,” anh chỉ ra vấn đề.
“Đó là vì có anh ở đó.” Amanda chỉ bước chậm lại. Giọng cô trở nên nghiêm túc. “Em biết anh sẽ không để em xảy ra chuyện gì. Chỉ cần có anh bên cạnh, em luôn cảm thấy an toàn.”
“Ngay cả khi bố anh và mấy người anh họ của anh đến chỗ bác Tuck sao? Để lấy tiền ấy?”
“Phải,” cô nói. “Ngay cả khi đó. Gia đình anh chưa bao giờ làm em bận lòng.”
“Em may mắn thật đấy.”
“Em không biết nữa,” cô nói. “Hồi chúng ta còn ở bên nhau, thỉnh thoảng em lấy Ted hay Abee ở trong thị trấn, và đôi lúc còn thấy cả bố anh nữa. Ôi chao, nếu tình cờ đi ngang qua em là thể nào họ cũng dán cái nụ cười tự mãn ấy lên trên mặt, nhưng họ không bao giờ gây phiền phức cho em. Và sau này, khi em quay về đây vào mùa hè, sau khi Ted đã bị tống đi, Abee và bố anh luôn giữ khoảng cách. Em nghĩ họ biết thừa anh sẽ làm gì nếu có chuyện xảy ra với em.” Cô dừng hẳn lại dưới một bóng cây và đối diện với anh. “Vậy nên không đâu, em chưa bao giờ sợ họ. Chưa một lần nào. Vì em đã có anh.”
“Em đang bốc anh lên đến tận chín tầng mây đấy.”
“Thật hả? Ý anh và anh sẽ để mặc họ làm tổn thương em à?”
Anh không cần phải trả lời. Chỉ cần nhìn vào vẻ mặt anh, cô cũng biết cô đã đúng.
“Họ luôn sợ anh, anh biết mà. Ngay cả Ted cũng thế. Bởi vì họ hiểu rõ anh cũng y như em hiểu vậy.”
“Em sợ anh à?”
“Ý em không phải thế,” cô nói. “Em biết anh yêu em và anh sẽ làm bất cứ điều gì vì em. Và đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến nỗi đau trở nên sâu sắc vô cùng khi anh nói lời chia tay, Dawson ạ. Bởi vì ngay từ hồi đó, em đã biết kiểu tình yêu đó hiếm hoi đến mức nào. Chỉ những người may mắn nhất mới có được cơ hội để trải nghiệm nó.”
Trong một thoáng, Dawson dường như không nói nổi nên lời. “Anh rất tiếc,” cuối cùng anh nói.
“Em cũng thế,” cô nói, chẳng buồn che giấu nỗi buồn đầy hoài niệm. “Em là một trong những người may mắn đó mà, nhớ không?”
Sau khi đã đến được văn phòng của Morgan Tanner, Dawson và Amanda ngồi trong khu tiếp tân nhỏ chỉ thấy toàn sàn gỗ thông mòn vẹt, những chiếc bàn chất đống tạp chí cũ và những cái ghế xơ xác. Nhân viên tiếp tân, trông già đến độ thừa hàng bao nhiêu tuổi so với tiêu chuẩn nhận trợ cấp an sinh xã hội, đang đọc một cuốn tiểu thuyết bìa mềm. Tuy nhiên, bà cũng chẳng có việc gì khác để làm. Suốt mười phút họ ngồi đợi, chuông điện thoại chưa hề reo lần nào.
Cuối cùng, cửa bật mở, để lộ bóng dáng một người đàn ông luống tuổi với mớ tóc bạc bù xù và đôi lông mày sâu róm ngả màu muối tiêu trong bộ vest nhàu nhĩ. Ông vẫy tay gọi họ vào trong văn phòng. “Amanda Ridley và Dawson Cole phải không?” Ông bắt tay họ. “Tôi là Morgan Tanner, và tôi xin được chia buồn cùng cả hai người. Tôi biết chuyện này hẳn phải rất đau lòng.”
“Cảm ơn ông,” Amanda nói, Dawson chỉ gật đầu.
Tanner dẫn họ đến chỗ hai cái ghế bành bọc da với phản tựa lưng cao. “Mời ngồi. Chắc không mất nhiều thời gian đâu.”
Văn phòng Tanner không giống chút gì với khu tiếp tân, với những giá sách bằng gỗ gụ xếp gọn gàng hàng trăm cuốn sách luật, cùng một khung cửa sổ trông ra ngoài phố. Bàn làm việc là một cái bàn kiểu cổ chạm trổ cầu kỳ ở bốn góc, phía trên đặt một món đồ có vẻ như là một cây đèn Tiffany. Một cái hộp bằng gỗ óc chó đặt ở chính giữa bàn, quay mặt về phía mấy cái ghế bành bọc da.
“Tôi xin lỗi vì sự chậm trễ này. Tôi cứ bị dính chặt vào cái điện thoại, phải để ý đến một vài chi tiết vào phút cuối.” Ông vẫn nói tiếp trong lúc đi vòng quanh bàn. “Chắc hẳn cô cậu đều rất tò mò không hiểu tại sao sự thu xếp này lại được giữ bí mật đến thế, nhưng chính Tuck muốn vậy. Ông ấy khá kiên quyết và đã lên sẵn kế hoạch cho mọi chuyện.” Ông quan sát hai người từ bên dưới hàng lông mày rậm rạp. “Nhưng hẳn là cô cậu đều biết thế rồi.”
Amanda liếc trộm Dawson trong lúc Tanner ngồi xuống với tay lấy tập hồ sơ trước mặt ông. “Tôi tin rằng cả hai người có thể làm được chuyện này. Sau khi nghe ông ấy kể về hai người, tôi biết Tuck cũng tin tưởng như vậy. Tôi chắc chắn cả hai cô cậu đều có nhiều điều muốn hỏi, vậy nên để tôi bắt đầu trước nhé.” Ông thoáng cười với họ, để lộ hàm răng trắng đều tăm tắp đến mức đáng ngạc nhiên. “Như cô cậu biết đấy, thi thể của Tuck đã được Rex Yarborough phát hiện sáng hôm thứ Ba.”
“Ai cơ?” Amanda hỏi.
“Người đưa thư. Hóa ra ông ấy đã cảm thấy cần phải thường xuyên qua xem Tuck thế nào. Khi ông ấy gõ cửa, không thấy có ai trả lời. Tuy nhiên, cửa không khóa, và khi bước vào trong thà, ông ấy phát hiện ra Tuck đang nằm trên giường. Ông ấy đã gọi cảnh sát trưởng, và tình hình cho thấy đây không phải một vụ sát hại. Đến lúc đó, cảnh sát trưởng đã gọi cho tôi.”
“Sao ông ta lại gọi cho ông?” Dawson hỏi.
“Vì Tuck yêu cầu như thế. Ông ấy đã làm rõ với bên cảnh sát trưởng rằng tôi là người thi hành di chúc của ông ấy và cần phải liên lạc với tôi ngay sau khi ông ấy qua đời.”
“Nghe ông nói thì cứ như thể bác ấy biết rõ mình sắp chết vậy.”
“Tôi nghĩ ông ấy cảm nhận được cái chết đang đến,” Tanner nói. “Tuck Hostetler đã già rồi, và ông ấy không sợ hãi khi phải đối diện với những thực tế của tuổi già.” Ông lắc đầu “Tôi chỉ mong sao khi thời điểm của mình sắp đến, tôi cũng có thể kiên quyết và chuẩn bị đâu ra đấy được như thế.”
Amanda và Dawson liếc nhìn nhau nhưng không nói gì.
“Tôi đã thúc giục ông ấy cho cả hai cô cậu biết về những mong muốn và kế hoạch cuối cùng của ông ấy, nhưng vì lý do nào đó mà ông ấy cứ muốn giữ bí mật mọi chuyện. Đến giờ tôi vẫn không sao giải thích được.” Tanner nói bằng giọng tưởng như của một người cha. “Ông ấy còn thể hiện rất rõ ràng rằng ông ấy quan tâm sâu sắc đến cả hai cô cậu.”
