Chương 3
húng tôi loạng choạng vừa chạy vừa vấp qua khu rừng tối đen trong quãng thời gian có vẻ như hàng giờ, không có mặt trang hay vì sao nào để dùng ước lượng thời gian đã trôi qua. Tiếng người hò hét và tiếng chó sủa vang vọng xung quanh trong khi chúng tôi chạy, đe dọa chúng tôi từ mọi phía mà cũng chẳng biết từ đâu. Để cắt đuôi không cho lũ chó lần theo hơi mình, chúng tôi lội xuống một dòng suối lạnh cóng và đi theo nó cho tới khi các bàn chân chúng tôi tê cóng, và khi chúng tôi lội từ suối lên, có cảm giác như tôi đang loạng choạng trên hai đầu mỏm chân cụt bị kim loại châm buốt nhói.
Sau một thời gian, chúng tôi bắt đầu hụt hơi. Ai đó rên lên trong bóng tối. Olive và Claire bắt đầu tụt lại đằng sau, Bronwyn bèn đưa tay ra dìu hai cô bé, nhưng sau đó đến cô cũng không thể tiếp tục thêm nữa. Cuối cùng, khi Horace vấp phải một cái rễ cây ngã vật ra đất rồi nằm đó khẩn khoản xin dừng lại nghỉ chân, tất cả chúng tôi bèn dừng lại. “Dậy, đồ lười biếng!” Enoch rít lên với cậu ta, nhưng bản thân anh chàng cũng thở hổn hển, sau đó Enoch tựa lưng vào một cái cậy thở lấy hơi, và tính hăng máu có vẻ đã trôi tuột hết khỏi cậu ta.
Chúng tôi đã tới ngưỡng tột cùng của sức chịu đựng. Chúng tôi phải dừng lại.
“Dù sao cứ chạy vòng quanh trong bóng tối thế này cũng vô ích,” Emma nói. “Chúng ta hoàn toàn có thể kết thúc ở đúng chỗ bắt đầu.”
“Chúng ta sẽ có thể cảm nhận được tốt hơn về cánh rừng này dưới ánh sáng ban ngày,” Millard nói.
“Với điều kiện chúng ta sống được lâu đến thế,” Enoch nói.
Một cơn mưa nhẹ rơi xuống. Fiona tạo ra một nơi trú mưa cho chúng tôi bằng cách dỗ dành một vòng cây ngả các cành thấp xuống kề sát vào nhau, nựng nịu vuốt ve lớp vỏ cây và thì thầm với các thân cây cho tới khi các cành đan lại tạo thành một tấm mái lá không cho nước lọt qua, vừa đủ cao để chúng tôi có thể ngồi bên dưới. Chúng tôi bò vào trong, ngồi đó lắng nghe mưa rơi và tiếng sủa xa xa của lũ chó. Ở đâu đó trong rừng, những kẻ có súng vẫn đang truy lùng chúng tôi. Chỉ còn lại một mình cùng những ý nghĩ trong đầu, tôi tin chắc mỗi người trong chúng tôi đều đang băn khoăn cùng một thứ - chuyện gì sẽ xảy ra với chúng tôi nếu chúng tôi bị bắt.
Claire bắt đầu khóc, thoạt đầu khe khẽ, nhưng rồi ngày càng to hơn, cho tới khi cả hai cái miệng của cô đều khóc to, và cô bé hầu như không thể thở được giữa những tiếng nức nở.
“Im lặng nào!” Enoch nói. “Chúng sẽ nghe thấy cậu mất. đến lúc đó tất cả chúng ta sẽ có lý do để khóc đấy!”
“Chúng sẽ mang chúng mình ra cho chó ăn!” cô bé nói. “Chúng sẽ bắn thủng nhiều lỗ lên người chúng ta và bắt cô Peregrine đi!”
Bronwyn nhích sát vào ôm chặt lấy cô bé trong vòng tay mạnh mẽ của mình. “Làm ơn nào, Claire! Cậu phải nghĩ về thứ gì khác đi!”
“Tớ đã… đang cố đây!” cô bé nức nở.
“Cố hơn nữa đi!”
