Cây Người epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 7
rong những năm qua đã nhiều lần Amy Parker định có con, nhưng rõ ràng điều đó không có ý định xảy ra.
- Đất đai ở đây cằn cỗi, - chị vừa nói, vừa cười.
Vì cả gia đình Quigley và O’Dowd đều không thấy một ai ra đời, và giờ đây gia đình Parker lại đang giả vờ muốn có một cuộc sống lứa đôi không con không cái. Họ tự động viên nhau rằng ngôi nhà ngăn nắp mà Stan cùng các cậu con trai nhà Quigley xây nên không phải là cái hộp nhốt chặt cuộc đời họ. Dĩ nhiên họ hãy còn trẻ nên sự khờ khạo của họ chưa lộ ra, trừ trong giây lát, và sẽ được bỏ qua như những giấc mơ. Dẫu hoàn cảnh bắt đầu buộc họ phải suy nghĩ, song vẫn còn lộn xộn, trì trệ trước cái mớ bòng bong của suy tư. Họ cũng cầu kinh, khá đều đặn, tùy thuộc vào lúc họ tin hay không tin. Họ yêu, đôi lúc đầy cảm hứng, thỉnh thoảng đầy hằn học. Có lẽ họ khao khát gặp nhau ít hơn trước, nâng niu những giây phút yên tĩnh, thậm chí những giây phút đau khổ đã qua. Thỉnh thoảng họ lượng thứ cho nhau.
- Chúng ta có thể sống như thế này, - Stan Parker nói. - Nhưng nếu em có con, sau này chúng có thể trách em về chuyện đó.
Như vậy đấy.
Amy Parker luôn là một thiếu phụ cần cù, thông minh, lúc quét bụi trên hàng hiên, lúc ngồi trên khúc gỗ bóc vỏ đậu. Nếu như trong lòng chị, cuộc sống có lúc dâng lên như những đợt sóng thì nó lại không cuộn trào ở nơi mà chị được tôn trọng và được yêu mến. Chỉ đôi lúc gương mặt chị nhìn như muốn nuốt lấy phong cảnh, hoặc đợi cho mái nhà bị vỡ toang, nhưng chỉ đôi lúc thôi. Vì vậy vợ chồng Parker vẫn được quý trọng ở vùng đó. Chẳng ai có thể đào nổi cái hố chôn cột như Stan Parker, hay đẵn cây, hay nếu cần đóng cả móng ngựa bằng những dụng cụ tự chế trong khoảng thời gian ngắn, dĩ nhiên là anh thừa hưởng từ người bố. Thỉnh thoảng, biết đâu trong đầu anh lại chẳng nảy ra một ý thơ hay hình ảnh Chúa, vì nào ai có để tâm tới chuyện đó đâu, hay đúng hơn không ý thức được mình đang làm chuyện ấy.
Giữa đường đến Bangalay có một nhà thờ đã được xây dựng để bà con vùng lân cận vẫn có thể đi lễ vào Chủ nhật. Một số đã đi lễ. Những câu cầu nguyện, rồi những bài thánh ca du dương vang lên. Ta không thể gọi đó là thờ phụng, mà chỉ coi đó là hành vi thanh nhã, ít nhất cũng đối với hầu hết mọi người. Amy Parker đã đi lễ nhà thờ vì lòng tôn kính những giây phút cao quý đối với sự giáo dục mà chị có được. Hơn nữa, chị thích hát một bài thánh ca buồn. Nếu chị đánh liều mà vượt quá, thì là bởi bờ vai xa cách của chồng. Vậy Stan mặc quần áo lễ đã nghĩ gì trong nhà thờ? Chị phân vân, xua ruồi khỏi mặt như xua đi nỗi tức giận thoáng hiện qua. Chị bực mình trước thể nghiệm cá nhân có trong anh, nó tinh vi hơn chính khát vọng của chị thể hiện qua những bài thánh ca buồn. Giọng chị trầm bổng pha chút khoái cảm. Chị có một chai nước hoa, nên mỗi khi đi lễ nhà thờ vào ngày Chủ nhật chị lại lắc lắc cái chai và vẩy lên áo, khiến mùi lông ngựa và bụi bặm trên người chị cũng thêm chút hương thơm. Khi đôi môi ướt của chị mấp máy hát, trông chị bóng bẩy, bản chất của chị không thể tranh cãi được. Nhưng ta không thể chỉ ra bất kỳ điều gì liên quan đến Stan.
Bản thân anh cũng không muốn nói gì. Anh lúng túng vì vợ đang nhìn mình, mà những lời cầu nguyện đòi hỏi quá nhiều. Cả thể xác anh mà anh phần nào thấy xấu hổ khiến anh phải quỳ xuống với một vẻ vụng về mà anh không cho là hạ mình. Song anh còn hạ mình hơn thế. Khi anh không vươn lên được tới mục đích tối cao của người cầu nguyện, anh thường xem xét mình, hoặc thớ gỗ trên ghế nhà thờ, thấy từng sai sót không có hy vọng sửa chữa. Tuy nhiên, cũng có những lúc sự thanh bình đến giữa tiếng ngựa nhay nhay hàm thiếc ngoài hàng rào, giữa một lời nào đó đột nhiên ngời sáng, giữa những con chim mang rơm về xây tổ dưới đầu hồi, giữa những lời mang bao hứa hẹn, hẳn phải là ân sủng của Thượng đế.
Vào thời điểm này trong cuộc đời hai vợ chồng Parker, cụ ông Quigley bên hàng xóm qua đời. Vào một buổi sáng sương giá, trên lối ra nhà vệ sinh, ông cụ ngã giữa đám cây chút chít, và nằm đấy mãi đến lúc con cái tìm thấy. Ông cụ đã chết cứng rồi. Các bà thạo việc này đã khâm liệm ông cụ, rồi đưa ông cụ lên xe ngựa, gập ghềnh, đến ngôi mộ trong mảnh đất cỏ mọc cao vút, nơi nghĩa trang của giáo dân ở Bangalay. Cụ bà lúc này chỉ có thể xác ở đó, cắm bó hoa cúc vạn thọ vào một cái bình, mà những con dê đã tha đi ngay trong ngày hôm ấy, mong sao ông cụ thoát khỏi màn thống thiết cuối cùng của những bông hoa màu vàng nâu này.
Cùng tối hôm đó, những người đưa đám trở về khu nhà mình, và mọi người đều quên cụ ông Quigley, trừ cụ bà - già và ngớ ngẩn, cô con gái - xấu xí nhưng dịu dàng, cùng Stan và Amy Parker đôi lúc bâng khuâng suy nghĩ. Họ nằm trong bóng tối, trong vòng tay nhau, cùng chống lại khả năng có thể chết. Hơi thở của họ quyện vào nhau, và tinh thần của họ được củng cố. Hai bàn tay họ buộc thể xác của nhau phải sống một cuộc sống tạm bợ.
Ngoài sự khơi gợi về cái chết này, cuộc sống của họ đã vững như bàn thạch. Giờ đây họ đã có một đàn bò, hai con bê cái và một con bò đực béo tốt. Vợ chồng Parker đang chuyển sang nuôi bò. Ánh đèn vàng vọt thắp sáng những buổi mai. Hơi thở trắng như bạc của họ phả ra phía trước thành một đám mây. Người họ cứng quẹo như cái cán xô đựng sữa kêu lanh canh bên mình khi họ đi qua cái sân mờ sương đến nơi vắt sữa.
Những lúc khó khăn Stan Parker làm phu làm đường ở Bangalay. Anh về nhà vào những ngày cuối tuần. Lúc đó, anh im lặng hơn, không nói một lời, khắc nghiệt hơn, bụi bậm đã bám vào những đường nét trên mặt anh. Nhưng họ cũng dành dụm được chút ít. Amy Parker vắt sữa bò. Thường sau đó chị mang sữa đến quanh quẩn những nơi ở phía bắc Bangalay, nơi dân sống ổn định hơn.
Trong nhiều tháng liền Stan làm việc cho ông Armstrong và kiếm được khá tiền. Ông Armstrong là một chủ hàng thịt giàu có đã xây được một căn nhà ở nông thôn. Ông ta làm ăn phát đạt, đã đến lúc trở thành quý phái và củng cố địa vị quan trọng của mình trong ngôi nhà gạch đỏ. Ông ta đã xây ngôi nhà nông thôn của mình cách nhà Parker có khoảng một dặm, giữa những khu vườn và mê cung những hàng rào nguyệt quế và những cây cảnh. Vài cửa sổ có lắp kính màu. Còn có một bức tượng người đàn bà bằng đá khiêm tốn đưa tay che tấm thân lõa lồ.
Stan Parker làm một thời gian trong vườn nhà ông Armstrong, và nói chung khắp mọi nơi. Anh chẻ củi, mổ gà, đốt lá, nhổ cỏ trên những luống hoa hồng hình bầu dục và những luống cây chuối hoa hình chữ nhật, trang trí khu vườn giống như một công viên lòe loẹt đến là hời hợt. Nhưng người bán thịt rất hài lòng. Ông ta đã đạt được sự tráng lệ huy hoàng. Ông ta đi xà cạp và trở thành nhà quý phái nơi thôn dã. Ông ta nói cười vui vẻ, thân ái với những người phục vụ, để tiền vào túi khiến Stan Parker phải cảm thấy xấu hổ, nhưng những người khác đã lợi dụng sự tin cậy đó, trở thành lũ trộm cắp hoặc xấc láo. Song, người bán thịt cảm thấy đôi lúc có thể dùng tiền mua được cái đặc quyền bị lừa gạt hoặc bị tổn thương. Khi ông ta thấy Stan Parker không phản ứng theo cách đó, bản thân ông Armstrong thấy lúng túng, hắng giọng nhiều lần và nhìn ngược nhìn xuôi. Nhưng ông ta tôn trọng Parker và nhẽ ra trả công cho anh nhiều hơn nếu như ông dám vượt qua cái giới hạn vốn đã rộng rãi kia.
Khi ông ta không thuê Stan Parker nữa và anh đã trở về làm việc tại trang trại của mình, ông Armstrong đôi lúc thích cưỡi ngựa đến chỗ anh, ngồi nghiêng trên mình con ngựa mập mạp, thường bảo cách cắt lúa hay đánh đống cỏ linh lăng cho người vốn là kẻ làm của ông ta, đồng thời bảo cả ông già người Đức là Fritz đến giúp việc cho vợ chồng Parker dạo ấy. Sau đó ông Armstrong rất hài lòng. Bộ mặt nhẵn nhụi và đôi xà cạp nom rạng rỡ. Qua mép lá, ông ta nheo mắt nhìn khắp khu đất, và thái độ của ông ta biểu thị một sự chiếu cố và đồng tình với người mà sự tiến bộ nhỏ nhoi của anh ta sẽ không bao giờ sánh kịp ông. Vào những dịp này ông ta đặc biệt hạ cố và hóm hỉnh mỉa mai với ông già người Đức, một phần là vì ông già là người ngoại quốc và một phần là vì vị trí của ông cụ ở nhà Parker là cái gì đó mà ông chủ cửa hàng thịt không sao đánh giá chính xác được.
Vào một tối, bác Fritz đến mang theo bị quần áo và được cho ngủ nhờ ở nhà ngang, trước đấy là túp lều của vợ chồng Parker. Lúc đó bác bị ốm. Bụng sôi khó chịu, vì vậy bác nán lại trong túp lều. Bác lấy cám trộn mật để chữa chứng đau bụng - mà không bao giờ rõ đó là căn bệnh gì - nhưng bác không ngừng cập nhật bệnh trạng. Vợ chồng Parker thường cho bác một, hai đồng, cùng một tảng thịt ức luộc. Họ thích đôi mắt trong sáng của bác, có màu xanh của mắt người Đức và chấp nhận ngay thái độ bền bỉ kiên trì của bác.
- Có cái ghế đây này, bác Fritz ạ, - Amy Parker nói. - Nó hơi lung lay, nhưng bác có thể chữa lại mà dùng.
Bác Fritz làm nhiều thứ. Bác giúp vắt sữa, tráng nước nóng những cái can to và đi đưa sữa cho các nhà. Hầu như bao giờ ngọn đèn của bác cũng thắp sáng đầu tiên bên kia sân. Và tối đến bác mang ghế ra cửa ngồi giữa đám hoa hướng dương nở to mà bác đã trồng, rồi nhằn hạt được phơi khô và phun mảnh vỏ những hạt đen nhọn hoắt.
Mọi người thường bảo bác chẳng khác gì một con vẹt chết dẫm.
Rồi họ cười vào hành động ngớ ngẩn nhưng giản dị đang diễn ra trước mắt; và chẳng hề muốn chúng xảy ra, vì tất cả mọi vật tồn tại hay xảy ra bên ngoài lĩnh vực kinh nghiệm của họ đều không có quyền được diễn ra.
Nhưng ông già người Đức nói:
- Dầu của những hạt này rất tốt cho sức khỏe.
Bác không hề bận tâm. Chẳng ai có thể thử thách lòng tin của bác. Vì vậy, họ bỏ đi, lắc đầu, miệng trễ ra khinh bỉ những vỏ hạt hướng dương.
Bác Fritz đến chẳng được bao lâu thì trời đổ mưa. Chưa bao giờ mưa đến thế. Thoạt đầu, mưa cũng bình thường, vẫn những đám mây cuồn cuộn như thường ngày, vẫn có những lúc trời hửng nắng và những tấm chăn được đem ra phơi và những con bò, không còn chịu lép vế trước thời tiết, đang đua nhau gặm cỏ non lạnh buốt.
- Trời sẽ mưa to, - bác Fritz bảo.
- Đúng, đúng là sắp mưa rồi - Stan Parker nói, giọng hời hợt, vì anh vẫn chưa thấy bận tâm đến.
Anh đạp qua một vũng bùn mà đi. Nhưng ông già người Đức lắc đầu lo ngại sẽ còn những cơn mưa khác nữa. Đàn bò giương mắt mờ đục nhìn vào cặp mắt trong suốt của bác.