Dawson ngồi rướn về phía trước. “Tôi biết điều này không mấy quan trọng, nhưng ông và bác ấy quen biết nhau như thế nào vậy?”
Tanner gật gù, như thể đã đoán trước được câu hỏi. “Tôi gặp Tuck mười tám năm trước, khi tôi lái một chiếc Mustang cổ đến chỗ ông ấy nhờ sửa chữa. Hồi đó, tôi là cổ đông của một công ty lớn ở Raleigh. Nói thật thì, tôi là một nhà vận động hành lang. Làm nhiều việc liên quan đến nông nghiệp. Nhưng để kể tóm gọn lại, thì có thể nói là tôi đã ở lại đây vài ngày để quan sát tiến trình làm việc. Tôi mới chỉ nghe danh Tuck và không mấy tin tưởng giao phó chiếc xe của mình cho ông ấy. Dù sao đi nữa, đại loại là chúng tôi đã dần quen nhau, và tôi nhận ra tôi thích nhịp điệu cuộc sống nơi này. Cuối cùng, vài tuần sau đó, khi tôi quay lại để nhận xe, ông ấy tính phí ít hơn nhiều so với dự tính của tôi, và tôi không khỏi kinh ngạc trước tay nghề của ông ấy. Tua nhanh qua mười lăm năm nhé. Tôi cảm thấy kiệt sức và bất chợt nảy ra ý định chuyển đến an dưỡng tại nơi này. Có điều cũng không yên mãi được. Sau khoảng một năm, tôi mở một văn phòng nhỏ. Công việc không nhiều lắm, chủ yếu liên quan đến di chúc và thỉnh thoảng là một vụ giao dịch bất động sản. Tôi không cần công việc, nhưng nó cho tôi có cái để mà làm. Và vợ tôi vô cùng hạnh phúc vì mỗi tuần tôi chỉ rời nhà có vài tiếng đồng hồ. Dù sao đi nữa, một sáng tôi tình cờ gặp Tuck ở quán Irvin và bảo với ông ấy rằng nếu ông ấy cần bất kỳ việc gì, tôi luôn sẵn lòng. Và rồi, tháng Hai vừa rồi, không ai ngạc nhiên bằng tôi khi ông ấy chấp nhận lời đề nghị ấy.”
“Sao lại là ông chứ không phải...”
“Bất kỳ luật sư nào khác trong thị trấn?” Tanner hỏi, kết thúc câu nói giùm anh. “Tôi có cảm giác ông ấy muốn tìm một luật sư không có gốc rễ quá sâu ở trong thị trấn này. Ông ấy không quá tin tưởng vào sự bảo mật của luật sư với thân chủ, cho dù tôi đã đảm bảo với ông ấy rằng chuyện đó chắc chắn một trăm phần trăm. Không biết tôi có cần bổ sung bất cứ điều gì tôi đã lỡ bỏ qua không?”
Thấy Amanda lắc đầu, ông kéo tập hồ sơ lại gần và đeo chiếc kính đọc sách lên. “Vậy thì bắt đầu thôi. Tuck đã chỉ dẫn rõ rằng ông ấy muốn tôi xử lý mọi việc trong vai trò người thi hành di chúc của ông ấy như thế nào. Cô cậu nên biết rằng những mong muốn này bao gồm cả việc ông ấy không muốn một tang lễ theo kiểu truyền thống. Thay vào đó, ông ấy đề nghị rằng, sau khi ông ấy qua đời, tôi phải thu xếp lễ hỏa táng, và dựa theo yêu cầu của ông ấy cũng như để phù hợp thời gian, Tuck Hostetler đã được hỏa táng ngày hôm qua.” Ông ra dấu về phía cái hộp trên bàn, để ai nấy đều biết chắc trong đó đang cất giữ tro cốt của Tuck.
Amanda tái nhợt mặt mày. “Nhưng hôm qua chúng tôi đến rồi cơ mà.”
“Tôi biết. Ông ấy yêu cầu tôi cố gắng xử lý chuyện này trước khi cô cậu đến.”
“Bác ấy không muốn chúng tôi ở đó sao?”
“Ông ấy không muốn bất cứ ai có mặt ở đó?”
“Tại sao lại không?”
“Tất cả những gì tôi có thể nói đó là ông ấy đã đưa ra những chỉ thị rất rõ ràng. Nhưng nếu được phỏng đoán thì tôi nghĩ rằng ông ấy cảm thấy có thể cô cậu sẽ đau buồn nếu phải tham gia bất kỳ sự chuẩn bị nào như thế này.” Ông cầm một tờ giấy từ trong tập tài liệu lên và giở nó lên cao. “Ông ấy nói - và tôi trích nguyên văn lời ông ấy nhé - ‘chẳng có lý do gì để cái chết của tôi lại trở thành gánh nặng cho họ’.” Tanner tháo cái kính đọc sách ra và lại ngả người vào lưng ghế, cố đánh giá phản ứng của họ.
“Nói cách khác, không có đám tang nào cả?” Amanda hỏi.
“Nếu theo quan điểm truyền thống thì không.”
Amanda quay sang nhìn Dawson rồi lại quay nhìn Tanner. “Vậy tại sao bác ấy lại muốn chúng tôi đến đây?”
“Ông ấy đề nghị tôi liên lạc với cô cậu, hy vọng cô cậu sẽ làm một việc khác cho ông ấy, một việc quan trọng hơn chuyện hỏa táng nhiều. Về cơ bản, ông ấy muốn hai người rải tro của ông ấy ở một nơi mà ông ấy nói là mang ý nghĩa đặc biệt đối với ông ấy, một nơi có vẻ như cả hai cô cậu đều chưa từng đến bao giờ.”
Amanda chỉ mất một thoáng để đoán ra. “Ngôi nhà nhỏ của bác ấy ở Vandemere?”
Tanner gật đầu. “Chính nó đấy. Ngày mai sẽ là thời điểm lý tưởng, cô cậu muốn chọn giờ nào cũng được. Tất nhiên, nếu cô cậu không thấy thoải mái thì tôi sẽ xử lý chuyện này. Dù sao đi nữa, tôi cũng phải đi đến đó.”
“Không, ngày mai được đấy,” Amanda nói.
Tanner cắm một mẩu giấy lên. “Đây là địa chỉ, và tôi cũng mạn phép in cả các chỉ dẫn ra rồi đây. Có lẽ cô cậu cũng ngờ được, nó hơi cách xa con đường mòn. Và thêm một chuyện nữa: ông ấy yêu cầu tôi đưa mấy thứ này cho cô cậu,” ông nói, lấy ba cái phong bì được niêm phong ra khỏi hồ sơ. “Cô cậu sẽ thấy có hai cái đề tên cô cậu. Ông ấy đề nghị cô cậu đọc to cái không đề tên trước, vào lúc nào đó trước nghi lễ.”
“Nghi lễ?” Amanda nhắc lại.
“Ý tôi là lúc rải tro,” ông nói, chìa các chỉ dẫn cùng mấy cái phong bì ra. “Và tất nhiên, cứ thoải mái thêm bất kỳ điều gì cô hay cậu muốn nói.”
“Cảm ơn ông,” cô nói, đón lấy mớ giấy tờ. Mấy cái phong bì có vẻ nặng đến kỳ cục, trĩu xuống cùng bí ẩn. “Nhưng còn hai cái kia thì sao?”
“Tôi đoán là cô cậu sẽ đọc chúng sau đó.”
“Ông đoán?”
“Tuck không nói rõ về chuyện đó, chỉ bảo sau khi cô cậu đã đọc bức thư đầu tiên kia rồi thì sẽ biết khi rào phải mở hai bức còn lại.”
Amanda cầm mấy cái phong bì nhét vào trong túi, cố tiêu hóa tất cả những điều Tanner vừa nói với họ. Dawson cũng có vẻ bối rối chẳng kém gì.