Claire nhắm tịt mắt lại, hít một hơi thật sâu, và nín thở cho tới khi trông cô như một quả bóng sắp vỡ tung – rồi òa lên vừa ho nấc vừa khóc còn ầm ĩ hơn lúc trước.
Enoch bịt hai bàn tay che lên miệng cô. “Suỵỵỵt!”
“Tớ x… x… xin lỗi!” cô bé thổn thức. “C… có thể nếu tớ được nghe một câu chuyện… một trong nh… Những truyện kể….”
“Đừng có lại thế nữa,” Millard nói. “Tớ bắt đầu ước gì chúng ta mất luôn mấy cuốn sách khỉ gió ấy cùng những thứ khác ngoài biển cho rồi!”
Cô Peregrine lên tiếng - ở mức độ tình trạng của cô cho phép - nhảy lên trên nắp cái rương của Bronwyn và lấy mõ mổ mổ xuống. Bên trong, cùng những gì còn lại trong đống của nả ít ỏi của chúng tôi, là bộ Những truyện kể.
“Tớ đồng ý với cô P,” Enoch nói. “Cũng đáng thử đấy… bất cứ cái gì để ngăn cậu ta gào tướng lên!”
“Được rồi, cô bé,” Bronwyn nói, “nhưng chỉ một chuyện thôi, và cậu phải hứa sẽ thôi khóc!”
“Tớ h… hứa,” Claire thút thít.
Bronwyn mở rương lấy ra một tập Những truyện kể về người đặc biệt bị ngấm nước. Emma nhích lại gần, thắp lên một đốm lửa nhỏ nhất có thể trên đầu ngón tay để lấy ánh sáng đọc. Sau đó, cô Peregrine, nóng lòng muốn dỗ yên Claire, ngậm lấy mép bìa sách và mở cuốn sách tới một chương có vẻ ngẫu nhiên. Bằng giọng khe khẽ, Bronwyn bắt đầu đọc.
“Ngày xửa ngày xưa vào thời kỳ đặc biệt, trong một khu rừng sâu cổ kính có vô vàn động vật sinh sống. Có thỏ, hươu và cáo, cũng giống như mọi khu rừng, nhưng còn cả những con vật ít gặp hơn, như gấu chân cà kheo, linh miêu hai đầu và bán lừa cao cổ biết nói. Những động vật đặc biệt này là mục tiêu ưa thích của đám thợ săn, họ thích bắn chúng rồi treo lên tường để khoe khoang với đám bạn thợ săn của bọn họ, nhưng điều những kẻ này còn thích hơn là bán chúng cho các chủ vườn thú, đám đó sẽ nhốt chúng vào chuồng rồi thu tiền ai muốn ngắm nhìn chúng. Đến đây, bạn có thể cho rằng bị nhốt trong chuồng hẳn là tốt hơn nhiều so với bị bắn và treo lên tường, nhưng để cảm thấy hạnh phúc, những con vật đặc biệt phải được tự do chạy nhảy, và sau một thời gian, tinh thần những con vật bị giam hãm trong chuồng suy sụp, rồi chúng bắt đầu ghen tị với những bạn bè treo trên tường của chúng.”
“Câu chuyện này buồn quá,” Claire càu nhàu. “Kể chuyện khác đi.”
“Tớ thích nó,” Enoch nói. “Kể tiếp về chuyện săn bắn và treo lên tường đi.”
Bronwyn tảng lờ cả hai. “Đây là thời những người khổng lồ vẫn còn bước đi trên trái đất,” cô đọc tiếp, “như trong thời Aldinn cách đây lâu lắm, dù số lượng họ rất ít và đang giảm dần. Và tình cờ một trong những người khổng lồ này sống gần khu rừng, ông rất tốt bụng, nói năng rất nhẹ nhàng và chỉ ăn thực vật, tên ông là Cuthbert. Một ngày nọ, Cuthbert đi vào rừng hái quả mọng thì nhìn thấy một gã thợ săn đang săn một con bán lừa cao cổ. Vốn là một người khổng lồ tốt bụng, Cuthbert cầm lấy cái cổ dài của con bán lừa cao cổ bé bỏng, và bằng cách đứng kiễng chân lên hết mức, điều ông hiếm khi làm vì nó khiến cả bộ xương già nua của ông kêu răng rắc, Cuthbert có thể với lên rất cao và đặt con bán lừa cao cổ lên một đỉnh núi, tránh xa nguy hiểm. Sau đó, để chắc ăn, ông kệp nát bét gã thợ săn giữa các ngón chân mình.”