Khi mưa thật sự bắt đầu, sau tuần trăng mật của những trận mưa rào và những mảnh trời xanh, cuộc sống của người và vật như vừa nhất thời vừa vô nghĩa dưới những đợt mưa liên tục không ngớt, mặc dù ở giai đoạn đầu của trận hồng thủy mưa vẫn là mưa, thịt da coi nó là nước và tinh thần càu nhàu rằng bao giờ nó mới kết thúc.
Song thật là tồi tệ. Ngôi nhà không còn là ngôi nhà; chỉ còn trơ mái nhọn hoắt đội mưa xối xả. Những người ở trong nhà chẳng có việc gì làm ngoài ngồi tránh về một bên, mặt vàng võ, nghi ngờ từng cử chỉ của nhau khi nghe tiếng mưa rơi lanh lảnh như sắt thép. Mưa vẫn rơi. Mưa rơi trong lúc họ ngủ. Nó trôi những cơn mơ của người đang say giấc, dâng lên nỗi sợ hãi và bực bội, rồi để họ bồng bềnh trên mặt nước xám của giấc ngủ.
- Này Amy, - Stan Parker nói, khi tỉnh dậy trong đêm, - trong bếp có một chỗ dột mới đấy.
Có tiếng nước rơi vào trong xô họ đặt ở dưới chỗ dột đầu tiên, giờ lại nghe thấy tiếng mưa rơi trên gỗ. Mưa đang tràn vào nhà, lúc đầu còn ít, sau ào ào.
- Còn một vài cái chậu đấy, - Amy Parker cười, nằm trên cái giường không được che chở, tựa vào chồng để hy vọng có thể chống được mưa, nhưng trong bụng không tin lắm.
- Đặt cái xô sắt cũ móp mà em định vứt đi vào đấy, anh Stan ạ. May quá, mình lại không vứt đi. Nó cũng chứa được ối nước đấy. Để vào đi, anh.
Chị nghe thấy tiếng chân anh trên sàn, một, hai bước, trong lòng thấy dễ chịu, nhưng chẳng được mấy chốc, vì lại nghe thấy tiếng dột ngay.
Chính mưa đã nắm bắt lấy cuộc đời họ, và bỏ rơi bản thân họ. Thân hình họ, dưới những cái bao che mưa, bước qua sân để làm những công việc cần thiết trong ngày. Như thường lệ tay họ trơn tuột giữa những núm vú bò, cố vắt sữa, nhưng không được mấy, dòng sữa trắng nhợt bên vẻ lộng lẫy của cơn mưa chắc hạt.
- Ở Wullunya nước sông dâng rất cao - Stan Parker nói vào cái hôm anh từ thành phố trở về; bốn chân mệt mỏi, không chút lông của con ngựa ngâm trong nước, những chiếc dây da phồng lên chỗ cái khóa. - China Flat bị cô lập rồi.
- Chúng mình đang ở trên đồi, - người vợ nói.
Chị cố vin vào ngọn đồi của mình, lòng thấy đầy ấm áp và tin tưởng. Chị giơ bàn là sát lên má thử xem đủ nóng chưa. Đó là hôm là quần áo. Chị không nghe thấy nước sông Wullunya.
- Đúng, - người chồng nói. - Chúng ta ở trên đồi. Thế còn những người khốn khổ ở China Flat thì sao?
- Em không muốn điều bất hạnh cho một ai ở China Flat cả, - người vợ nói, giữa làn hơi ấm khi chị đưa mạnh chiếc bàn là trên tấm khăn trải giường. - Em chỉ muốn nói điều gì đó. Chúng ta ở trên đồi. Em quên không biết ông Armstrong nói là cao mấy trăm bộ nhỉ. Em không bao giờ có thể nhớ được các con số.
Rồi chị lại dấn cả sức nặng của người và của bàn là lên tấm chăn đang bốc hơi. Hay đè lên cơn mưa. Điều đó có nghĩa là như vậy. Mọi hành động và mọi sự việc đều chấm dứt đột ngột với cơn mưa. Mưa vẫn rơi, và sẽ còn rơi. Nước chảy rẽ ra bên trên đầu họ, chỗ đốc mái. Nước rẽ và chảy như suối, nhưng chính nhờ một miếng sắt, cái bàn là, mà họ đã sống được dưới màn mưa đó và oán trách ý kiến của nhau.
- Anh đói, Amy ạ, - người chồng nói. - Có gì ăn không?
Anh đứng nhìn qua cửa sổ vào cơn mưa vẫn rơi đều đặn.
- Có, anh ạ, - chị nói - có miếng thịt muối đấy. Và một miếng bánh nhân táo nữa, nhưng đợi em làm xong cái này đã. Rồi em lấy cho.
Trong hơi ấm dễ chịu bốc lên từ tấm chăn và gian bếp ấm áp, người thiếu phụ lại một lần nữa chiếm hữu chồng; hừm, nếu vợ chồng chị mà có con thì chị cũng không giữ chúng chặt hơn thế được. Vì vậy chị hài lòng.
Nhưng người chồng nhìn ra ngoài mưa. Nếu như chị hiểu thì anh đã thoát khỏi chị rồi. Anh đang đứng trên một mũi đất nhô lên chỗ trước đây là dòng sông ở Wullunya, nơi anh chưa đến nhưng có biết. Anh biết bà cụ mặc tạp dề và hai, ba cô thiếu nữ, cùng cậu bé cao lênh khênh, đàn cừu non, những con bò và những con gà mái mắt vàng, tất cả đều có cùng biểu cảm về tai họa, tụ tập ở trên cù lao cuối cùng. Vì đó là cái mũi đất của họ đã biến thành. Thế rồi cái sừng sáng bóng của đàn bò bơi và chìm trong dòng nước vàng cuồn cuộn, trông không còn là dòng sông nữa. Không sao có thể phân biệt được tiếng kêu gào của những người đàn ông với tiếng rống và tiếng be be của đàn gia súc, trừ có tiếng bà cụ phản kháng Thượng Đế, miệng trơ lợi tu nước ừng ực. Nhưng các cánh tay của những người đàn ông, giống như sừng bò, gần như không phản được gì khi bị nhấn chìm trong cơn nước lũ màu vàng đã cướp mất cuộc sống khỏi tay họ.
- Sao, - Amy Parker nói khi mang lại một đĩa thịt lợn muối ngon lành và đặt lên bàn ăn, - sao anh không lại ăn đi? Từ lúc em và bác Fritz uống tới giờ trà đã ngấm rồi đấy, anh vẫn thích trà đặc mà.
- Đúng vậy, - anh nói.
Người chồng ngồi xuống bàn, ăn đĩa thịt vợ mang lại.
Chị ngồi sát vào anh để hơi ấm lan tỏa sang người anh, vì rõ ràng anh đang bị lạnh, và anh ngẩng lên nhìn chị, đôi mắt mỉm cười, đó chính là điều chị mong muốn.
Chắc mưa làm anh ấy bất an, - chị nhủ, - chúng ta lúc nào cũng có chuyện để nói, hoặc hầu như thế, toàn những thứ đâu đâu.
Chị nhìn ra mưa và tạm thời thấy bình tâm vì đã coi mưa là lý do đơn giản giải thích cho hành vi của họ.
Nhưng mưa vẫn đổ xuống. Không còn chỗ nào để giấu cái đầu và nói: Này có tôi đây.
Trận mưa đang tuôn ra từ nơi cổ tay của Stan Parker khi anh đi làm việc giờ đây không còn mang tính riêng tư nữa. Đã bao tuần nay rồi, còn hơn thế nữa. Nếu khi ông già người Đức đến nói rằng bò không chịu ăn, chúng chỉ ngửi cỏ, mà không động đến, vì lớp đất phù sa đã bị cuốn trôi hết, chắc có lẽ Stan Parker không muốn cảm thấy rằng đây là một vấn đề hoặc thậm chí những con bò đó là của anh. Ý thức trách nhiệm đã bị cuốn phăng khỏi anh mấy tuần nay, nên nếu anh có hành động gì thì cũng chỉ là làm cho người khác.
Rồi có tin báo rằng đang cần những người tình nguyện ở Wullunya để chuyển đồ tiếp tế cho những người bị cắt đứt liên lạc, di chuyển trẻ em và phụ nữ, và giúp đỡ những người cùng khốn. Vì vậy Stan Parker cùng O’Dowd và những người đàn ông khác ở khu vực đã đến sông để đọ sức, đàm tiếu, có thể còn bí tỉ nữa, nhưng dù thế nào đi nữa thì cũng được dòng sông cuồn cuộn giải thoát. Đám đàn ông đi xuống phía sông, vừa hát vừa cười trên một chiếc xe không mui của ông già Peabody, cùng một chai rượu do O’Dowd mang theo.
Nhưng Stan Parker im lặng, vì anh chẳng có gì để nói. Anh ngồi, bó chặt quanh người tấm áo khoác trong mưa, và đợi được nhìn thấy lần đầu tiên con sông hùng vĩ.
Cuối cùng đã đến đó.
Ồ, tất cả mọi người trên xe đều nói, chợt im tiếng.
Cả một khối vàng mênh mông gợn sóng trong màn mưa đục phơi ra trước mắt họ nơi trước đây là đồng bằng. Xung quanh toàn nước là nước. Nước tràn vào các cửa sổ và xoáy dưới chân tháp chuông. Chim chóc đậu trên những ngọn cây chết ngập làm thành những chong chóng chỉ hướng gió.
Khi chiếc xe đến thị trấn Wullunya, viên Thị trưởng trong bộ áo mưa vải dầu đang điều hành công việc, còn cánh phụ nữ choàng áo mưa kín người đang phân phát xúp và bánh mì trong Trường Mỹ thuật, những người tình nguyện được đưa đến một con thuyền đáy bằng, và sau khi nghe giải thích về địa lý của địa phương, được lái theo hướng Đồi Đỏ nơi người ta cho là có hai trang trại bị ngờ là mất liên lạc.
Cảnh sông nước thật yên tĩnh. Những người chèo thuyền không nói gì vì họ đã nhiễm cái tính ít nói và vì cơ bắp của họ còn ngỡ ngàng trước công việc. Hơi thở đứt đoạn của họ nghe rõ mồn một giữa tiếng mưa rít trên mặt nước, tim họ đập thình thịch theo âm thanh đơn điệu và sự vững chãi của những tay chèo.
- Chúng ta đang đi đâu thế, Mick? - Ossie Peabody hỏi.
- Đâu mà chẳng vậy, - O’Dowd nói, hơi thở của anh ta như tiếng kim loại rót vào không khí.
Les Docker đánh rắm khiến mọi người cười vang.
Họ cảm thấy dễ chịu hơn khi chèo thuyền qua vùng trước đây là những cánh đồng vùng Illarega và cành lá sum suê khía vào mạng sườn căng ra của họ. Những dòng nước ào ào trôi cùng những xoáy nước vàng phù sa đùa giỡn với con thuyền nhỏ chòng chành. Nhưng những người đó vẫn câm lặng chèo chống. Rồi sự việc bỗng trở nên kỳ lạ khi chiếc thuyền trôi băng băng trên dòng nước lũ. Mọi người thấy kỳ lạ, trừ Stan Parker lúc này tự thấy anh có thể đón chờ mọi thứ chứ không nhất thiết phải là bàn tay của Thị trưởng Wullunya chỉ hướng cho con thuyền đáy bằng. Và khi anh chèo, chấp nhận sự kỳ lạ và không thể tránh khỏi của tình thế hiện tại mà anh không sao giải thích nổi - thực ra anh hẳn đã mỉm cười lúng túng với ông thanh tra - cả thế giới bị nhấn chìm một nửa đã trở nên quen thuộc như chính những suy nghĩ của anh. Anh nhớ đến những điều không bao giờ anh kể ra, song cũng không bao giờ quên. Anh nhớ đến khuôn mặt mẹ mình trước khi an táng, khi cái sọ phơi bày ra điều mà đôi mắt lâu nay giấu kín, nỗi sợ hãi rằng sự bền vững của sự vật quanh bà không được đảm bảo. Nhưng trong cái thế giới mênh mang nước chảy, những cây trôi băng băng, rõ ràng là sự bền vững không thể được đảm bảo. Người chèo thuyền khua mái. Anh lắng nghe hơi thở của họ, nhưng từ xa. Khi chiếc thuyền lướt dưới hàng cây ngập nước, tiếng lá cây xào xạc vào làn da ướt của anh, xem ra gần gũi với anh hơn.
Bất thình lình Ossie Peabody lớn tiếng bảo có một vật tròn trôi bồng bềnh va vào tổ kiến phía bên phải. Họ liền cho thuyền lướt nhẹ theo hướng đó, rồi lật ngửa cái xác căng như cao su trong bộ quần áo ngâm nước đen ngòm, mặt trơn nhẵn bị cá rỉa.
Chao ôi, những người chèo thuyền kêu lên, khi đặt cái xác xuống dưới đáy thuyền.
Làn da đầy sức sống của họ không tin vào cái chết. Những lỗ mũi đã trở nên trắng nhợt và cứng queo không chấp nhận nó, giống như lỗ mũi các con vật đánh hơi thấy mùi trong lòng đất.
Stan Parker cúi người xuống lấy cái túi phủ lên khuôn mặt cao su đó. Rồi tất cả đều hắng giọng, có người khạc nhổ, người khác bắt chước theo, sau đó họ tiếp tục chèo.
Trong khi họ chèo, mặt nước yên tĩnh bị khuấy động, những ngôi nhà với chủ nhân an toàn bên trong lần lượt lướt qua. Có cái ghế không người ngồi, có một mẩu pho mát gặm nham nhở, rồi những lá thư phủ đầy nhện, một chiếc đệm ngồi trong bụi mâm xôi, một chiếc mũ có gài lông ngập nước, một cái bô của trẻ con, một cuốn Kinh Thánh, mở đến chương Ezekiel. Mọi thứ đến rồi đi. Chỉ có con thuyền là yên tại chỗ. Và cả ngôi nhà mà họ suýt đụng phải.
- Ê! - O’Dowd thò đầu nhìn sát vào cửa sổ và gọi to. - Có ai ở nhà không? Người đưa thư, và cả đội cứu hỏa đến đây này.
Mọi người cười rộ lên, vì lúc này họ đều đồng tâm nhất trí trong mọi việc.