Tanner xem kỹ tập hồ sơ lần nữa. “Còn bất kỳ câu hỏi nào không?”
“Bác ấy có nói rõ rằng bác ấy muốn được rải tro ở chỗ nào tại Vandemere không?”
“Không,” Tanner trả lời.
“Vậy làm sao chúng tôi biết được, chúng tôi đã đến đó bao giờ đâu?”
“Tôi cũng hỏi ông ấy y như vậy đấy, nhưng ông ấy có vẻ rất chắc chắc cô cậu sẽ hiểu cần phải làm gì.”
“Bác ấy có định trước là giờ nào trong ngày không?”
“Lại một vấn đề nữa ông ấy để tùy cô cậu. Tuy nhiên, ông ấy nhất quyết mong rằng nghi lễ phải thật kín đáo. Chẳng hạn, ông ấy yêu cầu tôi đảm bảo chắc chắn rằng không có bất kỳ thông tin nào liên quan đến cái chết của ông ấy bị tiết lộ lên báo, thậm chí là cáo phó cũng không. Theo tôi hiểu, ông ấy không muốn bất kỳ ai, ngoại trừ ba chúng ta, biết được ông ấy đã qua đời. Và tôi đã tuân thủ mong muốn của ông ấy, một cách tối đa. Tất nhiên, dẫu có cố gắng hết sức cũng không thể tránh khỏi tin tức bị lọt ra ngoài, nhưng tôi muốn cô cậu biết rằng tôi đã làm tất cả nhưng gì có thể rồi.”
“Bác ấy có nói tại sao không?”
“Không,” Tanner trả lời. “Tôi cũng không hỏi. Lúc đó, tôi cho rằng trừ phi ông ấy tự nguyện, còn nếu không có lẽ ông ấy sẽ chẳng nói gì với tôi đâu.” Ông nhìn Amanda và Dawson, đợi xem họ có hỏi thêm gì nữa không. Thấy họ vẫn im lặng, ông lật trang đầu tiên trên tập hồ sơ. “Chuyển sang vấn đề tài sản của ông ấy, cả hai cô cậu đều biết Tuck hiện không còn người thân nào còn sống. Mặc dù tôi hiểu rõ trong lúc cô cậu đang buồn rầu thế này, đây có lẽ không phải thời điểm thích họp để thảo luận về di chúc của ông ấy, nhưng ông ấy đã yêu cầu tôi phải nói cho cô cậu biết dự định của ông ấy trong lúc cả hai cô cậu đều đang có mặt ở đây. Như thể không có vấn đề gì chứ?” Thấy họ gật đầu, ông tiếp tục. “Tài sản của Tuck không có nhiều. Ông ấy chỉ sở hữu một ít đất đai, cộng với tiền trong một vài tài khoản. Tôi vẫn đang tổng hợp số lượng, nhưng cô cậu nên biết thế này: ông ấy đề nghị cô cậu cứ tùy ý xử lý bất kỳ tài sản cá nhân nào của ông ấy mà cô cậu muốn, cho dù nó chỉ là một đồ vật nào đó. Ông ấy chỉ yêu cầu đơn giản rằng nếu có bất hòa về bất kỳ vấn đề gì, hai cô cậu hãy xứ lý thỏa đáng khi cô cậu vẫn còn đang ở đây. Tôi sẽ xử lý thủ tục chứng thực di chúc trong vài tháng nữa, nhưng về cơ bản, những tài sản còn lại của ông ấy sẽ được bán hết và số tiền thu được sẽ được quyên tặng cho Trung tâm Ung thư Nhi ở Bệnh viện Đại học Duke.” Tanner mỉm cười với Amanda. Ông ấy nghĩ cô hẳn sẽ muốn biết chuyện đó.”
“Tôi không biết phải nói gì.” Cô có thể cảm nhận được sự cảnh giác thầm lặng của Dawson bên cạnh. “Bác ấy hào phóng quá.” Cô ngập ngừng, nỗi xúc động lớn hơn nhiều những gì cô muốn thừa nhận. “Bác ấy... có lẽ bác ấy biết điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với tôi.”
Tanner gật đầu, đoạn tóm tắt qua các trang tài liệu và cuối cùng, ông đặt chúng sang một bên. “Tôi nghĩ thế là xong rồi, trừ phi cô cậu có thể nghĩ ra bất kỳ chuyện gì khác.”
Chẳng còn chuyện gì khác nữa, và sau khi họ chào tạm biệt, Amanda đứng dậy còn Dawson nhấc cái hộp bằng gỗ óc chó trên bàn lên. Tanner đứng lên nhưng không đi theo họ ra ngoài. Amanda đi theo Dawson ra cửa, để ý thấy khuôn mặt anh đang cau lại. Họ còn chưa ra đến cửa, anh đã dừng bước và quay người lại.
“Ông Tanner?”
“Vâng?”
“Ông đã nói một điều khiến tôi tò mò mãi.”
“Ồ?”
“Ông nói ngày mai là thời điểm lý tưởng. Theo ý tôi, hẳn là ông muốn nói ngày mai chứ không phải ngày hôm nay.”
“Ông có thể cho tôi biết tại sao không?”
Tanner đẩy tập hồ sơ vào góc bàn. “Tôi rất tiếc,” ông nói. “Nhưng tôi không thể.”
• • •
“Chuyện đó là sao vậy?” Amanda hỏi.
Họ đang đi bộ về phía xe của cô, lúc này vẫn đang đậu ngoài quán cà phê. Thay vì trả lời, Dawson thọc tay vào trong túi.
“Bữa trưa em định thế nào?” anh hỏi.
“Anh không trả lời câu hỏi của em à?”
“Anh không chắc nên nói gì nữa. Tanner không trả lời anh.”
“Nhưng trước tiên tại sao anh lại hỏi câu đó?”
“Vì anh là người tò mò mà,” anh nói. “Anh lúc nào cũng tò mò về tất cả mọi thứ.”
Cô băng sang bên kia đường. “Không,” cuối cùng cô nói. “Em không đồng ý. Nói đúng ra, anh đã sống với thái độ chấp nhận gần như khắc kỷ đối với cái cách mọi thứ vận hành. Nhưng em biết chính xác anh đang làm gì.”
“Anh đang làm gì?”
“Anh đang tìm cách chuyển chủ đề.”
Anh chẳng buồn phủ nhận điều này. Thay vào đó, anh kẹp cái hộp vào nách. “Em cũng có trả lời câu hỏi của anh đâu.”
“Câu hỏi nào?”
“Anh đã hỏi bữa trưa em định thế nào. Bởi vì nếu em rảnh rỗi, anh biết một chỗ rất tuyệt đấy.”
Cô lưỡng lự, thầm nghĩ đến những lời ngồi lê đôi mách nơi thị trấn bé tẹo này, nhưng như thường lệ, Dawson đã nhìn thấu được suy nghĩ của cô.
“Cứ tin anh đi,” anh nói. “Anh biết phải đi đâu mà.”
• • •
Nửa giờ sau, họ đã quay lại nhà Tuck, ngồi bên nhánh sông trên một cái chăn được Amanda trưng dụng từ tủ của Tuck. Trên đường đến đây, Dawson đã mua mấy cái bánh sandwich từ nhà hàng Brantlee’s Village cùng vài chai nước.
“Làm sao anh biết cô hỏi, trở lại thói quen nói chuyện không rào trước đón sau. Ở cạnh Dawson, cô nhớ lại cái cảm giác những suy nghĩ của mình bị đọc thấu trước khi cô nói thành lời. Hồi họ còn trẻ, chỉ cần một ánh mắt thoáng qua hay một cử chỉ mơ hồ cũng đã quá đủ để tỏ bày cả một bầu trời suy nghĩ và cảm xúc.
“Mẹ em và tất cả những người bà ấy quen biết vẫn đang sống ở thị trấn. Em đã kết hôn, và anh là một người thuộc về quá khứ của em. Cũng không quá khó để đoán được rằng sẽ không hay ho gì nếu chúng ta bị bắt gặp đang ở bên nhau buổi trưa.”