“Tiếng tăm về lòng tốt của Cuthbert lan đi khắp khu rừng, và chẳng mấy chốc những con vật đặc biệt tìm tới chỗ ông mỗi ngày, xin được nhấc lên đỉnh núi tránh khỏi vòng nguy hiểm. Và Cuthbert nói, ‘Ta sẽ bảo vệ các em, hỡi các em trai và em gái bé nhỏ. Để đổi lại, ta chỉ yêu cầu duy nhất một điều là các em hãy trò chuyện và bầu bạn với ta. Không còn nhiều người khổng lồ trên thế gian này, và thỉnh thoảng ta cảm thấy cô đơn.’
Những con vật bèn nói, ‘Tất nhiên rồi, Cuthbert, chúng em sẽ làm thế.’
“Vậy là mỗi ngày Cuthbert lại cứu thêm nhiều con vật đặc biệt khỏi tay đám thợ săn, cầm cổ chúng nhấc chúng lên núi, cho tới khi có cả một bầy động vật đặc biệt trên đó. Những con vật hạnh phúc trên đó vì chúng cuối cùng có thể sống bình yên, còn Cuthbert cũng hạnh phúc, vì nếu đứng kiễng chân tựa cằm lên đỉnh núi, ông có thể trò chuyện với những người bạn mới của mình như hằng mong. Thế rồi đến buổi sáng nọ, một phù thủy tới gặp Cuthbert. Ông đang tắm trong một hồ nước nhỏ dưới chân núi thì bà ta nói với ông, ‘Tôi rất xin lỗi, nhưng giờ tôi buộc phải biến anh thành đá đây.’
“ ‘Tại sao bà có thể làm như thế?’ người khổng lồ hỏi. ‘Tôi rất tốt bụng kia mà. Tôi là một người khổng lồ tử tế.’
“Bà ta đáp, ‘Tôi được gia đình người thợ săn anh đã giẫm bẹp thuê.’
“ ‘À,’ người khổng lồ đáp. ‘Tôi đã quên mất anh ta.’
“ ‘Tôi rất xin lỗi,’ bà phù thủy lại nói, rồi sau đó bà ta vung một cành cây cáng lò chĩa vào người khổng lồ và Cuthbert tội nghiệp biến thành đá.
“Đột nhiên Cuthbert trở nên nặng trich, nặng đến mức ông bắt đầu chìm xuống hồ. Ông chìm, chìm mãi, không ngừng chìm xuống cho tới khi nước ngập lên tới tận cổ ông. Những người bạn động vật của Cuthbert nhìn thấy điều đang xảy ra, và cho dù cảm thấy điều đó thật kinh khủng, chúng vẫn quyết định mình không thể làm gì giúp ông.
“ ‘Ta biết các em không thể cứu ta,’ Cuthbert hét vọng lên với các bạn mình, ‘nhưng ít nhất hãy tới nói chuyện với ta! Ta bị mắc kẹt dưới này rồi, cô đơn lắm!’
“ ‘Nhưng nếu bọn em xuống đó, đám thợ săn sẽ bắn bọn em!’ chúng đáp lại.
“Cuthbert biết chúng có lý, nhưng ông vẫn cầu khẩn chúng.
“ ‘Hãy nói chuyện với ta! Ông kêu lên. ‘Làm ơn hãy tới nói chuyện với ta!’
“Những con vật cố hát và hét vọng tới chỗ Cuthbert tội nghiệp từ đỉnh núi an toàn của chúng, nhưng chúng ở quá xa mà giọng chúng thì quá nhỏ, vì thế ngay cả khi có đôi tai khổng lồ, đối với Cuthbert, những âm thanh đó vẫn chỉ khẽ hơn cả tiếng lá xào xạc trong gió.
“ ‘Nói chuyện với ta đi!’ ông cầu khẩn. ‘Hãy tới nói chuyện với ta!’