Trong ngôi nhà yên tĩnh, bàn đã dọn sẵn cho bữa ăn. Một con sên bò qua khăn trải bàn. Những chiếc ghế đứng xếp quanh trong một vũng nước tràn bừa vào cửa để ngỏ. Nước ít ra cũng biết liên kết. Chỉ có con người là không thấy đâu. Trong hoàn cảnh đó, lúc con thuyền còn quanh quẩn bên ngoài ngôi nhà, O’Dowd thấy mình có thể thò tay vào, liền với lấy một chai rượu ở trên giá, làm một tợp cho máu lưu thông, thậm chí còn để vào trong thuyền nữa.
Có người bảo làm thế là ăn trộm.
- Không phải, - O’Dowd nói, miệng hãy còn ươn ướt. - Mọi người nhìn thấy rõ như ban ngày, cái chai chẳng còn giá trị gì, bỏ lại trên giá, gần như vứt đi rồi.
Mọi người chẳng còn hơi đâu mà trả lời. Ở bên cạnh chậu rửa, trong căn phòng lầy nhầy bùn, một bộ răng giả cắn chặt.
Con thuyền lại lướt đi. Lúc này, họ chỉ còn cánh tay và xương sườn, thân thể đã để lại phía sau. Cũng như dân chúng ở đây đã phó mặc cửa nhà cho nước lũ, chẳng khác gì những người chèo thuyền chỉ còn lại vận động và hơi thở.
Ở một chỗ Stan Parker thấy thân hình một ông già có râu bị mắc kẹt vào chạc cây. Anh không nói cho mọi người biết. Anh tiếp tục chèo. Con thuyền thô bạo cũng làm ngơ. Chẳng mấy chốc vì mải chèo thuyền và vì trời mưa, anh quên ngay ông lão đã chết, nằm ngửa mặt trên cây, ánh mắt hầu như tuyệt vọng.
Từ căn nhà ở nơi trước đây là gò cao nhưng nay là đảo, một người phụ nữ nhỏ bé, nhanh nhẹn có búi tóc dày chạy vụt xuống mép nước.
- Tôi cho rằng chẳng bao giờ các ông đến, - Chị ta nói to. - Tôi cứ đợi, đợi mãi. Bố tôi đã bị cuốn đi cùng một chiếc thuyền nhỏ mỏng manh do lũ trẻ làm vào mùa hè. Tôi có nói: “Bố điên rồi à, bố đừng làm thế.” Nhưng bố tôi đã nhìn thấy một con cừu đực mắc kẹt ở trên cây.
Chị ta đứng trên bờ, trong bọt nước sủi ngầu và sát ngay những cành cây đâm lởm chởm. Cái miệng háo hức của chị ta đóng váng trắng.
- Có ai trông thấy bố tôi không? - Chị ta hỏi. - Một ông già râu bạc ấy mà?
Nhưng không ai nhìn thấy cả.
- Thôi đành vậy, tôi biết thế nào cũng có người ở thành phố đến. Tôi đã chuẩn bị các thứ xong xuôi.
Nói xong, chị ta liền chạy đi.
- Thế còn bố tôi? - Chị ta dừng lại trên đường, chân nhón lên.
Mọi người trả lời có lẽ ông cụ tạm trú ở đâu đó.
- Ừ, đúng đấy, - chị ta nói. - Hy vọng là như vậy. Có một cái máy, các ông ạ. Tôi phải mang theo một cái máy.
- Hả, cái gì? - Les Docker hỏi.
- À, cái máy khâu, - chị ta trả lời.
Thế là chị kéo từ hàng hiên ra, cẳng chân va vào bàn đạp xước cả da.
Tôi chỉ lo có ba thứ, - người đàn bà bé nhỏ nói. - Hai con dê và một cái máy khâu. Dê thì chẳng còn nữa.
- Máy khâu cũng vậy thôi chị ạ. Nếu không, chúng ta cùng chìm xuống đáy, - O’Dowd nói.
- Thế thôi tôi ở lại vậy, - người đàn bà nói, tên chị ta là Wilson.
Chị ta khóc òa lên, tay bấu vào đầu máy khâu. Họ phải lôi chị ta xuống thuyền, cứ như chị ta là cái giỏ mây của chị, có đai buộc quanh trong đó nhồi đủ thứ.
- Các ông không nên làm thế, - chị ta kêu lên. - Tôi không bao giờ nguôi được. Dê rồi, bây giờ đến cái máy khâu.
- Á, - chị ta khẽ nói, khi va phải cái túi ở dưới đáy thuyền. - Gì thế này? Không phải xác người đấy chứ!
Xác người đấy, họ nói, một anh chàng tội nghiệp nào đó mà họ nhặt được ở dưới nước lên.
- Tôi chưa bao giờ nhìn thấy người chết, - chị ta trầm ngâm nói. - Thậm chí cả khi mẹ tôi chết. Lúc đó tôi ở Muswellbrook cùng với người bà con. Chính họ cho tôi cái máy khâu đấy.
Chị ta lại khóc, trộn lẫn với mưa.
Sự có mặt của người đàn bà lúc đang chèo thuyền khiến Stan Parker thoát ra khỏi những suy tư về cái chết và sông nước, và trở về với thực tại. Anh cắn môi, bề ngoài nom như vì ráng sức, nhưng thực tế là vì anh không thể nhắc đến người bố đã chết của chị. Rồi ra anh sẽ báo, anh tự nhủ, nhưng sau này chứ không thể bây giờ. Anh tiếp tục chèo vì tình nghĩa với những người đang chèo và vì lòng trắc ẩn đối với người phụ nữ kia. Chị ta mặc chiếc áo sơ mi nâu, có điểm những cành hoa nhỏ đỏ tía. Stan Parker chợt nhớ đến cái hôm nướng bánh mì, anh nhìn thấy những ổ bánh phồng lên, trong khuôn sắt tây, và đôi má hồng của vợ khi chị xăm những ổ bánh. Cả ngày bận chèo thuyền anh không hề nghĩ tới vợ, nhưng bây giờ, nhớ đến, anh cảm thấy vui mừng.
Tối hôm đó, anh có nhắn qua ông già Peabody sắp trở về thị trấn rằng anh sẽ nán lại đôi ba ngày để xem xem có thể giúp gì được không.
Đội quân tình nguyện từ vùng đồi núi đã nghỉ đêm tại một chuồng ngựa, nằm trên nệm rơm còn mới đâm cả vào cổ họ, và tiếng vó ngựa nện thình thịch, cùng tiếng hí khẽ, nổi lên thâu đêm suốt từ chuồng này sang chuồng kia và suốt cả giấc ngủ của họ. O’Dowd đã tợp được một chút rượu ở quán Cây sồi, giờ nằm ngoài trời, dưới mưa. Anh ta nói muốn hít thở không khí trong lành. Nhưng mọi người đã xốc nách và ôm chân mang anh ta vào nhà. Rồi lại đến giấc ngủ say nồng nàn và những con ngựa cựa mình trong đêm mịn như nhung. Ta quên cái mưa trong khu chuồng ngựa.
Có lần trong đêm, Stan Parker tỉnh dậy và nhớ rằng mình đã không nói về người cha đã chết của người phụ nữ nhỏ bé, ngay cả lúc bạn bè đưa chị ta cùng cái giỏ mây thoát ra khỏi cảnh lũ lụt. Anh không sao mở miệng nổi. Có những điều ta không thể nói ra được. Thế là anh lăn ra ngủ một cách thanh thản, người lún sâu trong đống rơm ấm vào đêm mưa.
Trời vẫn mưa.
Đó là thảm họa toàn quốc, chị O’Dowd nói thế, các trang trại bị cuốn sạch, còn trơ lại những linh hồn đáng thương không nơi nương tựa, còn bà vợ ngài Thống đốc đi quyên góp khắp nơi, các bà đi bán những đồ trang sức rẻ tiền và những thứ khác mà họ có vô khối vì những kẻ bần cùng và mồ côi không có chút gì trong bụng, thậm chí nếu như các chính trị gia có đi thanh tra cảnh tượng đó, dĩ nhiên trên một chiếc thuyền, thao thao diễn thuyết hứa hẹn sẽ cho phụ cấp và gì gì nữa, thì nên cho một khoanh bánh mì ngon và một đôi giày ấm còn hơn.
- Vì, - chị O’Dowd nói, - ba hoa chẳng bao giờ giúp ích cho cái bụng cả, trừ để khoe mẽ, mà lời nói cũng sẽ chẳng che đậy được nổi cái mông đít, ngay cả mông đít một đứa con hoang.
Nói xong chị ta vấn bộ tóc xõa lên, và cả nước mưa lẫn bên trong.
Amy Parker nằm trơ trọi một mình trên giường đã ba đêm nay, trằn trọc trở mình lúc sang bên chỗ ấm, lúc sang bên chỗ lạnh, hai bàn chân xoa vào nhau, nghe tiếng mưa tí tách từ trần bếp rơi vào chậu và thùng, miệng nói:
- Tôi chán ngấy cơn mưa khốn kiếp này lắm rồi.
- Này chị Parker, - chị O’Dowd cất giọng ngọt ngào, - hay chúng mình đi xem lụt đi?
- Đi xa thế ấy à? - Amy Parker nói. - Tôi đã bao giờ đến Wullunya đâu.
- Ồ, chỗ đó hay lắm, - chị O’Dowd nói. - Có bốn quán rượu và một cối xay bột mì. Có lần cả một đoàn xiếc về biểu diễn mà bọn tôi đã xem ở trong một cái lều đấy. Ồ, chẳng xa mấy đâu. Có thể mang theo thức ăn. Đi chơi vui lắm. Tội gì phải chôn chân ở đây.
Bụi hồng bên hàng hiên nhà Parker, cây hồng mà họ đánh từ chỗ trồng lúc ban đầu ở phía trước lều, nay trông đến sợ. Mưa xối xả lên những cành cây cứng queo và chảy tẽ ra giữa những gai đen. Những bông hồng chết ngả màu nâu nằm rữa trong mưa.
- Ở đây chẳng còn gì gọi là cuộc sống nữa, - Amy Parker nói, - lông bông quanh quẩn, đợi mưa tạnh.
- Giày thì mốc meo, - chị O’Dowd nói, - trong khi chị cứ ngồi một chỗ gỡ bắp cải.
- Có thể chúng ta sẽ gặp họ cũng nên, - Amy Parker nói.
- Đó là cái chắc, - chị O’Dowd nói, - họ sẽ là những người quan trọng, tất cả những người tình nguyện như họ. Bia uống tha hồ, tôi cược với chị, để thưởng công đã vớt bao linh hồn khốn khổ.
Người thiếu phụ lại da diết nhớ chồng, là người có khuôn mặt can đảm nhất. Chị lại thấy anh ngồi trên chiếc xe của Peabody, mắt không nhìn vào đâu cả; anh đâu có phải dành cho chị, mà cho cánh đàn ông đã phóng xe cùng nhau bỏ đi, cứ như họ thấy ngượng với đám đàn bà.
- Ối dào, chẳng thành vấn đề nữa, - chị nói, vẻ hy vọng sẽ được cứu thoát, - miễn là tôi về kịp để vắt sữa.
- Thế nếu không về kịp thì đã sao, có thiệt gì cho cái lão người Đức già kia chỉ ăn thủng nồi và tuột quần ngủ trong lều, chẳng lẽ lão không vắt được thêm tý sữa và đi giao sữa hay sao?
Chẳng có gì thêm để nói.
Hai người đang rong ruổi xuôi theo con đường đất đỏ đến Wullunya trên chiếc xe có lò xo của O’Dowd, bánh xe lao qua nước bắn tung tóe. Con ngựa hất cái bờm mỏng đập cả vào mặt như thể nó muốn làm thế. Dẫu sao mới đi chưa bao lâu nên xương cốt của nó hãy còn dẻo dai. Thậm chí nó còn phi khá là hớn hở.
- Trong cái gánh xiếc mà tôi kể cho chị nghe ấy, - chị O’Dowd nói, - có một phụ nữ nhảy trên mông hai con ngựa trắng, từ con này sang con kia, qua một cái vòng, có ban nhạc chơi rất hay. Ôi, tôi thích xiếc lắm, để thay đổi mà, ông xã tôi cũng thích, khi anh ấy còn tỉnh táo. Ừ, cái gánh xiếc mà tôi kể cho chị nghe ấy, bọn tôi chỉ trả có ba xu, ngồi trên bãi cỏ - hình như ngồi trên cỏ thì phải, được giẫm mịn lắm - bọn tôi ngồi ăn bánh, hồi đó anh ấy rất bạo. Nói khí không phải, anh ấy uống không đến một vại đâu, cùng lắm là hai. - Chị có biết anh ấy ra sao không, anh ấy lại uống cả ở quán Cây sồi đấy, hay là quán Chùm Nho? Không sao. Đấy, anh ấy lại vén quần lên, ra sức thúc cho xe chạy, còn tôi bám chặt lấy cánh tay anh ấy. “Giữ chặt lấy, anh là kẻ bất trị lắm, anh xem xiếc thế không đủ sao? Cả hề nữa?” Tôi nói. “Thế cả những người nhào lộn nữa? Nếu những người đó tình cờ gẫy tay, chân, đấy chính là nghiệp của họ. Nhưng em không trả ba xu, anh O’Dowd ạ, để xem chồng em tan ra từng mảnh đâu.” Ôi, nhưng tôi đã kể cho chị nghe đấy, khủng khiếp lắm, chị Parker ạ, mà tôi cũng là người phụ nữ biết điều, không bao giờ gây gổ chỗ đông người. Dầu sao họ chơi nhạc hay lắm. Để phân tán sự chú ý mà. Rồi họ cho cô gái Nam Mỹ lên đi trên dây. Chị tưởng tượng xem, cô ta treo người từ trên trần bằng một ngón chân, miệng cô ta ngậm một lồng chim. “Nào” tôi nói với con người ngạo mạn đó, “nhìn kìa, chúng ta mất tiền để xem cái đó đấy,” nhưng anh ấy đã quá say, chị Parker ạ, lấy sức đâu mà nhìn lên trần khi không còn đủ sức để điều khiển mình trên đất. Sau đó, anh ấy ngã vật ra, còn tôi quạt lấy quạt để đuổi ruồi khỏi mặt anh ấy, trong lúc tôi hưởng nốt đồng tiền tôi bỏ ra. Dĩ nhiên gánh xiếc ấy hay lắm, tôi không bao giờ quên được mùi voi cùng những con khỉ vào đêm hôm ấy.