Cô lấy làm mừng vì anh đã hiểu, nhưng khi anh lôi hai cái bánh sandwich từ trong túi ra, cảm giác tội lỗi lại râm ran trong lòng cô. Cô tự nhủ họ chỉ đơn giản là đang ăn trưa thôi, nhưng đó không phải toàn bộ sự thực, và cô biết thế.
Dawson có vẻ không để ý. “Salad gà hay gà tây đây?” anh hỏi, cầm cả hai cái bánh chìa ra cho cô.
“Gì cũng được,” cô nói. Rồi chợt đổi ý, cô nói, “Salad gà đi.”
Anh đưa cái sandwich cho cô, kèm theo một chai nước. Cô quan sát xung quanh, tận hưởng bầu không khí tĩnh lặng. Những đám mây mỏng mờ đục bảng lảng trôi trên đầu, và bên cạnh ngôi nhà, cô nhìn thấy một đôi sóc đang đuổi nhau chạy lên trên một thân sồi phủ kín rêu. Một con rùa đang phơi nắng trên một khúc gỗ ở đầu bên kia sông. Đây chính là nơi cô lớn lên, tuy nhiên nó lại mang đến một cảm giác xa lạ kỳ quái, một thế giới hoàn đoàn khác so với thế giới cô đang sống hiện nay.
“Em nghĩ thế nào về cuộc gặp vừa rồi?” anh hỏi.
“Tanner có vẻ là người đứng đắn.”
“Còn những bức thư bác Tuck viết thì sao? Có suy nghĩ gì không?”
“Sau những gì em được nghe sáng nay ấy hả? Chẳng có manh mối nào hết.”
Dawson gật gù bóc lớp vỏ bọc cái bánh sandwich của anh, và cô cũng làm tương tự. “Trung tâm Ung thư Nhi hả?”
Cô gật đầu, bất giác nghĩ đến Bea. “Em đã kể với anh là em làm tình nguyện viên tại Bệnh viện Đại học Duke. Em cũng tiến hành vài hoạt động gây quỹ cho họ nữa.”
“Phải, nhưng em không nhắc đến chuyện em làm ở khu nào trong bệnh viện,” Dawson đáp, cái bánh sandwich mặc dù đã được bóc lớp vỏ bọc nhưng vẫn chưa hề được đụng tới. Nghe giọng anh, cô biết anh đang thắc mắc và biết rõ anh chờ đợi gì. Cô lơ đãng xoắn xoắn cái nắp chai nước.
“Frank và em từng có một đứa con khác, một bé gái, ba năm sau khi Lynn chào đời.” Cô dừng lại, cố lấy dũng khí, nhưng chẳng hiểu sao, cô vẫn biết rằng khi kể với Dawson, mọi chuyện dường như không có vẻ kỳ cục và đau đớn như thường lệ, khi cô nói với những người khác.
“Được mười tám tháng tuổi, con bé bị chẩn đoán u não. Không phẫu thuật cắt bỏ được, và cho dù đội ngũ y bác sĩ đông đảo cùng các nhân viên ở Trung tâm Ung thư Nhi đã nỗ lực biết bao nhiêu, sáu tháng sau con bé vẫn qua đời.” Cô nhìn xuống nhánh sông xưa cũ, trong lòng dâng lên một nỗi đau sâu sắc quen thuộc, một nỗi sầu thảm cô biết rõ sẽ không bao giờ qua đi.
Dawson vươn tay ra siết chặt bàn tay cô. “Tên con bé là gì?” anh hỏi, giọng dịu dàng.
“Bea,” cô đáp.
Suốt một lúc lâu, không ai nói gì, chỉ có tiếng nước sông cuộn chảy và tiếng lá xào xạc trên đầu. Amanda cảm thấy cô không cần phải nói gì thêm, và Dawson cũng không mong chờ cô nói. Cô biết anh hiểu chính xác cô đang cảm thấy như thế nào, mà cô có cảm giác anh cũng đang đau đớn, chỉ bởi vì anh không thể giúp gì được cho cô.
• • •
Sau bữa trưa, họ dọn dẹp đồ picnic cùng cái chăn rồi bắt đầu quay trở lại ngôi nhà. Dawson theo chân Amanda vào trong, dõi mắt nhìn theo khi cô biến mất nơi góc nhà để cất cái chăn đi. Ở cô toát lên vẻ gì tuồng như thận trọng, như thể cô sợ sẽ phá vỡ một quy tắc ngầm nào đó. Lấy được mấy cái cốc từ tủ cốc chén trong phòng bếp, anh rót ra ít trà ngọt. Khi cô quay lại bếp, anh đưa cho cô một cốc.
“Em ổn chứ?” anh hỏi.
“Vâng,” cô đáp, đưa tay đón cái cốc. “Em ổn.”
“Anh xin lỗi nếu đã làm em buồn.”
“Không đâu mà,” cô nói. “Chỉ là đôi lúc, em vẫn thấy khá nặng nề khi nói chuyện về Bea. Và cho đến lúc này, đây là một... kỳ nghỉ cuối tuần bất ngờ.”
“Với anh cũng vậy,” anh tán thành. Anh ngả người ra sau tựa lưng vào quầy bếp. “Em có muốn làm chuyện này không?”
“Làm cái gì?”
“Đi quanh nhà một lượt. Để xem liệu có thứ gì em muốn không.”
Amanda thở phào, hy vọng vẻ bồn chồn của cô không lộ quá rõ. “Em không biết nữa. Chẳng hiểu sao em vẫn có cảm giác sai trái thế nào đó.”
“Đừng như thế. Bác ấy muốn chúng ta nhớ đến bác ấy mà.”
“Cho dù có chuyện gì thì em vẫn sẽ nhớ bác ấy.”
“Vậy thế này thì sao? Bác ấy không muốn chỉ là một ký ức. Bác ấy muốn chúng ta lưu giữ một phần của bác ấy và của nơi này nữa.”
Cô nhấp một ngụm trà, biết rõ có lẽ anh nói đúng. Nhưng ngay lúc này đây, cái ý tưởng sục sạo đồ đạc của ông để tìm một món đồ lưu niệm có vẻ hơi thái quá. “Cứ đợi một chút đã. Được không anh?”
“Được chứ. Bất cứ khi nào em sẵn sàng. Em muốn ngồi ngoài trời một lát không?”
Cô gật đầu, đi theo anh ra hiên sau, ngồi lên hai cái ghế bập bênh cũ kỹ của Tuck. Dawson tì cốc nước lên trên đùi. “Anh đoán rằng bác Tuck và bác Clara cũng thường làm thế này,” anh nhận xét. “Chỉ ngồi ngoài trời ngắm nhìn thế giới vần xoay.”
“Có lẽ.”
Anh quay về phía cô. “Anh lấy làm mừng vì em đã đến thăm bác ấy. Anh không muốn nghĩ rằng bác ấy luôn phải cô đơn ở nơi này.”
Cô có thể cảm nhận được hơi nước tỏa ra từ cái cốc toát mồ hôi cô đang giữ trong tay. “Anh biết bác ấy vẫn thường xuyên nhìn thấy bác Clara mà, phải không? Sau khi bác gái qua đời ấy.”
Dawson cau mày. “Em đang nói chuyện gì vậy?”
“Bác ấy đã thề rằng bác Clara vẫn đang ở quanh đây.”
Trong một thoáng, tâm trí anh xẹt lên những hình ảnh và những chuyển động mà anh từng được trải nghiệm. “Em bảo bác ấy nhìn thấy bác Clara nghĩa là sao?”
“Nghĩa y như em đã nói đấy. Bác ấy đã nhìn thấy và nói chuyện với bác Clara,” cô nói.
Anh chớp mắt. “Có phải em đang nói rằng bác Tuck tin là bác ấy nhìn thấy một hồn ma?”
“Sao vậy? Bác ấy chưa bao giờ kể với anh à?”