“Nhưng chúng chẳng bao giờ tới. Và đến tận khi cổ họng biến thành đá như phần cơ thể còn lại, người khổng lồ vẫn khẩn khoản gọi. Hết chuyện.”
Bronwyn gập sách lại.
Claire có sẽ sững sờ. “Thế là hết à?”
Enoch bật cười.
“Thế là hết,” Bronwyn nói.
“Chuyện gì mà khiếp quá,” Claire nói. “Kế chuyện khác đi!”
“Một chuyện là một chuyện,” Emma nói, “giờ thì đến lúc đi ngủ rồi.”
Claire trề môi phụng phịu, nhưng đã nín khóc, vậy là câu chuyện đã hoàn thành nhiệm vụ của nó.
“Ngày mai không có vẻ gì là sẽ dễ dàng hơn hôm nay đâu,” Millard nói. “Chúng ta cần tranh thủ nghỉ ngơi được chừng nào hay chừng đó.”
Chúng tôi cạy những mảng rêu êm ái xếp lại làm gối, Emma dùng hai bàn tay hong khô nước mưa ngấm vào rêu trước khi chúng tôi kê chúng xuống dưới đầu. Không có chăn, chúng tôi nép sát vào nhau lấy hơi ấm: Bronwyn ôm lấy mấy đứa trẻ nhỏ nhất; Fiona ôm lấy Hugh, những con ong bay ra rồi chui vào qua cái miệng mở ra của cậu ta khi cậu ta ngáy để canh gác cho cậu chủ đang ngủ của chúng; Horace và Enoch run rẩy tựa lưng vào nhau, quá kiêu hãnh nên không chịu ôm lấy nhau; còn tôi thì với Emma. Tôi nằm ngả lưng xuống đất, còn cô nằm trong vòng tay tôi, gối đầu lên ngực tôi, khuôn mặt cô kề sát mặt tôi mời gọi tới mức tôi có thể hôn lên trán cô bất cứ lúc nào tôi thích - và chắc tôi đã không ngừng lại nếu không phải vì tôi đã mệt rũ còn cô ấm áp như một chiếc chăn sưởi điện, vậy là chẳng mấy chốc tôi đã ngủ thiếp đi và mơ về những điều vui vẻ, có thể quên đi được.
Tôi chẳng bao giờ nhớ những giấc mơ đẹp; chỉ có những giấc mơ xấu lưu lại.
Xét tới hoàn cảnh thì việc tôi có thể ngủ được quả là một điều kỳ diệu. Ngay cả khi ở đây - khi đang chạy trốn bảo mạng, ngủ ngoài trời đối mặt với cái chết - ngay cả khi ở đây, trong vòng tay cô, tôi vẫn có thể tìm thấy chút bình yên.
Cô Peregrine đảo mắt quan sát tất cả chúng tôi, đôi mắt đen của bà ánh lên mờ mờ trong bóng tối. Dù bị thương và không thể làm gì được, bà vẫn là người bảo vệ cho chúng tôi.
Buổi đêm trở nên lạnh buốt, Claire bắt đầu run rẩy và ho. Bronwyn lay Emma dậy và nói, “Tiểu thư Bloom, mấy đứa bé cần cậu đấy; tớ sợ cô bé bị ốm rồi,” vậy là sau khi thầm thì xin lỗi, Emma rời khỏi vòng tay tôi để qua chăm sóc cho Claire. Tôi cảm thấy một thoáng ghen tị, rồi đến cảm giác tội lỗi vì đã ghen tị với một người bạn đang ốm. Vậy là tôi nằm một mình, không hiểu sao lại cảm thấy bị bỏ rơi và nhìn chằm chằm vào bóng tối, kiệt quệ hơn bao giờ hết, nhưng lúc này lại không tài nào ngủ được, tôi đành lắng nghe những người khác cựa mình ú ớ trong những cơn ác mộng không thể sánh ngang với thực tế chúng tôi nhiều khả năng phải đối diện khi thức dậy. Và cuối cùng bóng tối dần dần bị gỡ đi từng lớp một, bầu trời sáng dần, từ từ đến mức không thể nhận ra, chuyển sang màu xanh nhạt dịu dàng.