Chị O’Dowd đánh xe đến Wullunya, chỉ huy cả quá khứ và hiện tại, vụt roi vun vút vào cảnh quan chung quanh.
Nhưng Amy Parker, người bị chỉ huy, im lặng suốt dọc đường trước những lời ba hoa của chị bạn hàng xóm. Trông chị nhếch nhác, khoác cái áo làm bằng những bao túi cho đỡ ướt. Dưới những cái túi ướt đó, chị nắm chặt bàn tay bồn chồn xúc động. Roi da đập chan chát. Chiếc xe chồm lên đung đưa. Những giọt mưa treo trên hàng rào dây kẽm lướt qua. Bầu trời vần vũ, chốc lát hé một mảng xanh, nhưng loạng choạng, chắc hẳn sẽ làm cho chuồng chim rơi.
Vào cái giây phút có ánh nắng sặc sỡ xuyên xuống như những lưỡi gươm dữ dội, sườn núi trang nghiêm ngân rào rào những giọt mưa hối cải. Một dòng nước màu vàng chảy róc rách khắp cả một sườn núi thoai thoải. Từ những kẽ lá bóng loáng, mặt trời như đang tung hứng những quả cam vàng chanh và trong chốc lát, đã biến mất để nhường chỗ cho mưa.
Suốt dọc đường đến Wullunya cây cối ủ rũ, nhưng có vẻ như trông mong có một cuộc sống thú vật nào đó ùa đến.
- Này, - chị Parker nói, cọ cổ mình vào cái túi ướt, - chị có nghe thấy gì không, chị O’Dowd?
- Hình như có người, - người bạn trả lời.
Vì lúc này thấy có tiếng bánh xe, chạy khá nhanh.
- Người đó chắc phải quất ngựa chạy tối tăm mặt mũi, - chị hàng xóm nói. - Rõ ràng thế. Hẳn anh ta không ăn cướp nhà băng thì chắc chị vợ cũng đang đau đẻ.
Hai người đàn bà đâm sốt ruột đợi chiếc xe chạy khẩn cấp đó. Họ ngồi thẳng người, cổ họ gầy guộc.
Khi xe đến chỗ rẽ cuối cùng, họ ngoái cổ nhìn mới rõ đấy là chiếc xe hai chỗ ngồi, chạy vun vút làm nước bắn tung tóe, trên có ba cậu thanh niên ngồi ép chặt vào nhau thành một hàng.
- Chào các chị, - họ cùng nói, khi giảm tốc độ, hay nói đúng ra là anh chàng đang vung chiếc roi lên nói. - Đây có phải là đường đến chỗ bị lụt không, các chị? - Anh ta hỏi. - Có phải ở Wullunya không?
- Khắp vùng bị lụt cả, - chị O’Dowd nói, nhìn về phía trước. - Chỉ còn có mỗi con đường.
- Buồn cười nhỉ - cậu cầm roi nói.
Đó là một thanh niên to lớn, có cái răng vàng ở cửa miệng.
- Hai chị em chúng tôi đây đi chơi ấy mà, - chị O’Dowd nói. - Vui một tí. Hoặc đã từng thế. Cho đến khi gặp các anh đây.
Anh thanh niên phun một tia nước bọt qua kẽ răng vào màn mưa. Một người khác cười.
- Đi tiếp đi, - anh ta nói.
- Tôi cũng đang định thế, - chị O’Dowd nói. - Tôi xin nói thêm, ở tốc độ vừa phải thôi.
- Ủa! - Anh thanh niên nói, thục vào mạng sườn anh bạn. - Thế chị không nghe thấy bà tôi chết như thế nào à? Chết đuối trước khi họ chèo thuyền đến cứu đấy.
- Ủa! - Chị O’Dowd nói. - Bà nhà anh thì mặc xác nhà anh! Thứ chết rồi là mấy chai bia anh vứt lại kia kìa.
Người chị Amy Parker vừa run rẩy vừa thấy phấn chấn trước sự bạo dạn của chị láng giềng. Chị ngoảnh bên má tươi tắn nhìn chăm chú vào hàng rào dây kẽm có nước mưa chảy lỏng tỏng.
- Ăn nói với đàn ông thế là thóa mạ, - anh thanh niên nói.
Anh ta mặc một áo khoác dài cũ kỹ màu xanh nhờ nhờ nên trông to lớn hơn bình thường, mặc dù thực ra anh cũng khá to xác. Và anh ta càng ép chặt bạn mình, một anh chàng vạm vỡ thấp bé, da ngăm ngăm đen, mắt đỏ ngầu, nhưng sáng và tọc mạch, trên bộ mặt cháy xám, dồn thúc cả vào sườn người ngồi ngoài cùng, ép hẳn người đó vào thành xe. Điều đó dường như chẳng quan trọng mấy. Anh ta là người gầy gò, loại người không nói mà chỉ cười lớn hay khúc khích đúng chỗ. Một anh thầy dùi.
- Thóa mạ à? - Chị O’Dowd nói, huơ nhẹ cái roi mảnh. - Thế anh mong đợi gì? Hoa violet, xung quanh quấn dải băng chăng?
Amy Parker chỉ mong sao chị không tiếp tục nữa. Cái dây kéo căng mê loạn mà chị hàng xóm đang đi trên đó đã vượt quá sức chịu đựng của chị. Vì vậy chị ngoảnh mặt đi không nhìn.
- Kìa chị, sao ngồi chẳng nói gì thế, - tay bạn thấp bé của gã to lớn lên tiếng, nhoài ra từ phía sau cái áo khoác cồng kềnh khiến mặt hắn như tách rời, nhọn hoắt và cực kì tọc mạch. - Những dịp thế này mà chị không biết thưởng thức. Hình như tôi gặp chị ở đâu thì phải! Ở Bangalay hả? Có lẽ ở tại Công ty thương mại Dingwall.
- Tôi không đi Bangalay. Mà có thì cũng hiếm.
Chị thấy điếng người. Tuy chị sôi máu lên nhưng chị không dám liều. Chị vụng về và nhút nhát.
- Bạn tôi là người đứng đắn, - chị O’Dowd là sành sỏi nói. - Suốt đời cứ ru rú trong nhà, kín đáo. Bạn tôi không giao du với loại tạp nham đâu.
- Nếu có chị em nào vừa làm đĩ vừa mong được lập miếu thờ thì tôi chẳng thèm cãi nhau làm gì, - anh chàng to lớn nói.
Suốt đoạn đường, những con ngựa không để ý đến nhau, chỉ bước đều đều, ướt đầm và tỏ ra sảng khoái.
- Một thằng cha hỗn xược, - chị O’Dowd thở phì. - Chưa bao giờ tôi gặp một thằng cha trơ tráo thế.
Người ngồi ngoài cùng trên xe cười.
- Nào, - anh chàng mặc áo khoác nói, - tôi có tý rượu ngon để dưới ghế đây. Ta đi tìm chỗ khô ráo ngồi nói chuyện. Đun lại chỗ trà cũ nếu mọi người thích, rồi chúng ta nói chuyện.
- Ôi, - chị O’Dowd nói, điều khiển dây cương, - ẩm ướt thế này nói chuyện thế nào được.
- Chị này đối đáp cừ thật, - anh chàng mắt đỏ ngầu thấp người lầm bầm nói.
Hắn đưa mắt nhìn hau háu và giảo quyệt. Hắn hít hít không khí, mũi dài ngoằng, sưng đỏ một bên.
- Ồ, tôi chưa là gì cả, - người đàn bà béo tốt nói. - Chẳng là gì so với những thứ mà các người sẽ lãnh đủ khi chồng tôi đến.
- Chồng là cái thá gì? - Tay thanh niên mắt đỏ ngầu bé nhỏ, da ngăm đen hét to lên, còn hung hăng hơn cả bạn mình.
- Tôi có thể nói chi tiết cho các người hay, - chị O’Dowd nói, - nếu tôi có thời gian. Nhưng vì không có nên phải nói vắn tắt. Anh ấy người to lớn, xin nói cho các người biết, bắp thịt trên người anh ấy cuồn cuộn như quả bí ngô, và lỗ mũi phun ra lửa thiêu cháy những kẻ đại loại, như anh. Chồng tôi coi thường mấy kẻ người nhỏ bé, đê tiện, gà què ăn quẩn cối xay. Lạy Chúa!
Rồi chị quất nhẹ vào con ngựa, để cái tai ướt của nó dựng đứng, đuôi đập vào trục xe, tỏ ý phản đối bằng một cái rắm.
Tiếng cáu kỉnh hỗn độn vang lên trong chiếc xe có ba tay thanh niên ngồi chen nhau. Chúng tranh cãi nên xử lý bằng lời hay bằng nắm đấm.
- Cho con mụ một trận, - có tên nói.
- Còn chồng mụ! - Tên khác bảo. - Mụ ấy khoe mẽ tên chồng nào không biết nữa?
Trong lúc đó tên ngồi ngoài cười khẩy và chuyển chỗ.
- Nếu các người muốn tôi giới thiệu với ông xã, - chị O’Dowd nói, - viên cảnh sát Halloran của Bangalay sẽ giúp. Chính ông ta đang từ chỗ gò đất lại kia kìa. Cách hàng dặm tôi vẫn nhận ra bộ râu quai nón của ông ta.
Đúng là một viên cảnh sát trẻ cao vổng, có râu quai nón bóng nhẫy, được chải sáp nên không ngấm nước, ngồi lắc lư tấm lưng dài trên mình con ngựa tía đang thong thả bước.
Chiếc xe trở nên giận dữ. Nó chồm lên, rồi nghiến lạo xạo, và sau đó lao đi với tốc độ ban đầu của cỗ chiến xa, trong nháy mắt đã mất hút.
- Xin chào ngài cảnh sát Halloran, - chị O’Dowd nói. - Chúng tôi đi chơi đến chỗ lũ lụt đây. Cố xem được gì thì xem. Những linh hồn đau khổ cùng những con vật không biết nói. Và tiện thể đón các ông chồng chúng tôi đang giúp một tay ở đây đã hai ngày nay, mà có đến ba ngày rồi thì phải.
Sau khi trò chuyện vui vẻ thêm một lát nữa trong cơn mưa ấm áp hơn, với anh cảnh sát dễ thương có đôi chân sếu và bộ răng trắng, chiếc xe có hai người đàn bà lại tiếp tục rong ruổi trên con đường lầy lội.
Amy Parker, sau khi được kéo khỏi cuộc sống buồn tẻ nhờ câu chuyện gánh xiếc cùng pha đụng độ nguy hiểm, thấy mừng rỡ và nhẹ nhõm trước cuộc hội ngộ với anh chàng cảnh sát, và đến lúc vào giai đoạn cuối của chuyến đi trên con đường xa lạ, chị lại trở nên buồn bã. Nếu đoạn cuối này chỉ có cây cối, toàn những cây ướt sũng, xám xịt, chị lại thấy phân vân không hiểu sao mình lại đến đây. Chị cố nghĩ đến bộ mặt của người chồng chất phác mà chị sẽ nhìn thấy và sẽ đón về. Chị cố khơi lại mối thân thiện với người bạn láng giềng trong lúc ngồi lắc lư trên tấm ván bên cạnh chị ta, hãy còn thán phục, chị biết thế, và hãy còn ngỡ ngàng, nhưng cũng liên tu bất tận như chính bản thân chị.
- Chao ôi, - chị vừa nói vừa duỗi tay chân gò bó tù túng trong những cái bao ẩm ướt, - bao giờ chúng mình mới đến nơi, hả chị?
- Một ngày, - chị O’Dowd nói, chị cũng cảm thấy buồn chán.
Họ đi tiếp.
Chị O’Dowd, chui tọt trong cái vỏ giáp bằng bao cứng, như thể đoàn xiếc chưa hề tồn tại vậy.
- Chị sẽ ngạc nhiên, - chị ta nói, - về những điều đã xảy ra. Tôi nhớ cái lần anh ấy bị con ngựa đen to lớn, mắt trắng dã đá vào bụng, mà tôi không bao giờ thích, thế là chúng tôi bán nó đi, cũng không phải ngay lúc đó, trong khi anh ấy sắp sang thế giới bên kia. Tôi nói: “Mời cha cố không?” Suốt đêm chạy, tay ôm những cái đĩa nóng cùng những mảnh vải nóng áp vào bụng nhưng có ích gì, - người anh ấy xanh tái mét nhưng sau đó da anh ấy vàng chưa từng thấy - tôi tưởng chừng sẽ suy sụp, nhưng không, chị thấy đó, tôi chỉ đau đớn và hỏi: “Có mời cha cố không?” Đại loại như vậy. “Mời cha cố à?” Anh ấy hỏi - anh ấy bị lên cơn co thắt. “Suốt bao năm nay tôi có biết đến cha cố đâu. Cứ cho tôi một con dê cỡ bự, mặc gilê, tay cầm một cuốn sách, thế cho nó nhanh. Hơn nữa sẽ không phải chìa tay ra mà xin xỏ.” Anh ấy chặt chẽ lắm, chẳng khác gì giấy dán trên tường quanh phòng đâu. Tôi không trách anh ấy. Mất cho cha cố chỗ này một vài hào, chỗ khác một vài xu, chỉ một sớm một chiều là mất hàng đống bạc ngay. Tôi trả lời: “Vâng, thôi được”. Vì tôi biết những nhược điểm của anh ấy. “Rót cho xin một tý rượu rum,” anh ấy nói. “Ta không thể vừa có cha cố lại vừa có rượu được, và nếu phải loại bỏ cha cố thì chẳng có biện pháp nào tốt hơn cả.” Thế rồi anh ấy đau quằn quại đến toát cả mồ hôi, mà hầu như lông tóc không dựng lên nổi. O’Dowd là một con người rậm rạp.
Lúc này đến đoạn đường cây cối mọc san sát, và mây ùn ùn đến mỗi lúc một đen đặc, bủa vây chiếc xe nhỏ đang trườn lên trên ngọn đồi, lẻ loi đơn chiếc.