“Bác ấy chưa bao giờ kể cho anh nghe về bác Clara.”
Mắt cô mở to. “Chưa bao giờ?”
“Bác ấy chỉ nói với anh rằng tên bác gái là Clara.”
Amanda bèn bỏ cốc trà sang một bên và bắt đầu kể cho anh nghe một vài câu chuyện mà Tuck từng chia sẻ với cô trong suốt bao nhiêu năm nay. Về chuyện ông nghỉ học năm mười hai tuổi và tìm được việc tại gara của ông bác; chuyện ông gặp bà Clara lần đầu tiên tại nhà thờ hồi ông mười bốn và ngay lập tức biết rằng ông sẽ cưới bà; chuyện toàn bộ gia đình Tuck, bao gồm cả người bác của ông, chuyển nhà lên miền Bắc kiếm việc trong mấy năm đầu thời là Đại khủng hoảng và không bao giờ quay trở lại. Cô kể cho Dawson nghe về những năm đầu tiên ông trải qua cùng bà Clara, bao gồm cả vụ sảy thai đầu tiên, rồi công việc vất vả của ông tại nông trại của cha bà Clala trong khi tối tối ông vẫn tiếp tục xây dựng ngôi nhà này. Cô nói sau thời chiến tranh, bà Clara còn sẩy thai thêm hai lần nữa, và cô kể chuyện Tuck xây được cái gara rồi bắt tay vào công việc sửa chửa xe hơi từ hồi đầu thập niên 1950, bao gồm cả một chiếc Cadillac của một ca sĩ đang trên đà tỏa sáng tên là Elvis Presley. Đến lúc cô kết thúc câu chuyện bằng cái chết của bà Clara và việc Tuck nhắc đến bóng ma của bà, Dawson đã uống cạn cốc trà và giờ anh chăm chú nhìn vào trong cốc, hiển nhiên đang cố gắng kết nối những câu chuyện cô kể với người đàn ông anh từng quen biết.
“Thật không tin nổi là bác ấy không hề kể cho anh nghe những chuyện này,” Amanda ngạc nhiên.
“Hẳn bác ấy có lý do của mình. Có lẽ bác ấy quý em hơn.”
“Em nghi ngờ điều đó đấy,” cô nói. “Chỉ là em biết bác ấy muộn hơn. Anh biết bác ấy khi bác ấy vẫn còn đang đau khổ.”
“Có lẽ,” anh nói, giọng không mấy tin tưởng.
Amanda tiếp tục. “Anh rất quan trọng đối với bác ấy. Xét cho cùng, bác ấy đã để anh sống ở đây mà. Không phải một mà những hai lần.” Thấy Dawson cuối cùng cũng gật đầu, cô để cốc trà của mình sang bên. “Nhưng cho em hỏi một câu được không?”
“Gì cũng được.”
“Vậy anh và bác ấy đã nói về chuyện gì vậy?”
“Ô tô. Động cơ. Bộ truyền động. Thỉnh thoảng hai bác cháu nói chuyện về thời tiết.”
“Hẳn phải sôi nổi lắm,” cô châm chọc.
“Em không tưởng tượng nổi đâu. Nhưng hồi đó, anh cũng chẳng phải người hay trò chuyện.”
Cô ngả người về phía anh, đột nhiên có vẻ quả quyết. “Được rồi. Vậy giờ đây cả hai chúng ta đều đã biết chuyện bác Tuck và anh đã biết chuyện của em. Nhưng em vẫn chưa biết chuyện của anh.”
“Tất nhiên là có chứ. Anh đã kể với em ngày hôm qua rồi còi gì. Anh làm việc trên một giàn khoan dầu. Sống trong một cái xe móc ngoài trời trong vùng nông thôn. Vẫn lái cái xe cũ. Không hẹn hò.”
Uể oải, Amanda hất túm tóc đuôi ngựa lên một bên vai, cử chỉ gần như có chút gợi tình. “Kể cho em chuyện gì em không biết đi,” cô dụ dỗ. “Chuyện gì đó về anh mà không người nào biết. Chuyện gì đó sẽ khiến em ngạc nhiên ấy.”
“Chẳng có gì nhiều để mà kể đâu,” anh nói.
Cô nhìn anh nghiền ngẫm. “Sao em lại thấy khó tin anh?”
Bởi vì, anh nghĩ, anh có bao giờ giấu em được điều gì đâu. “Anh không chắc nữa,” thay vào đó anh nói.
Nghe câu trả lời của anh, cô trở nên im lặng hẳn, mải nghĩ đến điều gì đó khác. “Hôm qua anh đã nói một chuyện khiến em rất tò mò.” Khi anh chăm chú nhìn cô với vẻ mặt như trêu chọc, cô tiếp tục. “Làm sao anh biết Marilyn Bonner chưa bao giờ tái hôn?”
“Anh biết thế thôi.”
“Bác Tuck kể với anh à?”
“Không.”
“Vậy làm sao anh biết?”
Anh đan tay vào nhau và ngả người tựa lưng vào chiếc ghế bập bênh, biết rõ nếu anh không trả lời, cô sẽ cứ thế hỏi mãi. Trên phương diện đó, cô không hề thay đổi. “Có lẽ tốt hơn hết, anh nên bắt đầu từ đầu,” anh thở dài nói. Vậy là anh kể cho cô nghe về gia đình Bonner, về cái lần anh ghé thăm nông trại tiêu điều của Marilyn từ lâu lắm rồi, về những năm tháng vật lộn của gia đình họ, về chuyện anh bắt đầu gửi tiền nặc danh cho họ kể từ sau khi anh ra tù. Và cuối cùng, rằng suốt nhiều năm qua, anh vẫn thuê thám tử tư báo cáo tình hình sinh sống của gia đình họ. Khi anh kết thúc, Amanda vẫn im lặng, rõ ràng đang chật vật tìm câu trả lời.
“Em không biết phải nói gì nữa,” cuối cùng cô thốt lên.
“Anh đã biết em thể nào cũng sẽ nói thế mà.”
“Em nghiêm túc đấy, Dawson,” cô nói, rõ ràng đang giận dữ. “Ý em là, em biết hành động của anh cũng đáng khâm phục, và em chắc chắn nó đã khiến cuộc sống của họ thay đổi rất thiều. Nhưng... chuyện đó cũng thật đáng buồn, bởi anh vẫn không thể tha thứ cho bản thân vì một sự kiện rõ ràng là tai nạn. Ai cũng mắc sai lầm, chỉ có điều một vài sai lầm thì tệ hơn mà thôi. Tai nạn vẫn thường xảy ra mà. Nhưng cử người theo dõi họ ư? Để biết chính xác đã có chuyện gì xảy ra trong cuộc sống của họ ư? Đó là hành động sai lầm.”
“Em không hiểu đâu...” anh dợm giọng.
“Không, anh không hiểu thì có,” cô ngắt lời. “Anh không nghĩ rằng họ xứng đáng được riêng tư ư? Chụp ảnh, đào bới đời sống cá nhân của họ...”
“Không phải thế,” anh phản đối.
“Nhưng nó đúng là thế đấy!” Amanda vỗ lên tay ghế bập bênh. “Nhỡ họ phát hiện ra thì sao? Anh có thể tưởng tượng được chuyện đó sẽ khủng khiếp đến thế nào không? Họ sẽ cảm thấy bị phản bội và bị xâm phạm đời tư như thế nào?” Trước sự ngạc nhiên của anh, cô đặt một bàn tay lên cánh tay anh, siết thật chặt và đầy khẩn thiết để chắc chắn anh nghe được lời cô. “Em không nói là em tán thành với hành động của anh; anh làm gì với tiền của anh thì đó là chuyện của anh. Nhưng còn những chuyện khác. Về các thám tử ấy. Anh phải dừng lại đi. Anh phải hứa là anh sẽ làm thế nhé?”
Anh có thể cảm thấy hơi nóng tỏa ra từ sự đụng chạm của cô. “Được rồi,” cuối cùng anh nói. “Anh hứa anh sẽ không làm thế nữa.”