***
Vào lúc rạng đông, chúng tôi chui ra khỏi nơi trú chân của mình. Tôi phủi rêu khỏi tóc và cố gắng gột bùn khỏi cái quần đang mặc nhưng công cốc, bùn chỉ càng lan rộng ra thêm, khiến tôi trông giống một tạo vật bằng bùn vừa được khạc ra từ lòng đất. Tôi chưa bao giờ biết đến cảm giác đói cồn cào tới mức này, bụng tôi như đang tự gặm lấy chính nó, và bất cứ chỗ nào có thể đau, tôi đều cảm thấy đau, kết quả từ việc chèo thuyền và chạy trốn, rồi ngủ qua đêm trên mặt đất. Dẫu vậy, cũng có vài điều may mắn: trong đêm mưa đã ngừng, ngày mới đang dần ấm lên, chúng tôi có vẻ đã thoát khỏi đám xác sống và lũ chó của chúng, ít nhất vào lúc này; hoặc chúng đã thôi sủa, hoặc chúng đã ở quá xa nên khó mà nghe thấy.
Để làm được việc đó, chúng tôi đã khiến chính mình lạc đường đến vô vọng. Vào ban ngày, tìm đường trong khu rừng này cũng chẳng dễ hơn ban đêm. Những cây linh sam cành lá xanh um trải ra bất tận thành từng hàng lộn xộn, nhìn về hướng nào cũng giống như nhìn vào hình ảnh phản chiếu của những hướng khác trong gương. Mặt đất ở đây như tấm thảm lá rụng che đi mọi dấu vết của chúng tôi tạo ra đêm hôm trước. Chúng tôi đã thức giấc trong lòng một mê cung xanh mà không có bản đồ hay la bàn, và bên cánh gãy của cô Peregrine đồng nghĩa với việc bà không thể bay lên cao quá ngọn cây để dẫn đường cho chúng tôi. Enoch đề xuất chúng tôi đưa Olive lên phía trên rừng cây như đã làm giữa màn sương mù, nhưng chúng tôi chẳng có cuộn dây nào để giữ cô lại, và nếu cô bé bị tuột ra và bay vút lên trời, chúng tôi sẽ chẳng bao giờ kéo cô xuống trở lại được.
Claire đã ốm và ngày càng ốm nặng hơn, cô nằm co quắp trong lòng Bronwyn, mồ hôi trán rịn ra bất chấp trời lạnh. Cô bé gầy tong teo đến mức tôi có thể đếm hết xương sườn dưới lớp váy.
“Cậu ấy sẽ ổn chứ?” tôi hỏi.
“Con bé bị sốt,” Bronwyn nói, áp một bàn tay lên má cô bé. “Cô bé cần thuốc.”
“Trước hết chúng ta sẽ phải tìm đường ra khỏi khu rừng mắc dịch này,” Millard nói.
“Trước hết chúng ta cần ăn,” Enoch nói. “Chúng ta hãy ăn và thảo luận những lựa chọn của chúng ta.”
“Lựa chọn nào?” Emma nói. “Cứ chọn một hướng và chúng ta sẽ đi theo hướng đó. Hướng nào cũng như nhau cả thôi.”
Chúng tôi rầu rĩ im lặng ngồi ăn. Lúc trước tôi chưa bao giờ thử qua đồ ăn của chó, nhưng tôi biết chắc bữa ăn này còn tệ hơn - những miếng thịt béo ngậy màu nâu xỉn xúc từ trong những cái hộp đã hoen gỉ, và vì không có dụng cụ, chúng tôi phải dùng ngón tay để xúc.
“Tớ đã đóng hộp năm con gà mái tơ ướp muối, ba hộp gan ngỗng béo cùng dưa chuột muối,” Horace cay đắng nói, “và đây là tất cả những gì còn sót sau vụ chìm thuyền của chúng ta.” Cậu ta bịt mũi rồi thả một cục thức ăn bèo nhèo dính dính xuống cổ họng nuốt chửng. “Tớ nghĩ chúng ta đang bị trừng phạt.”