- Ấy thế mà anh ấy không chết, - chị O’Dowd nói, - mặc dù anh ấy dám hỗn xược với cha cố. Tôi không muốn anh ấy chết. Tôi còn biết dựa vào ai. Mà chị Parker ạ, có người chọn con đường này, có người chọn con đường khác.
- Ý chị định nói gì, chị O’Dowd? - Amy Parker hỏi. Chị không thể và sẽ không giúp được người bạn mình. Cái khăn tay của chị cuộn lại thành một quả bóng.
- Ý tôi định nói là chúng tôi kết hôn trước Chúa, chị O’Dowd trả lời.
- Ý là không có cha cố nào. Cứ xét quan điểm của anh ấy và của tôi mà xem. Hừm, bản thân tôi nào dám hỗn với các cha cố. Có Chúa và cũng có cha cố, tôi luôn nói vậy. Tiết kiệm được mấy hào. Nhưng ai biết được nào, thử hỏi chị ai biết chắc được nào?
- Vậy chị lấy anh O’Dowd không có cưới xin sao? Chị Parker hỏi.
- Vớ vẩn! - Người hàng xóm nói. - Thế theo chị suốt năm phút vừa rồi tôi kể chị nghe những gì vậy, với bao lời đẹp đẽ để lại bị xúc phạm sao!
Như thế cũng đủ để thôi miên người ta rồi. Amy Parker ngồi lặng người đi.
- Ồ, - chị ngập ngừng - Tôi không cho rằng chị có ý gì khác, - chị nói, hay nói dối.
- Ồ, tôi chẳng hối tiếc gì cả, - chị O’Dowd nói. - Nếu chúng tôi có ném vật này nọ vào nhau, chửi bới nhau chẳng qua là vì chúng tôi quen thế. Đám cưới chỉ làm tôi thích thú bởi việc mặc bộ váy xa tanh màu ngà và đội một chiếc mũ thật to.
Nhẽ ra câu chuyện đến đấy là kết thúc, thế nhưng không. Vì đối với Amy Parker, nó sẽ không bao giờ kết thúc cả.
Xe họ đi qua một túp lều làm bằng gỗ và tôn, có hai đứa bé ở ngoài nhà đang chân đất lội nước.
- Có lẽ thành phố bắt đầu từ đấy, - Amy Parker nói đầy hy vọng.
Giờ người bạn chị đã khác, lẽ ra chị đã ngồi sang bên và nhìn chị ta. Vì chị không thể làm được, chị đang sốt ruột.
- Bao giờ đến thành phố thì tôi sẽ thích lắm, - chị nói. - Tôi chán cảnh này lắm rồi.
Chị O’Dowd không trả lời, mà chỉ liếm cái miệng ướt như có kinh nghiệm về sự vô biên.
Trong khi còn đang nhìn ngang nhìn ngửa để tìm chỗ có thể quăng dây buộc ngựa, chị Parker cũng muốn nói với chị bạn vài lời âu yếm và trấn an nhưng không sao nói ra được. Họ đang ngày một xa cách. Nước táp vào nan hoa xe. Hai người đàn bà bắt đầu chấp nhận khoảng cách giữa họ. Bánh xe rít lên trong dòng nước chảy. Sau này mình sẽ làm lành, Amy Parker cảm thấy thế. Chị không lạnh lùng mà cũng không tàn nhẫn. Sau này sẽ làm, chị nhủ thầm, bây giờ thì không được. Chị bị cuốn đi xa. Chị đang phải vật lộn với dòng chảy xiết, trong đó người làm xiếc bập bềnh, và tấm thân trần trụi của O’Dowd.
Chị O’Dowd hát vì cảm thấy buồn.
Đột nhiên con đường lao tới nơi hiện là hòn đảo Wullunya. Con đường đê trông chắc chắn, trên đó chiếc xe của họ đang lăn bánh qua đàn cừu chạy ngang đường.
Lúc này rõ ràng có hy vọng nhìn thấy các ông chồng.
- Chị có cho rằng chúng mình sẽ tìm thấy họ dễ dàng không? - Amy Parker hỏi. Và lúc cúi người xuống, tay chị dường như níu lấy những cái lưng cừu nhờn như mỡ.
- Đây đâu có rộng lớn gì cho lắm, - chị O’Dowd trả lời.
Đi theo cái mùi len của cừu ấm dễ chịu, hai người đàn bà lại hòa hợp trong niềm hy vọng chung. Khi họ dường như được đưa bổng trên lưng cừu chụm vào nhau, họ lắng nghe tiếng đạn nổ rời rạc và tiếng ếch nhái, rồi thở dài nhẹ nhõm khuây khỏa.
Vậy là họ đã vào đến thành phố, qua xưởng bột mì và cánh đồng trên đó đã từng dựng rạp xiếc, qua cái tháp nhà thờ nhợt nhạt, trong đó chiếc đồng hồ đã đứng. Và phía dưới ai đó đang bị chôn vùi trong bãi cỏ cao sũng nước.
- Này, chị ơi, thật khủng khiếp, - chị O’Dowd vừa nói, vừa ngoảnh đầu đi, nửa muốn nhìn. Da chị sởn gai ốc. Nhớ lại đám tang của nhà mình khiến chị thấy đám ma này trở thành riêng tư.
Còn Amy Parker nhìn những cái ô nhọn của những người bà con người chết như lần đầu tiên chị mới nhìn thấy con đường dẫn đến Wullunya trong trận lũ lụt. Chị chưa thể chết được.
Họ đi vào thành phố có những cửa hàng đầy hàng ngũ kim, găng tay, kem dừa và củ cải đường để héo, nhưng mọi người, thậm chí cả người già, đã đi xuống tận bờ nước.
- Các chị không tưởng tượng được đâu, - một người đàn bà tay xách một con vịt Muscovy, đang từ hẻm phố đi xuống nói vậy, - các chị không tưởng tượng được, chỗ ấy người đông như kiến ấy, nào những người bị nạn, nào những người tình nguyện, cả ông Thống đốc cũng đến. Họ đang hong chăn màn ở quán rượu Cây sồi và thịt hàng đàn gà vịt.
- Chúng tôi đang tìm chồng, - chị O’Dowd nói. - Stan Parker và Mick O’Dowd. Họ ở trong đội cứu trợ. Bà có thấy họ không? - Chị ta hỏi.
Nhưng người đàn bà không nhìn thấy.
- Cả hai người đều to lớn, - chị O’Dowd nói. - Chồng tôi có bộ ria đen.
Nhưng bà ta không nhìn thấy. Đôi mắt bà nom nhìn xa vắng như thể bà đang thu thập đằng sau chúng những mẩu đời mình mà sau khi ghép lại bà sẽ mang tặng hai người khách đến thăm thị trấn của bà.
- Hôm thứ Sáu chúng tôi suýt bị lũ cuốn trôi, - bà ta nói.
Nhưng con vịt bà ta đang xách nghểnh cái đầu nhỏ lên kêu quàng quạc, còn chị O’Dowd không phải là người hóng chuyện người khác.
- Ra sông đi đường nào? - Chị ngắt lời.
Bà xoay người và vung cả cánh tay ra chỉ. Bộ tóc nhớp nháp xõa vung theo. Bà ta là một người đưa tin quan trọng.
- Dưới kia kìa! - Bà ta nói, tiếng nói lắt léo như bật giữa hai cái răng nanh, vì những răng cửa bị gãy. - Không phải phố đầu, không phải phố thứ hai. Có nhìn thấy cái bao lơn không? Rẽ phải nhé. Ở bãi công cộng ấy.
Con vật màu vàng to lớn đang gặm cỏ.
- Lụt lên nửa đường đến bãi công cộng ấy, - người đàn bà nói. - Nước tràn lên tận nhà Trelawney, vào tận cửa sổ và làm hỏng dãy buồng mới.
Chị O’Dowd chặc lưỡi, không hiểu vì đồng cảm hay là gì, nhưng con ngựa nhẫn nhục tiếp tục tiến về chỗ cảnh tượng khủng khiếp đó.
Tất cả mọi người bị cuốn vào cơn lũ Wullunya, hoặc đứng nhìn nước, hoặc giúp một tay hoặc được chỉ dẫn từ những con thuyền đưa họ từ giấc mơ này đến giấc mơ khác. Có một số thậm chí vừa tỉnh giấc và bị cuốn đi. Những kẻ đứng nhìn nói chung đều ngoảnh mặt đi hoặc vì lịch sự hoặc vì sợ phải chứng kiến những bộ mặt trần trụi đó. Chỉ có Bub Quigley đi cùng với cô chị Doll mới có thể chịu đựng được những nụ cười của người chết.
- Ông già kia tốt lắm, - cậu ta nói, khi nhìn vào mặt một ông già với một nụ cười khoái trá. - Chị nhìn thấy chưa? - Cậu ta hỏi. - Ông ấy tốt. Tốt lắm! Nhìn là biết.
Rồi cậu ta sờ vào bộ mặt cười của ông già người ta tìm thấy bị treo ngược trên một cái cây.
Nhiều người, kể cả những người hung hãn, hách dịch cũng phải quay mặt đi vì ghê tởm, nói rằng không được phép làm vậy. Thế là cô chị Doll Quigley suỵt cậu em và kéo tay cậu ta lại.
Cậu ta lại tìm thấy một hòn đá tròn, kỳ dị đã bị những cơn lũ trước cuốn đi và mài nhẵn bóng, nên lúc này cậu ta đã kiềm chế mình và đứng nhìn hòn đá đó, vây quanh là những người đứng xem khác. Cậu ta cao lêu đêu, nhưng vẫn nhìn xuống được, mà thế cũng chẳng sao. Cả thế giới đều tập trung trong lòng bàn tay cậu.
Những người đứng nhìn cơn lũ bàn tán xôn xao suốt. Đám đông thể hiện sự xúc động của mình một cách hỗn độn, nhưng cũng có người có giọng nói kẻ cả và tỏ ra nhiệt tình với việc chung, nét mặt họ như muốn nói rằng họ có thể giải quyết vấn đề. Có người nói họ có thể đào một con kênh lên hướng bắc, nhưng người khác lại nói rõ ràng chỉ có thể đào con kênh như vậy về hướng nam. Có một số đã trải qua lũ lụt lại cho rằng nước sắp rút, xét qua mức nước cố định hiện nay, hướng gió, kết cấu của bầu trời và trực giác của xương cốt.
Còn ngài Thống đốc, được một đoàn quan chức đưa đến, hỏi những câu biểu thị sự thông cảm và lịch thiệp của mình. Ông ta đứng, một bàn chân hơi đưa về phía trước theo chỗ nước lụt, cốt chỉ để đứng cho đỡ khó chịu vì một vết thương xưa của ông, nhưng một số người tự hỏi không hiểu tư thế đứng đó có ý nghĩa đặc biệt nào không. Họ nhìn vào mũi chiếc ủng Anh mảnh mai của ông ta, đợi xem có gì kì lạ sẽ xảy ra. Nhưng ngài Thống đốc vẫn tiếp tục tỏa ra sự khéo léo lịch thiệp, trong cái áo khoác làm bằng loại hàng tốt, cổ nhung. Ông ta có mái tóc chớm hoa râm, miệng ngậm xì gà, làn khói thơm dịu màu ngọc trai vô tình pha lẫn vào tất cả.
- Dĩ nhiên sẽ có những quỹ tài trợ và phân phối quần áo, - ngài Thống đốc nói với viên Thị trưởng và nới cổ áo vừa khít cho dễ thở, làm tăng thêm mối đồng cảm u buồn, trong đôi mắt con nhà gia giáo của ông. - Nhưng đồng thời, - ông ta nói, giọng hạ thấp một chút, để tỏ lòng tôn trọng cảnh thê lương ở đây, - cũng phải xét xem dân chúng có đủ xúp ăn không?
Viên Thị trưởng cho rằng không thiếu xúp, nhờ có lòng hào hiệp của một số địa chủ, những người bán thịt, và các bà biết lo liệu mọi việc, đặc biệt là vợ của một người bán thịt nào đó, và có một người bán đồ ngũ kim đã cho mượn cái bếp lò. Viên Thị trưởng đứng cạnh ngài Thống đốc, chân dạng ra và gối cong lại. Hai bàn tay ông ta xòe ra như nải chuối.
Suốt thời gian đó, đám đông đứng, hoặc cựa quậy vì xúc động hay vì tò mò đã lôi cuốn họ. Nhiều người khoác bao tải, dĩ nhiên không phải vì nghèo túng mà vì những lý do thực tế: mặc cho khỏi ướt. Đám đông vẫn đứng đó, bàn tay Gothic của họ ôm lấy ngực để giữ những bao tải ướt che thân. Chốc chốc và qua một số tư thế rõ rệt ấy, cảnh đó cho ta ấn tượng là họ đang cầu nguyện. Có người cầu nguyện cho bản thân mình, bằng những đoạn mà họ lõm bõm nhớ được khi đi lễ nhà thờ hoặc bằng câu từ trúc trắc của chính họ. Nhưng hầu hết chỉ là để giữ lấy những tấm bao tải ướt. Có mùi bao tải. Thoang thoảng mùi cám bốc lên từ vai và ngực một số người.
Khi họ bước đi, nói chuyện, hay đứng tại chỗ, dám nghĩ và dám nhớ, ta có thể mở toang đầu óc họ ra để nhìn thấy bên trong, chứa ngăn nắp hoặc quá nhiều thứ. Có một số tràn trề tình cảm. Ví dụ có bà vợ một người chủ cửa hàng không sao kìm hãm được sự thèm khát của mình đối với một viên cảnh sát. Bao đêm liền bà ta ôm khăn trải giường trong cơn giày vò, miệng sưng lên vì cắn vào nỗi thèm khát đó. Nhưng Doll Quigley không xê dịch mấy trong vũng bùn, trừ lúc ngăn em trai mình lại, cậu muốn nghiêng ngó một người Tàu. Doll, chính cô Doll đứng không đụng đậy đó, chứa đựng một ánh đèn leo lét. Khi nước lụt vỗ bập bềnh, cô nhớ đến bố mình. Nụ cười mỏng manh, đắm đuối, nhưng được cứu vớt đó của cô ngụ trên những bộ mặt của những bà xơ, nhờ họ, cô đã biết được bản khắc đồng mà gia đình cô tự hào. Doll Quigley đang ngồi với các bà xơ đang miệt mài thêu thùa. Những khuôn mặt vô danh của họ đang bảo cho Doll biết rõ làn ánh sáng vàng chứa chất trong cô.