Cô nhìn anh chăm chú, để đảm bảo rằng anh đang nói sự thực. Lần đầu tiên kể từ khi họ gặp nhau, Dawson trong có vẻ gần như mệt mỏi. Trong dáng vẻ của anh có nét gì đó chán chường, và khi họ ngồi bên nhau, cô thầm hỏi đáng lẽ anh sẽ ra sao nếu mùa hè đó cô không bỏ đi. Hay thậm chí là nếu cô đến thăm anh trong thời gian anh còn đang ở tù. Cô muốn tin rằng nó có thể mang lại một sự đổi thay, rằng Dawson sẽ sống một cuộc đời ít bị quá khứ ám ảnh hơn. Rằng Dawson nếu không hạnh phúc thì ít nhất cũng sẽ có thể tìm được một chút cảm giác bình yên. Sự bình yên vốn dĩ luôn luôn trốn tránh anh.
Nhưng nó đâu chỉ trốn tránh mỗi mình anh, phải vậy không? Chẳng phải đó là điều tất cả mọi người đều mong muốn sao?
“Anh còn có một chuyện phải thú nhận nữa,” anh nói. “Về gia đình Bonner.”
Cô cảm giác hơi thở dường như đã rời khỏi buồng phổi. “Còn nữa?”
Anh đưa bàn tay kia gãi gãi cánh mũi, như thể để câu giờ. “Sáng sớm nay anh đã mang hoa đến mộ bác sĩ Bonner. Anh vẫn thường làm thế kể từ khi ra tù. Khi mọi thứ trở nên quá sức chịu đựng ấy, em hiểu mà, phải không?”
Cô nhìn anh chăm chăm, băn khoăn không biết anh có định đưa ra một bất ngờ nào nữa không, nhưng không. “Chuyện đó không cùng cấp độ với những chuyện khác mà anh đã làm.”
“Anh biết. Anh chỉ nghĩ là anh nên nhắc đến nó thôi.”
“Tại sao? Vì bây giờ anh muốn biết ý kiến của em à?”
Anh nhún vai. “Có lẽ.”
Mất một lúc, cô không trả lời. “Em nghĩ hoa thì ổn cả,” cuối cùng cô nói, “miễn là anh không làm quá trớn. Thực ra chuyện đó... rất thích đáng.”
Anh quay về phía cô. “Thật hả?”
“Thật,” cô nói. “Đặt hoa trên mộ ông ấy là hành động nhiều ý nghĩa, mà nó lại không mang tính xâm phạm đời sống riêng tư.”
Anh gật đầu nhưng không nói gì. Trong im lặng, Amanda vươn người tới gần hơn. “Anh có biết em đang nghĩ gì không?” cô hỏi.
“Sau tất cả những chuyện anh vừa nói, anh gần như thấy sợ không dám đoán đâu.”
“Em nghĩ anh và bác Tuck giống nhau nhiều hơn anh tưởng nhiều.”
Anh quay sang nhìn cô. “Đó là chuyện tốt hay xấu?” “Em vẫn đang ở đây với anh mà, phải không?”
• • •
Khi cái nóng đã trở nên ngột ngạt hơn nhiều ngay cả dưới bóng râm, Amanda đi trước, họ quay trở vào trong nhà. Cánh cửa chắn nhẹ nhàng đóng lại sau lưng họ.
“Em sẵn sàng chưa?” anh hỏi, quan sát căn bếp.
“Chưa,” cô nói. “Nhưng em cho là chúng ta vẫn phải làm chuyện này thôi. Nhắc lại lần nữa, em vẫn có cảm giác đây là chuyện sai trái. Thậm chí em còn chẳng biết bắt đầu từ đâu nữa.”
Dawson bước từ đầu này đến đầu kia căn bếp rồi mới quay lại đối mặt với cô. “Được rồi, vậy thì làm thế này nhé: khi nhớ về lần cuối cùng em đến thăm bác Tuck, em nghĩ đến điều gì?”
“Cũng y như mọi lần thôi. Bác ấy nói chuyện về bác Clara, em làm bữa tối cho bác ấy.” Cô khẽ rùng mình. “Em khoác một cái chăn lên vai bác ấy khi bác ấy ngủ thiếp đi trên ghế.”
Dawson kéo cô vào trong phòng khách và hất hàm về phía lò sưởi. “Vậy thì có lẽ em nên lấy bức ảnh đi.”
Cô lắc đầu. “Em không thể làm thế được.”
“Em thà để nó bị ném đi à?”
“Không, tất nhiên là không rồi. Nhưng anh nên lấy nó. Anh hiểu bác ấy rõ hơn em.”
“Không hẳn,” anh nói. “Bác ấy chưa bao giờ kể cho anh nghe về bác Clara. Và khi em nhìn nó, em sẽ nghĩ đến cả hai người họ chứ không chỉ riêng bác ấy, và chính bởi vậy nên bác ấy mới kể cho em nghe về bác Clara.”
Thấy cô lưỡng lự, anh bước về phía lò sưởi và nhẹ nhàng nhấc nó ra khỏi mặt lò sưởi. “Bác ấy muốn thứ này có ý nghĩa quan trọng đối với em. Bác ấy muốn cả hai bác đều có ý nghĩa quan trọng đối với em.”
Cô với tay về phía tấm ảnh, nhìn nó không chớp mắt. “Nhưng nếu em cầm nó thì còn lại gì cho anh?” ý em là, ở đây chẳng có gì nhiều nhặn.”
“Đừng lo. Lúc trước anh đã nhìn thấy một thứ mà anh muốn giữ rồi.” Anh đi về phía cửa. “Đi nào.”
Amanda theo anh bước xuống cầu thang. Khi họ ra đến gara, cô bất chợt bừng tỉnh: nếu ngôi nhà là nơi cô và Tuck đã dệt nên mối liên hệ của họ, vậy thì gara chính là nơi dành cho Dawson và Tuck. Và khi anh còn chưa tìm ra nó, cô đã biết anh muốn gì rồi.
Dawson với tay về phía cái khăn bạc màu được gấp gọn gàng đặt trên bàn máy. “Đây chính là thứ bác ấy muốn anh giữ,” anh nói.
“Anh chắc chứ?” Amanda liếc nhìn tấm vải đỏ hình vuông. “Nó không có gì đáng kể.”
“Đây là lần đầu tiên anh nhìn thấy có một cái khăn sạch ở quanh đây, vậy nên ắt hẳn nó dành cho anh rồi.” Anh toét miệng cười. “Nhưng đúng vậy, anh chắc chắn đấy. Với anh, đây chính là bác Tuck. Theo anh nhớ thì anh chưa từng thấy có lần nào bác ấy lại không mang theo một cái khăn. Tất nhiên, luôn luôn là cùng một màu.”
“Tất nhiên,” cô tán thành. “Chúng ta đang nói về bác Tuck cơ mà, đúng không? Ngài chung thủy-trong-mọi-vấn-đề?”
Dawson nhét cái khăn vào túi quần sau. “Như thế cũng chẳng có gì không tốt. Thay đổi không phải lúc nào cũng là hay.”
Những từ ngữ dường như treo lơ lửng giữa không trung, và Amanda không đáp lời. Thay vào đó, khi anh ngả người dựa và chiếc Stingray, cử chỉ ấy đã khuấy động ký ức của cô, và cô dấn thêm một bước về phía anh. “Em quên mất không hỏi Tanner xem phải xử lý cái xe thế nào.”
“Anh đang nghĩ có khi anh sẽ hoàn thành nốt công việc đó. Sau đó Tanner chỉ việc gọi chủ sở hữu đến đưa nó đi thôi.”
“Thật hả?”
“Theo như anh thấy, mọi bộ phận đều có sẵn ở đây rồi,” anh nói, “và anh dám chắc bác Tuck muốn anh hoàn thành công việc này. Thêm nữa, em sắp đi ăn tối với mẹ em rồi, vậy nên có vẻ như tối nay anh chẳng còn việc gì khác để làm cả.”