“Vì cái gì?” Emma nói. “Chúng ta vẫn luôn là những thiên thần hoàn hảo. À phải, phần lớn chúng ta.”
“Tội lỗi từ những kiếp trước, có lẽ là thế. Tớ không biết.”
“Những người đặc biệt không có kiếp trước,” Millard nói. “Chúng ta sống tất cả các kiếp cùng một lúc.”
Chúng tôi nhanh chóng xong bữa, chôn những cái hộp rỗng đi rồi chuẩn bị lên đường. Đúng lúc chúng tôi sắp khởi hành, Hugh lao vụt qua một đám cây bụi dày đặc vào khu trại tạm bợ của chúng tôi, lũ ong quần lượn quanh đầu cậu ta thành một đám mây náo động. Cậu ta hổn hển thở không ra hơi vì kích động.
“Cậu đã biến đi đâu vậy?” Enoch hỏi.
“Tớ cần được riêng tư một chút để làm chút chuyện buổi sáng, mà lo đến chuyện của cậu đi,” Hugh nói, “và tớ tìm thấy… ”
“Ai cho phép cậu biến ra khỏi tầm mắt hả?” Enoch nói. “Bọn tớ thiếu chút nữa đã rời đi không có cậu đấy!”
“Ai nói là tớ cần được cho phép hả? Dù thế nào đi nữa, tớ thấy…”
“Cậu không thể cứ lang thang bỏ đi như thế! Sẽ thế nào nếu cậu bị lac?”
“Chúng ta vốn đã lạc rồi.”
“Đồ ngốc! Sẽ thế nào nếu cậu không thể tìm được đường quay lại?”
“Tớ rải lại sau một chuỗi ong đánh dấu đường, như mọi lần… ”
“Cậu làm ơn để cậu ấy nói hết xem nào!” Emma gắt lên.
“Cảm ơn,” Hugh nói, rồi sau đó cậu ta quay lại chỉ ngược về phía vừa chạy lại. “Tớ thấy nước. Rất nhiều, sau những hàng cây đằng kia.”
Khuôn mặt Emma tối sầm lại. Cô nói, “Chúng ta đang cố tránh xa biển, chứ không phải trở lại đó. Hẳn chúng ta đã vòng ngược trở lại trong đêm.”
Chúng tôi đi theo Hugh quay lại con đường cậu ta vừa theo đó đi tới. Bronwyn mang cô Peregrine trên vai và bế Claire tội nghiệp đang ốm trên tay. Sau chừng chín mươi mét, một bề mặt xám xịt với những vệt sáng lấp lánh xuất hiện sau các tán cây; một vùng nước rộng lớn nào đó.
“Ôi, thật kinh khủng,” Horace nói. “Chúng đã dồn chúng ta trở lại đúng tay chúng!”
“Tớ chẳng nghe thấy tiếng tên lính nào cả,” Emma nói. “Thực ra, tớ chẳng nghe thấy gì cả. Thậm chí cả tiếng đại dương.”
Enoch nói, “Bởi vì không phải là đại dương, đồ đần,” rồi cậu ta đứng lên chạy về phía mặt nước. Khi chúng tôi bắt kịp, cậu ta đang đứng giẫm chân trong cát ướt, ngoái lại nhìn chúng tôi với nụ cười Tớ đã bảo rồi mà đắc thắng. Cậu ta nói đúng: đây không phải là biển. Đây là một hồ nước xám xịt, phủ đầy sương mù, rất rộng, bao quanh là rừng linh sam, bề mặt bình lặng của nó phẳng lì láng bóng như mặt đá xám. Nhưng tôi đã không nhận ra được ngay nét nổi bật nhất; cho tới khi Claire chỉ về phía một khối đá lớn nhô lên khỏi mặt nước nông gần đó. Thoạt đầu, đôi mắt tôi lướt nhanh qua nó, nhưng sau đó trở lại quan sát thêm lần thứ hai. Có điều gì đó kỳ quái ở tảng đá này - và nhất định là quen thuộc.
“Đó là người khổng lồ trong câu chuyện!” Claire nói, chỉ tay về phía nó trong khi vẫn nằm trong vòng tay Bronwyn. “Đó là Cuthbert!”