Nhưng đám đông nhíu mày và nói:
- Ồ chị em nhà Quigley.
Cậu em Bub Quigley cứ nhấp nhổm, nằng nặc đòi xem mặt một người Tàu, hoặc còn tệ hơn, cậu ta đứng nhìn thẳng vào mọi người với vẻ vô tư đến mức rõ ràng như đang hòa cùng những suy tư của họ.
- Cô ta phải bảo được em chứ, - họ nói.
Thế là Doll Quigley buộc phải xua đi sự hồi tưởng về quá khứ và nói với cậu em: “Xuỵt, Bub! Mọi người không thích thế đâu. Đứng nguyên đây xem thuyền đang chở ai vào kìa.”
- Sẽ tạnh sớm thôi, - nó thở dài.
Đôi mắt trong sáng của cậu ta đong đầy những ý nghĩ mộc mạc mới.
- Kìa, chị, - cậu ta nói, - mưa ngừng kìa. Sẽ tạnh thôi mà.
Dù mọi người có thảo luận về nước rút và mưa tạnh, nhưng đấy chỉ là lý thuyết. Không ai tin rằng điều đó lại xảy ra, và có nhiều người trong thâm tâm chắc không muốn thế. Một số dõi theo ngón tay chỉ của Bub Quigley nhìn lên bầu trời lần thứ hai trong ngày trở nên xanh, nhưng đó là một màu xanh thẫm và mây xếp lại. Trên trời những con chim màu đen bay thành hình mũi tên. Thậm chí nếu không có chim câu, đội hình của loài chim gợi lên những khả năng, và ngài Thống đốc lại cố pha trò, khiến những người đứng bảo vệ ông ta khỏi bị chen lấn đã cười đến vỡ bụng.
Những bộ mặt trơ trụi trở nên trơ tráo, khi không còn mưa trút xuống bao trùm lấy họ.
- Có lẽ những con thuyền sẽ cập bến ở đây, - chị O’Dowd nói. - Và có thể chúng mình sẽ tìm thấy các anh ấy.
Hai người đàn bà cho xe đỗ phía sau đám đông một đoạn, khóa bánh xe lại và buộc vào miệng ngựa túi đựng cỏ, vài giọt nước đọng từ trước trận lụt nhỏ giọt xuống xuống chân nó thành vệt dài. Họ tiến về phía mép nước trên đôi chân cứng quẹo, trong bộ quần áo ướt nặng trình trịch. Amy Parker thấy buồn cười vì đã đi một đoạn đường dài và vất vả để cuối cùng lấy lại cái vẻ lóng ngóng. Chị giữ bao tải ướt quanh vai, trông bực bội hơn lúc trước.
- Cô có nhìn thấy anh Stan không? Chị hỏi Doll.
- Không, chị Amy ạ. Chúng tôi có đi được khắp nơi đâu.
Vì khiêm nhường nên Doll Quigley coi vẻ bực tức của Amy Parker là hoàn toàn tự nhiên.
Dần dần mọi việc đều trở nên tự nhiên, Amy Parker đứng trong đám đông che giấu sự lóng ngóng của chị, cùng với đám bạn bè dưới ánh nắng đầu tiên e ấp xuất hiện, mỗi lúc một sáng lòa và rõ mồn một. Cây cối đứng trơ trọi trong dòng nước màu nâu lóng lánh nổ lốp bốp trước làn ánh sáng xanh. Một chiếc cối xay gió vụt xuất hiện xua tan nốt những vẩn mây xám. Rồi một chiếc thuyền bắt đầu tiến lại khiến mọi người đều kháo nhau xem đấy là thuyền gì, pha trò và thậm chí còn đánh cuộc nữa.
Amy Parker bỗng giật thót mình hoảng sợ khi thấy đó là con thuyền, biết ăn nói làm sao đây với chồng trước mặt mọi người. Những bộ mặt xa lạ quanh đây lại không xa lạ hơn nước da của chồng chị, thứ duy nhất chị có thể nhớ về chồng mình lúc này.
- Đó là Ernie, - có người đánh bạo nói, tay chỉ trỏ. - Đúng là Ernie Oakes thật rồi.
- Những anh chàng râu ria như cỏ rậm của chúng ta, - chị O’Dowd nói, - không sao nhận ra họ sau ba ngày không cạo râu, ở khoảng cách nửa dặm đâu.
- Đúng là Ernie Oakes thật rồi, - anh chàng tự tin kia lại nói.
Và Amy Parker biết chắc, tuy hơi khinh miệt, rằng đấy là con thuyền. Chị biết chứ. Gió cuốn đuôi tóc chị và thổi xòa vào nụ cười của chị - nụ cười nhận biết. Rồi với niềm tin đó, khuôn mặt của chồng quay về với chị, rõ đến chân tơ kẽ tóc, đúng là khuôn mặt thuộc về chị, chị đang ôm ấp trong tay, đang nuốt chửng nó trong đầu, thấm cả xương cốt, khao khát đến mức chị vội nhìn quanh xem có ai nhìn thấy mình không.
Dĩ nhiên chẳng ai nhìn thấy cả.
Chị O’Dowd cất tiếng bảo:
- Có nhìn thấy không? Các anh ấy đấy, không chối vào đâu được. Gớm, đồ quỷ nhà anh ấy mà chèo thuyền thì mọi người ngã lộn xuống nước cả thôi.
Con thuyền lái qua bầu không khí nhốn nhác, mà chị O’Dowd đã quá lạc quan. Có người nói chuyến này người nhà Tingle và cô bé Mary Hunt đang ôm con mèo mướp. Chính đó là bà cụ Tingle - ta có thể nhìn thấy cái bướu cổ của bà cụ. Song con thuyền vẫn đi tiếp, sau nhiều pha quay cuồng, luồn lách, vật lộn thở không ra hơi hò hét lái bên này bên kia, cuối cùng đã cập bến nơi mọi người đứng.
Stan Parker ngồi ngẩng lên nhìn, mệt mỏi, và anh đã nhìn thấy vợ. Chị đứng đó quần áo sẫm màu, ẩm ướt, cái bao tải sệ xuống vai và bộ tóc đang hong trước gió. Anh không ngạc nhiên. Anh không vẫy tay và pha trò, như những người đàn ông khác đã làm với bà con quen biết. Anh nhìn xoáy vào chị và thấy hài lòng.
- Thế chị không nói gì với anh ấy à? - Chị O’Dowd hỏi bạn.
Song Amy Parker nhìn đi chỗ khác. Chị đã nhìn xoáy vào anh, nhìn vào mắt anh, và nghĩ chưa bao giờ mình nhìn chồng sâu đến như vậy. Chẳng có gì để nói.
- Kìa, - Amy Parker nói. - Đừng vớ vẩn! Chị cắn vào đuôi tóc đang bay lòa xòa vào miệng và nhíu mày.
Như thể khiến Stan Parker nhớ đến lúc mình đi vào buồng nơi chị đứng bên chậu rửa bằng sứ, hất mớ tóc đen ra sau mặt, lớp da trắng ở nơi bắp đùi chị tỏa sáng xanh nhạt. Bên cửa sổ đó, trong ánh nắng hè, ánh sáng xanh nhạt tỏa ra từ những bông hồng bạch.
- Ê, - Oassie Peabody nói và nhoài người ra, - vợ cậu đến đấy.
- Ừ. - Stan Parker nói thế để Oassie Peabody không đi sâu hơn nữa vào việc riêng tư của mình.
Có quyết định là đám người đi xe của Peabody từ trên đồi xuống nay phải trở về nhà vào đêm hôm đó. Mọi người mất dần hứng thú xem lũ lụt. Một số người bắt đầu chỉ trỏ là nước đã rút, dù chỉ một chút, nhưng như vậy đã là rút lắm rồi. Đứng trong bùn bên bờ nước lụt màu vàng thật là lạnh. Mọi người lục tục nối nhau trở lại thành phố. Một ngọn đèn được thắp sáng bên một cửa sổ. Một người đàn bà đang rót trà, giơ cao chiếc ấm lên trên miệng chén để cho dòng nước đỏ không bắn ra ngoài.
Vợ chồng Parker bước bên nhau trong ánh sáng leo lét.
- Đàn bò thế nào rồi, em? - Stan Parker hỏi, bởi anh cần mở lời.
- Ông cụ trông nom hộ.
Lúc hai người quay trở lại tìm xe của Peabody, trước mặt bạn bè, lời nói của họ trở nên ngượng ngập. Họ đi sát bên nhau, quần áo họ chạm vào nhau. Và lúc ngồi trên xe, đợi lấy một cái chân giò mà họ đã hứa với bà cụ nhà Ossie Peabody, vợ chồng Parker ôm nhau.
- Tạm biệt! - Chị O’Dowd nói, vung roi quất con ngựa.
Chị ta sẽ tách riêng, cùng với chồng, mang theo một vài chai rượu.
- Hẹn gặp bên Killarney nhé, - chị O’Dowd gọi to.
Nói xong, chị ta mất hút theo tiếng chuông ngựa leng keng vào bóng đêm êm dịu.
Suốt đêm đó đều êm dịu như thế. Ai đó mang theo gói kẹo bạc hà nên họ chuyền tay nhau trên chiếc xe. Rồi hai người lần tìm bàn tay chai sạn khi ngồi đợi lấy chân giò. Amy Parker không quan tâm đến kẹo bạc hà, nhưng cũng cầm lấy, nhằn nhằn, rồi nhè ra, sau đó đặt cái miếng bị cắn dinh dính vào chỗ mà chị biết là miệng chồng mình. Anh hít mùi ngòn ngọt đậm đà, cười vang, mùi bạc hà xông lên tận óc.
- Cháu là con nhà ai? - Có người hỏi.
Có tiếng trẻ con khóc trong bóng tối.
- À, thế này này, - vợ người bán thịt nói, khi bước ra mang theo cái chân giò gói trong trang quảng cáo của báo địa phương, - nó chạy ngược chạy xuôi, kêu gào suốt mấy ngày. “Bố mẹ cháu đâu?” tôi hỏi. Nó không trả lời. Chỉ nhìn thôi. Rồi lại khóc. “Vậy vào đây”, tôi nói. “Bác cho cháu cái bánh thật ngon”. Nhưng nó chỉ khóc. Chạy lên chạy xuống. Tôi bảo sẽ đi tìm cảnh sát để họ quản nó, như một đứa trẻ lạc, chẳng có gì là xấu cả. Các bạn biết đấy, không ai chịu được cảnh đó. “Thế bà không giúp được gì đứa bé à?” - họ nói. Cứ như thể nó là con tôi ấy. Khóc khóc, mếu mếu, cứ như là con chiên cuối cùng còn rơi rớt lại trên trái đất. Này, Oassie, đây là cái chân giò ngon chưa từng thấy, bà cụ anh sẽ thích lắm.
Đứa bé vẫn khóc trong bóng tối.
Có lẽ nó bị lũ cuốn ở đâu đó, họ nói thế trong xe.
Nó sẽ còn trôi giạt xa hơn nữa, nếu nó cứ kêu thét như vậy, đó là ý nghĩ thực thà của con người thứ hai.
Nhưng không có ác ý gì. Trong bóng tối, chỉ có sự thân tình đến mức khoan dung. Họ đang trở về nhà.
Amy Parker bỗng thấy cần nhìn mặt đứa bé. - Cho tôi xuống. Cho tôi nhìn thằng bé, - chị nói.
Chị phải bước qua sang phía kia xe, như thể một mục đích nào đó đã hình thành trong bóng tối. Chị phải sờ được đứa bé.
- Tên cháu là gì? - Chị hỏi, khi ôm đứa bé trong ánh sáng hắt ra từ hàng thịt đã đóng cửa. Và mặt đứa bé cũng hoàn toàn khép kín. Không thể nào cạy được miệng và mí mắt nó. Chị ôm trong tay thân hình một con chim bị bắt.
- Thế cháu không có tên à? - Chị nói, biết rằng họ đang đợi mình trên xe, chuyển chỗ, ho hắng và xốc lại dây cương.
Song đứa bé vẫn lảng tránh chị, trừ tấm thân gầy trơ xương mà chị đang ôm trên tay.
- Nào đi thôi, - mọi người gọi, - kẻo trời sáng mất.
- Lên đi, Amy, - chồng chị gọi.
- Được rồi, vợ chồng cô sẽ đặt tên cho cháu, - chị nói, - khi về đến nhà. Anh Stan, - chị gọi to, - chúng mình sẽ đưa thằng bé này về theo.
Đứa bé nhìn chị lúc lâu như không tin chuyện đó lại có thể xảy ra. Mà bản thân Amy cũng không chắc.
Chồng chị làu bàu chẳng biết làm gì với đứa trẻ lạc.
- Ừ, độ một, hai ngày thì được, - anh càu nhàu, - cho đến khi ta biết về gia cảnh của nó.
- Đấy, chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ sung sướng, - chị nói.
Dẫu cho ngay bản thân chị cũng bắt đầu thấy không chắc chắn, giọng nói tươi sáng của chị bao trùm lên sự im lặng. Song chị vẫn cứ ôm đứa trẻ trèo qua đồ đạc cồng kềnh vào trong xe. Anh không phản đối. Cũng chẳng ngồi trên chiếc xe đông nghịt người bắt đầu chuyển bánh rong ruổi trên con đường xa về nhà.
- Em quên bẵng các vì sao rồi, - Amy Parker nói. Chị thoáng vui. Cả bầu trời u ám yên tĩnh, nhưng ở những khoảng trời mây đã tan, lấp lánh những vì sao như châu báu. Khi chiếc xe lóc cóc lăn trên con đường sỏi đá, ta có thể thở cùng những ngôi sao lạnh lẽo run rẩy, lấp lánh, thu nhỏ lại và sống động.
- Vâng, mưa đã tạnh. - Một người tên là Ted Fosdick nói, anh đang đi nhờ xe về nhà.