“Chuyện này sẽ mất bao lâu?” Amanda quét mắt khắp lượt những chiếc hộp đựng các bộ phận dự phòng.
“Anh không biết nữa. Có lẽ là vài giờ.”
Cô hướng sự chú ý về phía cái xe, đi từ đầu này đến đầu kia rồi lại quay sang nhìn anh. “Được rồi,” cô nói. “Anh có cần giúp đỡ không?”
Dawson cười gượng. “Từ lần cuối anh gặp em đến giờ, em đã học được cách sửa chữa động cơ chưa đấy?”
“Chưa.”
“Anh có thể xử lý chuyện này sau khi em đi,” anh nói. “Không có vấn đề gì to tát đâu.” Xoay người nhìn quanh, anh ra dấu về phía căn nhà. “Nếu em muốn, chúng ta có thể quay trở vào nhà. Giờ ở ngoài này khá nóng.”
“Em không muốn anh phải làm việc muộn quá,” cô nói, và như thể một thói quen cũ sống dậy, cô bước đến chỗ ngày xưa từng được dành cho cô. Cô đẩy một cái kích gỉ sét sang bên và đu người ngồi lên cái bàn thợ, tìm tư thế thoải mái nhất. “Mai chúng ta sẽ có một ngày trọng đại. Và thêm nữa, em luôn thích quan sát anh làm việc.”
Anh tưởng như nghe thấy trong câu nói một điều gần như lời hứa hẹn, và anh bất chợt có cảm giác năm tháng dường như đã lượn vòng trở lại, cho phép anh thăm lại quãng thời gian cùng nơi chốn từng khiến anh hạnh phúc nhất. Quay người đi, anh tự nhắc nhở bản thân rằng Amanda đã kết hôn rồi. Điều cô không cần đến nhất vào thời điểm này chính là thứ rắc rối bắt nguồn từ việc cố gắng viết tiếp những gì còn dang dở ở quá khứ. Chậm rãi thở ra một hơi thong thả, anh với tay về phía một cái hộp ở đầu bên kia bàn thợ.
“Em sẽ chán chết cho xem. Phải mất một lúc đấy,” anh nói, cố gắng không để lộ suy nghĩ thực của mình.
“Không cần bận tâm đến em đâu. Em quen rồi.”
“Quen buồn chán á?”
Cô co hai chân lên. “Em đã quen ngồi đây hàng giờ đợi anh xong việc để chúng ta cuối cùng cũng có thể đi làm chuyện gì đó hay ho.”
“Lẽ ra em nên nói gì đó.”
“Khi nào không thể chịu đựng thêm được nữa, em mới nói. Nhưng em biết rằng nếu em kéo anh đi quá thường xuyên, bác Tuck sẽ không cho em loanh quanh ở đây thêm nữa. Cũng chính bởi vậy nên suốt thời gian đó em mới không bắt anh nói chuyện.”
Khuôn mặt cô hơi khuất trong bóng tối, giọng cô là một tiếng gọi đầy cám dỗ. Quá nhiều ký ức, khi cô ngồi ở kia với cái dáng vẻ xưa quen thuộc, trò chuyện như thế này. Anh nhấc bộ chế hòa khí ra khỏi hộp, xem xét kỹ càng. Nó đã được cải tạo, nhưng rõ ràng vẫn hoạt động rất tốt, và anh bỏ nó sang bên trước khi đọc lướt qua yêu cầu công việc.
Anh đi ra trước mũi xe, nhấc nắp ca pô lên rồi ngó vào trong. Nghe tiếng cô hắng giọng, anh liếc nhìn cô.
“Chà, cân nhắc đến việc bác Tuck không có ở đây,” cô nói, “em đoán là bây giờ chúng ta có thể thích nói gì thì nói, ngay cả khi anh đang làm việc đi chăng nữa.”
“Đúng vậy.” Anh đứng thẳng người lên và bước về phía bàn thợ. “Em muốn nói về chuyện gì?”
Cô ngẫm nghĩ một lúc. “Được rồi, chuyện này thì sao? Anh nhiều gì nhất vào mùa hè đầu tiên chúng ta ở bên nhau?”
Anh với lấy bộ cờ lê mỏ lết, cân nhắc câu hỏi. “Anh nhớ mình cứ băn khoăn mãi không hiểu thế quái nào mà em lại muốn dành thời gian cho anh chứ.”
“Em nghiêm túc đấy.”
“Anh cũng vậy mà. Anh chẳng có gì trong khi em có tất cả. Em có thể hẹn hò với bất kỳ ai. Và mặc dù chúng ta đã cố gắng giấu giấu giếm giếm, nhưng ngay từ hồi đó, anh vẫn biết rằng chuyện này sẽ chỉ gây rắc rối cho em mà thôi. Anh chẳng thấy nó hợp lý gì cả.”
Cô ngồi bó gối thật chặt, tì cằm lên. “Anh có biết em nhớ gì không? Em nhớ hồi anh và em lái xe xuống bãi biển Atlantic. Khi chúng ta nhìn thấy bầy sao biển ấy. Cứ như thể tất cả bị dạt hết vào bờ cùng một lúc, và chúng ta đi hết dọc bãi biển, ném trả chúng xuống nước. Rồi sau đó, chúng ta cùng chia nhau một chiếc bánh hamburger cùng khoai tây chiên và ngắm mặt trời lặn. Chúng ta dễ phải trò chuyện suốt mười hai tiếng đồng hồ ấy chứ.”
Cô mỉm cười trước khi tiếp tục, biết rõ anh cũng đang nhớ lại. “Chính bởi vậy nên em mới thích được ở bên anh. Chúng ta có thể làm những chuyện đơn giản nhất, giống như ném sao biển xuống nước, chia sẻ một chiếc hamburger rồi trò chuyện, và ngay từ hồi đó em đã biết mình thật may mắn. Bởi vì anh là người đầu tiên không phải lúc nào cũng cứ cố gắng gây ấn tượng với em. Anh chấp nhận con người thật của anh, nhưng hơn cả thế, anh chấp nhận em vì chính em. Và ngoài điều đó ra, chẳng còn gì quan trọng hết - kể cả gia đình em hay gia đình anh hay bất kỳ ai khác trên thế giới này. Chỉ có chúng ta thôi.” Cô dừng lại. “Em không biết liệu có bao giờ em còn cảm thấy hạnh phúc như ngày hôm đó không, nhưng mỗi khi chúng ta ở bên nhau thì đều như thế cả. Em không bao giờ muốn nó kết thúc.”
Anh nhìn vào mắt cô. “Có lẽ nó không kết thúc đâu.” Và rồi, từ cái khoảng cách mà tuổi tác và sự chín chắn mang lại, cô đã hiểu rằng hồi đó anh yêu cô nhiều biết bao nhiêu. Và vẫn yêu, một tiếng nói thầm thì trong tâm trí cô, đột nhiên, cô có một cảm giác kỳ lạ rằng hết thảy mọi điều họ cùng chia sẻ trong quá khứ là những chương đầu một cuốn sách vẫn chưa được viết phần kết thúc.
Ý nghĩ này đáng ra phải khiến cô thấy sợ hãi, nhưng không hề, và cô lướt lòng bàn tay lên những nét chữ đã mờ phai với tên viết tắt tên của hai người, được khắc vào bàn thợ từ rất nhiều năm về trước.
“Anh biết không, hồi bố em mất, em đã từng đến đây đấy.”
“Đến đâu? Đây á?” Thấy cô gật đầu, Dawson lại với tay về phía bộ chế hòa khí. “Anh tưởng em bảo em mới chỉ bắt đầu về thăm bác Tuck mấy năm nay thôi.”
“Bác ấy không biết. Em chưa từng nói cho bác ấy biết là em đã đến.”
“Sao lại không?”