Nhưng Ossie Peabody đập dây cương và nói anh không tin điều đó cho đến mùa khô.
Mọi người bắt đầu kể lại bằng giọng mơ màng trận lụt đã đi vào lịch sử, và kể ra những thứ mà họ lấy được. Bởi vì trong trận lụt, nhiều đồ vật đã sang tay. Chẳng có tội gì cả. Đâu có phải là ăn trộm. Đó chỉ là thay đổi quyền sở hữu thôi. Bằng cách này, nồi niêu, xoong chảo, pho mát, dây dợ, từ điển địa lý thế giới thậm chí cả thùng tắm cũng đã được chuyển một cách lương thiện cho những người hành khách trên xe Peabody.
“Vợ chồng nhà Parker kiếm được đứa bé mới toanh mà chẳng mất xu nào.”
Mọi người cười vui vẻ, mơ màng, và chuyển sang chủ đề khác.
Nhưng Amy Parker ngồi đung đưa theo các vì sao, còn Stan Parker nhìn vào bóng tối, qua những hàng cây trơ trụi như những bộ xương. Đứa bé ngồi giữa hai người, hình như lắng nghe câu chuyện của các hành khách vô tư.
- Cháu có thấy ấm không? - Chị hỏi đứa bé, giọng ân cần, nghe cứ như cố gắng lắm mới nói được.
Nó không trả lời. Nó ngồi cứng đơ người. Cả ba người đều cứng đơ, đứa bé, người đàn ông và người đàn bà, tách xa những người hành khách kia. Ngồi chen chúc, cơ thể họ lắng nghe nhau. Có lẽ sau đó, khi tạm thôi không ngờ vực nhau, trong cơn buồn ngủ, cơ thể họ sẽ cuốn đi trong yêu thương.
Người Amy Parker lắc lư theo xe. Đầu chị lấp lánh những sự kiện ngày hôm đó, phát triển hay thu hẹp, lảng tránh hay hấp thụ. Vào lúc này, chị thấy tràn trề sức sống, với tất cả những sự kiện chị có trong đầu, bên trong lớp da rực đỏ của mình. Lúc xe xóc nẩy người va vào thành xe cứng, chị ngồi cứng đơ trên sàn, con đường mà theo chị phải kết thúc nhanh chóng thì lại trở nên vô tận. Thậm chí những thất bại của chị cũng được đứa bé giải thoát, đứa bé có thể sẽ thuộc về chị.
Họ đi qua cầu gỗ. Lá xòa vào mặt họ, và người tên là Ted Fosdick đang hát một bài hát về chú bé đánh trống.
Stan Parker ngồi nhớ đến thời thơ ấu kín đáo, gian khổ của mình trải suốt con đường không thể tránh khỏi. Anh có thể cảm thấy sự hằn học của cậu bé xa lạ ép chặt bên mạn sườn mình. Anh không muốn có đứa bé như vợ anh muốn. Nhưng dẫu anh không có ý định đó thì anh cũng không từ chối. Vì vậy chiếc xe vẫn đưa anh một cách đều đều qua bóng tối đang ùa tới. Chính sinh lực của anh, do kiệt sức, cũng thăng trầm dọc theo những con đường khác, hoặc anh mở cửa và bước vào những căn nhà mà anh quen biết, trong đó những bộ mặt quen thân đang chờ đợi anh hành động theo như họ mong muốn. Song vì anh cũng vậy, tuy bề ngoài nom vững chắc, anh giống như dòng đời cứ trôi tuột, không sao đoán trước được, anh bỏ mặc họ đứng đó với những lời chưa nói hết và hàm răng hé mở. Anh cũng muốn chiều lòng mọi người, nhưng anh không thể làm được. Anh cũng muốn tán đồng với niềm tin của họ về một cái gì cố định, nhưng anh không thể. Anh cũng muốn bộc bạch và tuyên bố có tôi đây. Rồi họ sẽ nhìn vào bên trong và mỉm cười đồng ý khi nhận ra những thèm khát của họ, đứng thành hàng như những đồ vật ở trong cửa hàng ngũ kim. Cứng rắn. Trong khi đó ngôi sao của anh nhấp nháy, và đám mây của anh trôi giạt xác xơ.
Chốc chốc trên đường, những người ngồi trên xe của Peabody trèo xuống, chân tay cứng đờ, trong khi những người khác còn ngủ. Chẳng mấy chốc chỉ còn có Ossie Peabody, vợ chồng Parker và đứa trẻ bị lạc. Chiếc xe vắng khách trở nên lạnh lẽo và khả năng thoát khỏi nhau thậm chí còn ít hơn.
Vì thế khi Ossie Peabody đưa họ an toàn đến tận cửa nhà thì đứa bé đứng trần trụi tuyệt vọng dưới ánh sao đêm. Nó đứng như thể đợi những ân nhân của mình phán quyết tội hình.
Trong khi đó, mọi người đang bàn tán về cái vật người chồng đang lôi từ chiếc xe ra.
- Cái gì thế? - Người vợ hỏi, vẻ ngờ vực.
- Cái thùng tắm, - người chồng trả lời và vụng về va mạnh vào thành xe trước khi lôi được xuống.
- Để làm gì? - Chị hỏi. Giọng chị đanh lại như thể vấn đề thứ hai này quá sức chịu đựng.
- Để tắm rửa trong đó, - người chồng trả lời.
- Để cho người được thơm tho còn đi lễ nhà thờ vào Chủ nhật chứ, - Ossie Peabody vừa nói vừa nhổ vào bóng tối.
- Em không biết, - người vợ nói, - là chính anh đã mang cái thùng ấy về. Làm thế nào anh lấy được?
- Nó ở đằng ấy, - người chồng nói, lấy ngón chân đá vào cái vật trống rỗng, không chủ tâm làm thế mặc dù thái độ tỏ ra là vậy. - Ở đằng ấy, - anh nói, - chẳng ai tỏ ra muốn lấy cả. Vì vậy anh đã lấy. Sẽ có ích.
- Ồ, - chị nói, giọng ngờ vực.
Trong khi hai người trao đổi, thằng bé bị lạc co dúm một chỗ, như thể trốn tránh ánh sao.
- Dẫu sao chúng ta cũng đã về đến nhà, - người vợ nói, giọng mệt mỏi trước gánh nặng về những thứ mới kiếm về.
- Nào đưa tay đây, - chị bảo thằng bé bằng một giọng phấn chấn, nhưng có đầy vẻ ra uy quyền cá nhân. - Cháu nhảy xuống được chứ? Cháu lớn lắm rồi đấy.
- Dĩ nhiên là nó làm được, - người chồng nói, và đi lăng xăng, giậm chân và cố tránh cái thùng tắm, - nó lớn rồi.
Thằng bé nhảy về phía hai vợ chồng như được bảo, rồi họ chào tạm biệt, đi vội vào bóng tối, qua những bụi hồng vào trong nhà.
Trong căn buồng, nơi họ vào, lỏng chỏng các thứ và bóng tối dày đặc thiếu không khí vì bị đóng kín, người vợ bỏ tay đứa bé ra. Trước mắt chị chỉ nghĩ đến việc tự mình làm quen với cái vỏ của mình. Chị hít thở bóng tối ấm áp và thấy dễ chịu. Chị tự nhủ mình sẽ nói chuyện với thằng bé sau, và cầm tay nó ngồi bên mép giường, nói chuyện về động vật. Chị đã biết hình dáng khuôn mặt mà chị sẽ nắm trong tay, và có lẽ vì lý do này mà chị thấy đỡ sợ bị mất nó. Trước mắt chị chỉ nghĩ đến việc đi tìm đồ. Những que diêm.
Hai vợ chồng sờ soạng chung quanh.
- Diêm đây rồi, anh Stan ơi, - chị nói.
Anh thắp đèn. Có một cái bàn, một ghế, một bếp lò đen và tro lạnh nằm trong lòng lò sưởi.
- Đây là bếp, - người chồng nói, chốc chốc lại hích khuỷu tay một cách vui vẻ.
Âm điệu không phải của anh. Nhưng anh cảm thấy mình có bổn phận phải nói, phải giải thích đôi điều cho đứa bé.
Sau đó anh đi ra ngoài tiểu, và đặt cái thùng vào nhà kho, cho nó nằm yên vị ở đó. Vợ chồng Parker lúc nào cũng thấy áy náy về cái chậu đó.
Người vợ đi lại quanh nhà, dáng vẻ oai vệ và khoan khoái trong ngôi nhà được phục hồi, sắp xếp cái này, chuyển dịch cái kia, bắt đầu nói chuyện với đứa bé, chưa trực tiếp và âu yếm như bổn phận phải làm, nhưng vẫn là nói.
- Cô chú sẽ làm cho cháu cái giường ở đây, - chị nói. - Chú sẽ kiếm cho cháu cái giường xếp đã có sẵn. Rồi sẽ tìm thêm cái chăn. Nhưng phải kiếm cái gì ăn đã. Có món thịt bò nguội. Cháu thích thịt bò không? - Chị hỏi.
- Có, chú bé nói.
- Có người lại thích ăn thịt cừu.
- Có lần cháu được ăn thịt lợn, - chú bé nói, - da của nó giòn tan.
- Chắc bố cháu nuôi lợn, - người vợ nói, chị cẩn thận xếp đĩa và dĩa lên bàn.
- Đó là con lợn ông Thompson mổ và cho nhà cháu một ít.
- À, - chị nói, lắng nghe. - Ông Thompson cho à?
Nhưng đứa bé lại câm miệng, cố tình. Cứ như nó đã quyết định một khởi đầu mới vào đêm đó, bên ngoài cửa hàng thịt ở Wullunya.
Một thoáng sau họ đều ngồi xuống ăn, mỗi người mang vẻ im lặng riêng. Người vợ và người chồng nhai thức ăn. Họ nhìn đồ đạc bằng con mắt hài lòng, bỏ ngoài tai những sự kiện hoặc quá vui mừng hồ hởi hoặc quá xấu hổ không chịu đựng nổi. Trong phòng này có nhiều thứ do chính tay họ làm ra và sử dụng. Đó là những vật tồn tại.
Nhưng chú bé không có tý gì những thứ đó. Sau khi ngốn ngấu chỗ thịt và chút khoai tây nguội rán vội cùng với thịt bò, chú ngồi im, trông chú gầy guộc, và một lát sau chú lấy ở trong túi ra một mẩu thủy tinh mà chú kín đáo cầm.
- Gì thế cháu? - Hai vợ chồng hỏi, ra chiều thỏa mãn vì thức ăn ngon.
- Mảnh thủy tinh ạ, - chú trả lời.
Tội nghiệp thằng bé, người vợ tự nhủ, mình sẽ nói chuyện với nó, nhưng để sau.
Chị phải tránh gợi lại những kỷ niệm buồn, ít nhất cũng trong chốc lát.
Còn người chồng nghĩ về những con bò. Nhưng đằng sau những suy tư đó là dòng nước nâu, cùng những cánh cửa nghẽn đầy nước, và nhớ đến cái máy khâu trên hòn đảo.
- Ơ này, phải cẩn thận, sắp đến giờ vắt sữa đấy, - anh nói.
Mọi người bắt đầu lên giường. Chú bé vào trong bếp ngủ theo đúng lời chỉ bảo. Chú làm mọi thứ người ta chỉ bảo.
- Chúc anh ngủ ngon, anh Stan, - người vợ nói. - Thật là một ngày vất vả.
Chị hôn lên miệng anh. Chị là vợ anh. Miệng chị hơi ươn ướt, và quen thuộc. Nhưng lúc anh tỳ tay thổi tắt nến, anh nhớ đến hình dáng lạ tối om của người con gái đứng ở phía trên bờ khi anh ngồi trên thuyền, rồi những bóng trắng, xanh nhờ nhợ, những bóng bông hồng bạch trên đùi vợ mình lúc anh nhanh chóng bước vào buồng. Anh vội xua đi những suy tư. Anh mệt mỏi nên rất dễ nổi cáu.
- Hừm, - anh ngáp. - Những con người đáng thương đã trôi nhà trôi cửa kia. Và chú bé kia nữa. Em thấy nó ổn cả chứ?
Giờ đây nỗi buồn mà chị không sao tránh khỏi đang ập đến người đàn bà vừa mới hôn chúc ngủ ngon chồng mình. Chị ngửi mùi bấc nến cháy mà thấy buồn buồn.
- Em không biết nữa, - chị trả lời.
Tư thế của chị trên giường không thể chịu đựng nổi.
- Chính em cứ đòi mang nó về, - anh trách.
Chị không cảm thấy mình đã từng yêu người chồng này. Chị đã quên giây phút bên bờ sông, khi mắt họ bắt gặp nhau. Chị khao khát được cái vĩnh hằng tràn đến xâm chiếm mình.
- Vâng, lỗi tại em. Em đã đưa nó về, nhưng em phải làm thế, - chị nằm trong bóng tối nói.
Nhưng chồng chị không nghe thấy, vì anh đã ngủ rồi.
Chị liền trở dậy nhanh chóng và nhẹ nhàng, như đã được quyết định từ trước chiều tối hôm đó rằng chị phải hành động vào giây phút này, và đi xuyên qua gió lạnh vào nhà bếp.
- Cháu làm gì thế? - Chị khẽ hỏi.
Nhà bếp vẫn sáng. Thằng bé nằm nghiêng, nhìn qua mảnh thủy tinh vào đống than đang lụi dần. Chú không nhìn lên, mặc dù chấp nhận sự có mặt của chị.
- Cháu vẫn còn giữ cái đó à, - chị nói và run người trong bộ áo ngủ bên cạnh giường.
- Cháu lấy ở nhà thờ đấy, - chú nói.
- Thế cháu ở gần nhà thờ à?
- Không. Sau đó kia. Sau khi cháu bị lạc mọi người. Ở gần rặng liễu. Cháu cứ nghĩ là mình đã chết, - chú nói.
- Có phải lúc đó cháu ở cùng gia đình không? - Chị hỏi.
- Cháu không thể nhớ được, - chú bé nói liến thoắng, nhìn qua mảnh thủy tinh, chị thấy nó làm má chú hồng lên, khi chú di chuyển mảnh thủy tinh, da chú là một màu đỏ thắm lướt nhanh.
- Không sao. Nếu cháu muốn thế, - chị nói và sờ vào người chú, nhưng không hy vọng lắm.
- Cô làm gì ở đây thế? - chú hỏi.
- Ồ, - chị nói, - cô sống ở đây. Đây là nhà của cô.
Nhưng da thịt chị lạnh buốt. Chị không dám chắc mình đã có những đồ đạc đó.
Chú bé nhìn bàn tay chị. Bàn tay đó nằm trên cánh tay chị như lạc lõng. Chị vẫn còn phải học những điều chị có thể sẽ nói ra.
- Cô có muốn nhìn qua cái này không? - chú hỏi. - Cháu đập vỡ một cửa kính và lấy mảnh này đấy.
- Cháu đập vỡ à!
- Chẳng còn ai cần đến nó cả, - chú nói. - Cháu lại muốn nhìn qua nó.
Rõ ràng nó là của chú.
- Thoạt đầu nó rơi xuống nước. Nhưng cháu mò lên. Cô thấy không, trong nhà thờ cũng có nước đấy.
Chị cầm lấy mảnh thủy tinh và giơ lên trước mặt, và nhìn thấy cả nhà mình nhuốm một màu đỏ thắm, còn than hồng là những khối vàng tan chảy.
- Cháu sẽ kể cô nghe về nhà thờ, - chú nói. - Ở đó có cả chim, chúng bay vào qua những lỗ hổng trên cửa sổ. Suốt ngày cháu ngủ ở đó, trên ghế, gối lên cái thứ mà mọi người quỳ lên để cầu nguyện, gọi là cái gối đệm, nhưng đau lắm. Có cá bơi trong nhà thờ. Cháu sờ vào được một con đấy. Còn sách trôi lềnh bềnh. Nước chảy, cô ạ. Mọi thứ trôi nổi và di chuyển.
- Đúng vậy, - chị nói.
Giờ đây, nước lũ lụt màu hồng tía đó cũng chiếm lĩnh chị, khi chị trườn người vào nằm cùng chú bé trên cái ghế nhà thờ. Có những thứ đã chết. Có một mặt người trôi ngay bên dưới những cây liễu.
- Thế cháu có cầu nguyện không? - chị hỏi khi bỏ miếng kính ra.
- Không, - chú nói. - Trong nhà thờ ấy chẳng có ai cầu nguyện cả, không còn ai nữa.
Họ nhìn nhau. Bỏ cái miếng kính ra, da họ nom trắng bệch.
- Này cháu, - tiếng chị như cứu vãn họ. - Cháu có thể ở lại đây, cháu ạ. Nếu cháu muốn thì đây là nhà của cháu.
- Không, không phải, - chú nói.
Chị đặt miếng kính lên khăn trải giường.
- Thôi, cháu ngủ đi, - chị bảo chú.
Chị trở lại là người thiếu phụ vụng về với vẻ tự tin học được ở kẻ khác. Giọng chị nghe chói tai và hời hợt, trong khi nhẽ ra nó phải nồng nhiệt, phải xuất phát từ đáy lòng. Vậy mà bằng giọng đó chị bộc bạch mình.
- Thôi để đến sáng hẵng hay. Cháu có đủ ấm không? Cháu cần phải được bồi dưỡng đấy. Cháu gầy lắm. Nhưng ăn uống tốt cháu sẽ lại sức.
Hình như chú bé không muốn nói chuyện với chị nữa. Chú nằm cuộn tròn lại, đầu gối lên cánh tay gập lại. Chị không thể chiếm hữu đứa bé. Vì vậy chị bỏ đi, bước qua ánh sáng màu đỏ thắm vẫn còn bám chặt lấy chị, qua ngọn gió mang lại những lời cầu nguyện đã tắt trong nhà thờ ngập lụt. Chị bước về phòng mình, trằn trọc mãi mới ngủ được.
Rồi bỗng nhiên chị nhìn thấy chồng mình đang mặc quần, ánh sáng từ ống thông phong đèn dầu tỏa ra mượt mà vàng chóe.
- Mấy giờ rồi, anh? - chị hỏi.
- Đến giờ dậy rồi, - anh nói, nghe rắn rỏi như cú quất dây thắt lưng - Bác Fritz đã đi qua sân rồi.
Thực ra chị đã nghe thấy tiếng xô quen thuộc, rồi tiếng gà trống xé toạc những mảnh vụn cuối cùng của giấc ngủ.
Họ chuẩn bị làm những việc cần thiết, không khí và nước lạnh buốt da thịt, họ đi đi lại lại, người nào biết việc người ấy, dáng trang trọng trong căn phòng, quấn tóc hoặc chải tóc, nêm chặt quần áo vào người. Rõ ràng là cuộc đời họ chưa bao giờ bị vỡ ra từng mảnh nhiều màu sắc. Họ ra ngoài qua nhà bếp, nhanh chóng và lặng lẽ đi qua chú bé đang nằm ngủ trên chiếc giường hẹp. Họ chỉ liếc nhìn chú, như ngại sẽ quấy rầy, hoặc vì lí do nào khác.
Những con bò đang đứng chổng mông dưới ánh đèn trong chuồng bên kia sân. Có cả khuôn mặt ông già người Đức còi cọc đứng đợi được thưa chuyện và nghe lời chỉ bảo. Bò đang nhai rơm. Mùi nước dãi và hơi thở của bò xông lên nồng nặc hơn hơi giá lạnh, khi người đàn bà cùng hai người đàn ông ngồi trên súc gỗ, kẹp xô vào hai đầu gối, chuẩn bị bắt đầu nghi thức.
- Mưa tạnh rồi, - ông già người Đức nói, vắt cái vú đầu tiên.
- Ừ, tạnh thật rồi, - Stan Parker nói, treo lên đinh cái giẻ lau đầu vú con bò xanh xao.
- Tôi biết là sẽ tạnh mưa mà, - ông già nói.
- Làm thế nào mà biết được, bác Fritz? - Amy Parker hỏi.
- À, - ông ta nói. - Tôi biết chứ. Đoán được mà.
Rồi tiếng rơi thánh thót của sữa.
- Lụt ra sao? - Ông già hỏi.
- Thật khủng khiếp, - Amy Parker nói. - Anh Stan biết nhiều hơn tôi. Nhưng tôi cũng được chứng kiến chút ít. Có người mất hết, không còn gì.
Ông già mút lấy chỗ sữa thơm lành.
- Chúng tôi có mang về một cái thùng tắm, bác Fritz ạ, - Stan Parker kể.
- Stan tìm thấy đấy, - người vợ nói.
Rồi họ tiếp tục vắt sữa phun mạnh từ mấy núm vú mềm như cao su của những con bò trầm tĩnh.
Stan Parker, chân vững chãi trên nền gạch sạch, đợi vợ kể câu chuyện về thằng bé lạc, nhưng hình như câu chuyện sẽ không được kể, hoặc chưa được kể.
Họ ngồi vắt sữa, bọt sữa tràn đầy miệng chiếc xô Amy Parker đang giữ. Sáng hôm đó dường như là một buổi vắt sữa vô tận, và sau đó, khi những người đàn ông còn xách những thùng chậu kêu lanh canh và những con bò còn đang túm tụm ngơ ngác, núm vú lép kẹp của chúng thõng xuống tận chân. Chị bỗng bỏ những xô sữa đó và chạy qua sân. Về nhà. Chạy thục mạng. Giờ chắc thằng bé đã dậy, chị vừa thở vừa tự nhủ. Chị sẽ kể nhiều thứ. Trong ánh sáng ban mai ta có thể hoàn thành được những gì ban đêm ta không làm nổi. Chị sẽ dùng sức mạnh của tình yêu để nhốt thằng bé trong nhà mình.
Nhưng lúc vào đến nhà bếp, chị chậm bước để trông mình không đến nỗi ngớ ngẩn, để nhịp thở không ra hơi biến thành nụ cười, thì chăn màn trên chiếc giường hẹp đã bị dồn thành khối bất động, giá lạnh. Vậy là chị cũng chẳng cần gọi. Chị nhìn vào miếng kính màu đỏ thắm bị vỡ tan trên sàn nhà thành những màu đỏ thắm khác.
Một lát sau chồng chị bước vào để ăn vội bữa sáng trước khi mang sữa đi. Chị đã bầy sẵn mọi thứ, không chê vào đâu được. Có món trứng rán cùng hồng trà mà anh thích uống đựng trong ấm tráng men xanh.
Anh cắt trứng mà cứ tưởng như đó là một chất gì rắn hơn, hay là do lơ đãng.
- Con Jewel còn hai tháng nữa, - người vợ vừa nói vừa xé những tờ lịch cũ trên quyển lịch cửa hàng gửi biếu. - Đã đến lúc thôi vắt sữa của nó.
- Thằng bé đâu rồi?
Không có gì trông thảm hại hơn cái món trứng bị băm ra trên đĩa của người khác.
- Nó không có ở đây. Nó đi rồi.
- Chúng ta không thể giữ nó lại được, - người chồng nói. - Nó không muốn ở lì một chỗ. Em thấy rồi đấy. Nó không phải của chúng ta.
- Vâng, - chị nói.
Dầu cho chị không thể hiểu hết hay giải thích nổi. Chị không thể giải thích được rằng sẽ đến lúc chính bản thân chị phải đưa ra chứng cớ rõ ràng đó về sự huyền bí của cuộc sống. Giờ đây chị đang đi quanh nhà bếp, nước da chị vào ban ngày nom xỉn và khô vì dậy sớm, hai bàn tay làm những việc thô kệch tuyệt nhiên không có liên quan đến những giây phút siêu phàm mà chị đã trải qua. Điều này làm chị nhíu mày và đẩy bàn ghế vào đúng chỗ, rồi nhặt một vỏ khoai tây xám từ cái xô rơi xuống từ lúc nãy.
- Amy, - anh nói, cố làm cho giọng mình thích hợp và chạm vào người chị sau khi đã ăn xong, đẩy cái đĩa ra xa. - Sẽ ổn thôi, em ạ.
- Vâng, - chị trả lời, dĩ nhiên là ổn thôi.
Họ gần gũi nhau. Cuộc sống của họ đã phát triển bên nhau. Họ sẽ tiếp tục theo chiều hướng đó bởi vì không thể chia cái thân mình chung của họ ra được.
Giờ đây họ đứng bên cửa sổ, cánh tay chạm vào nhau, hư hư thực thực, chị không khước từ sự tốt đẹp của cuộc sống chung. Qua cảm giác mệt mỏi của buổi ban mai, anh có thể cảm thấy điều đó trong toàn bộ con người anh vốn cũng là thành tựu. Lúc này đàn bò đi nghênh ngang qua hàng cây, đuôi ve vẩy, những cái mũi xanh chạm vào đám cỏ non mới nhú khỏi lớp bùn, hoặc cọ cổ vào lớp vỏ cây keo đen sì. Em có biết cái này không? Chắc anh đã nói thế, và cái này nữa? Cả cái này nữa? Cái mà anh tận mắt nhìn và cảm thấy bằng xương thịt. Nhưng do anh không biết nói những điều đó ra sao, anh đứng bấu vào da bàn tay chị. Mà có lẽ cũng chẳng cần phải nói nên anh bắt đầu cảm nhận bàn tay chị. Chị đã nhận ra hình thù cây cối, những cột trắng, những bóng cây khiêm tốn hơn, bờm xờm động đậy và nghiêng về phía họ trong ánh ban mai. Bầu trời chuyển động với màu xanh rực rỡ trở lại, khiến hai vợ chồng dừng lại bên cửa sổ cũng dường như chuyển động trong giây lát, đung đưa thân hình, linh hồn xao động và nhận ra những miền quê quen thuộc. Trong giây phút ấy, họ không còn giới hạn.
Sau đó, người chồng quay trở lại với đôi giày cứng quẹo và nhớ ra việc phải làm. Người vợ bỏ khăn bàn ra, cuộn gấp vào với một vẻ âu yếm. Chị thỏa mãn. Nếu chị có nghĩ đến thằng bé lạc, thì đó cũng chỉ là vì con mắt hơi lác mà chị nhớ đến trong cái đêm sáng lửa. Còn đối với những bất cập của chính chị, bây giờ chị thấy mình mạnh hơn chúng nhiều.
- Có lẽ chúng ta nên báo cảnh sát, - chị nói.
Anh nói có thể anh sẽ cưỡi ngựa đi Bangalay, nếu có thời gian, vào buổi chiều.
Không ai biết điều gì đã xảy đến với thằng bé mà vợ chồng Parker tìm thấy ở Wullunya trong trận lụt. Sau đó nước rút ngay, để lại một lớp bùn vàng nhơm nhớp và rất nhiều rắn màu nâu. Dân chúng sắp xếp lại đồ đạc của mình, và tìm lại một số ít đã thất lạc, rồi dần dần người ta không nhắc đến trận lụt nữa.
Chỉ thỉnh thoảng ở Durilgai người ta lại nhớ đến những chiếc xe chật ních những người tình nguyện cao quý tới cứu các nạn nhân vùng lụt. Không biết là làm thế nào và tại sao cái quận mà vợ chồng Parker sống lại có cái tên đó, nhưng chính vào thời kỳ lũ lụt nó chính thức có tên Durilgai. Nó có nghĩa là “sung túc”, một người bạn của ông Armstrong, một giáo sư hay cái gì đó, đã nói vậy. Song người dân sống trong quận không thích dùng cái tên đó, suốt một thời gian dài, trừ bưu điện, như có gì đó mong mỏi ở họ mà họ không thể, hoặc không thiết thực hiện.
Amy Parker giảm bớt tốc độ bàn tay khi thoăn thoắt viết, và tự đọc bằng hơi thở tràn ngập tư lự. Chị thường nghiêm sắc mặt khi có người lạ nhắc đến cái tên chính thức đó, và chị tiếp tục nhắc đến cái quận của mình bằng cái tên những người sở hữu đất trong vùng đặt cho. Thỉnh thoảng chị ngồi bên bụi hồng bạch nở to, tay luống cuống không biết dùng vào việc gì, ở một nơi thuộc về “gia đình Parker” và nhìn vào con đường.
Cây Người Cây Người - Patrick White Cây Người