“Em không thể. Em phải cố hết sức mới có thể giữ được bình tĩnh, và em muốn ở một mình.” Cô dừng lại. “Chuyện xảy ra khoảng một năm sau khi Bea mất, và em còn đang vật lộn để vượt qua chuyện đó thì mẹ em gọi điện báo cho em biết bố em bị lên cơn đau tim. Thật phi lý. Vừa mới tuần trước bố mẹ còn đến Durham thăm bọn em, thế rồi đùng một cái, bọn em đã mang theo lũ trẻ về dự đám tang của ông. Bọn em đã lái xe suốt cả buổi sáng để về được đây, và vừa bước vào cửa nhà, em đã thấy mẹ em ăn mặc lộng lẫy và bà gần như ngay lập tức tóm tắt cho bọn em nghe nhiệm vụ của bọn em ở nhà tang lễ.
Ý em là, bà gần như chẳng để lộ bất kỳ cảm xúc nào hết. Có vẻ bà còn bận tâm hơn nhiều đến việc chọn cho đúng loại hoa lễ và bắt em gọi điện báo cho toàn thể họ hàng. Nó chẳng khác gì một cơn ác mộng, và đến cuối ngày, em chỉ cảm thấy quá... cô độc. Vậy nên nửa đêm, em rời nhà lái xe đi loanh quanh, và chẳng hiểu sao em lại dừng xe ở bên đường rồi đi bộ lên đây. Em không thể lý giải được. Nhưng em ngồi đây và khóc có lẽ phải mấy tiếng liền.” Cô thở hắt ra, cơn sóng triều ký ức đang cuộn dâng trở lại. “Em biết bố em chưa bao giờ cho anh cơ hội, nhưng ông không hẳn là người xấu. Em luôn hòa thuận với ông hơn với mẹ, và em càng trưởng thành thì hai bố con càng gần gũi nhau hơn. Ông yêu bọn trẻ... đặc biệt là Bea.” Cô im lặng rồi nở nụ cười buồn bã. “Anh có thấy chuyện này kỳ lạ không ý em là chuyện em đến đây sau khi ông qua đời ấy?”
Dawson ngẫm nghĩ một lúc: “Không,” anh nói. “Anh không thấy có gì kỳ lạ cả. Sau khi ra tù, anh cũng đã quay lại đây.”
“Anh đâu có nơi nào khác để đi.”
Anh nhướng mày. “Em thì có à?”
Tất nhiên, anh đã đúng: mặc dù chỗ Tuck lưu giữ những ký ức bình dị thanh thản nhưng nó cũng là nơi cô luôn muốn đến để khóc.
Cô siết chặt các ngón tay hơn, gạt ký ức ra xa, và rồi bình tĩnh lại, quan sát Dawson trong lúc anh bắt đầu lắp ráp động cơ. Khi bóng chiều buông xuống, họ thoải mái trò chuyện về những điều thường nhật, cả quá khứ lẫn hiện tại, lấp đầy các mảnh ghép cuộc đời của họ và trao đổi ý kiến về mọi thứ, từ sách vở cho tới những nơi họ vẫn luôn mơ ước được đến thăm. Lắng nghe tiếng cờ lê lách cách khi anh chỉnh nó vào đúng vị trí, cô đột nhiên có cảm giác như mình đã từng trải qua chuyện này rồi. Cô nhìn thấy anh hì hục nới lỏng một cái bu lông, hàm anh nghiến chặt lại cho tới khi cuối cùng cái bu lông cũng bị tháo rời, rồi anh cẩn thận đặt nó sang bên. Hệt như anh vẫn làm hồi còn trẻ, thỉnh thoảng anh sẽ dừng tay, nhắc cho cô nhớ anh vẫn đang chăm chú lắng nghe hết thảy mọi điều cô nói. Rằng anh muốn để cho cô biết, theo cái cách dè dặt của anh, rằng cô đã và mãi mãi là người quan trọng đối với anh. Những điều ấy khơi dậy trong cô một cảm xúc mãnh liệt gần thư đau đớn.
Sau đó, khi anh ngừng tay để nghỉ giải lao và vào trong nhà rồi trở lại mang theo hai cốc trà ngọt, có một thoáng, chỉ một thoáng thôi, cô đã hình dung ra một cuộc đời khác có thể đã là cuộc đời của cô, cuộc đời mà cô biết rõ mình vẫn luôn thật lòng mong muốn.
Khi vầng mặt trời hoàng hôn treo lơ lửng trên hang thông, Dawson và Amanda cuối cùng cũng rời khỏi gara, chậm rãi quay trở lại xe của cô. Trong vài tiếng đồng hồ ít ỏi vừa rồi, điều gì đó giữa họ đã thay đổi - có lẽ là một sự tái sinh mong manh của quá khứ - khiến cô vừa hồi hộp vừa sợ hãi. Về phần Dawson, anh khát khao được vòng cánh tay mình quanh người cô lúc bọn họ sánh bước bên nhau, nhưng cảm nhận được sự bối rối của cô, anh đành tự ngăn mình lại.
Nụ cười của Amanda lộ vẻ ngập ngừng khi cuối cùng họ cũng đến cửa xe cô. Cô ngước nhìn anh, để ý thấy hàng lông mi vừa dày vừa dài của anh, đúng kiểu mi khiến bất kỳ người phụ nữ nào cũng đều phải ghen tị.
“Em chỉ mong sao mình không phải đi,” cô thú nhận.
Anh đổi chân trụ. “Anh dám chắc em và mẹ sẽ rất vui vẻ.”
Có lẽ, cô thầm nghĩ, nhưng cũng có thể không. “Khi nào đi anh khóa cửa nhé?”
“Tất nhiên rồi,” anh nói, nhận thấy ánh mặt trời lả lướt trên làn da rạng rỡ của cô và vài lọn tóc của cô bay lên trong làn gió nhẹ. “Ngày mai em định thế nào? Anh sẽ gặp em ở đó hay em muốn anh đi cùng em?”
Cô cân nhắc hai phương án, cảm thấy rối bời. “Chẳng có lý gì lại phải mang theo cả hai cái xe, đúng không?” cuối cùng cô nói. “Sao chúng ta không gặp nhau ở đây vào khoảng mười một giờ và đi chung nhỉ?”
Anh gật đầu nhìn cô, không ai cử động. Cuối cùng, anh bước lùi lại một chút, phá giải bùa mê, và Amanda cảm thấy mình đang thở hắt ra. Cô không nhận ra mình nãy giờ vẫn đang nín thở.
Sau khi cô chui vào ghế trước xe, Dawson đóng cánh cửa lại sau lưng cô. Dáng hình anh nổi bật dưới ánh trời chiều, gần như khiến cô có cảm giác anh là người xa lạ. Đột nhiên cảm thấy ngượng nghịu, cô bèn khua tay trong ví tìm chìa khóa, nhận ra hai bàn tay mình đang run rẩy.
“Cảm ơn anh vì bữa trưa nhé,” cô nói.
“Lúc nào cũng sẵn lòng,” anh trả lời.
Liếc nhìn qua gương chiếu hậu lúc lái xe rời đi, cô thấy Dawson vẫn đang đứng đúng nơi cô đã tạm biệt anh, như thể đang hy vọng cô đổi ý mà quay xe trở lại. Cô cảm nhận được một điều gì đó đang quẫy lộn bên trong mình, một điều gì đó cô vẫn đang cố gắng phủ nhận.
Anh vẫn yêu cô, giờ cô đã chắc chắn về điều này, và nhận thức ấy khiến cô chếnh choáng. Cô biết điều này là sai lầm, và cô cố gắng xóa bỏ cảm xúc ấy, nhưng Dawson cùng quá khứ giữa họ một lần nữa lại đã bắt đầu bén rễ vào cô, và cô không thể phủ nhận một thực tế giản đơn rằng, lần đầu tiễn sau nhiều năm, cô mới có cảm giác cuối cùng mình cũng đã về nhà.
Dành Hết Cho Em Dành Hết Cho Em - Nicholas Sparks Dành Hết Cho Em