Bronwyn xoa đầu cô bé. “Thôi nào, cậu đang bị sốt.”
“Đừng ngớ ngẩn thế,” Enoch nói. “Đó chỉ là một tảng đá thôi.”
Nhưng không phải vậy. Dù đã bị gió và mưa bào mòn đi ít nhiều đường nét, tảng đá trông đúng là giống một người khổng lồ bị chìm đến tận cổ dưới hồ. Người ta có thể thấy rõ nó có một cái đầu, một cái cổ, có cả mũi, thậm chí cả yết hầu, và một vài lùm cây rậm rạp mọc lên trên đỉnh khối đá như một chỏm tóc bù xù. Nhưng điều thực sự kỳ lạ là tư thế của cái đầu - nó ngả ra đằng sau, miệng há to, như thể, giống như người khổng lồ trong câu chuyện chúng tôi vừa nghe tối hôm trước, ai đó đã bị biến thành đá trong khi cố gọi những người bạn của mình trên đỉnh núi.
“Và nhìn kìa!” Olive nói, chỉ vào một vách đá vươn cao lên đằng xa. “Đó chắc là ngọn núi của Cuthbert!”
“Những người khổng lồ có thực,” Claire lẩm bẩm, giọng yếu ớt nhưng đầy ngỡ ngàng. “Và Những truyện kể cũng thế!”
“Đừng có đi tới những kết luận lố bịch,” Enoch nói. “Khả năng nào có vẻ dễ đúng hơn đây? Người viết câu chuyện chúng ta đọc tối qua lấy cảm hứng từ một tảng đá tình cờ có hình dạng giống như một cái đầu khổng lồ, hay tảng đá hình đầu người này thực sự là một người khổng lồ?”
“Cái gì cậu cũng lấy ra để pha trò được,” Olive nói. “Tớ tin vào những người khổng lồ, cho dù cậu không tin đi nữa!”
“Những truyện kể chỉ là các câu chuyện thôi, không hơn.” Enoch càu nhàu.
“Hay thật đấy,” tôi nói, “đó chính xác là điều tớ đã nghĩ về tất cả các cậu, trước khi tớ gặp các cậu.”
Olive bật cười. “Jacob, cậu ngốc thật. Cậu thực sự nghĩ chúng tớ đều chỉ được tưởng tượng ra sao?”
“Tất nhiên. Và thậm chí sau khi gặp các cậu tớ vẫn nghĩ thế trong một thời gian. Như kiểu nghĩ là có thể tớ đã bị mất trí.”
“Có thật hay không thì đây cũng là một sự trùng hợp khó tin nổi,” Millard nói. “Vừa mới đọc câu chuyện đó tối hôm qua, thế rồi gặp đúng bối cảnh đã truyền cảm hứng cho nó ngay sáng hôm sau ư? Có bao nhiêu cơ hội nhỉ?”
“Tớ không nghĩ đây là sự trùng hợp,” Emma nói. “Chính cô Peregrine đã giở sách ra, nhớ không? Cô chọn câu chuyện đó hẳn là có mục đích.”
Bronwyn quay sang nhìn con chim đang đậu trên vai mình và nói, “Phải vậy không, cô P? Tại sao?”
“Bởi vì nó có ý nghĩa nào đó,” Emma nói.
“Chắc chắn rồi,” Enoch nói. “Nó có nghĩa là chúng ta cần đi tới leo lên vách đá kia. Khi đó có lẽ chúng ta sẽ tìm thấy đường ra khỏi khu rừng này!”
“Ý tớ là câu chuyện có ý nghĩa nào đó,” Emma nói. “Trong câu chuyện, người khổng lồ muốn gì nào? Thứ ông ấy yêu cầu hết lần này đến lần khác ấy?”
“Ai đó để nói chuyện cùng!” Olive trả lời như một học sinh năng nổ.
“Chính xác,” Emma nói. “Vậy nếu ông ta muốn nói chuyện, chúng ta hãy lắng nghe những gì ông ta có để nói.” Nói xong, cô lội xuống hồ.
Chúng tôi quan sát cô lội ra, có phần hơi lúng túng.
“Cậu ấy đi đâu thế?” Millard hỏi. Có vẻ cậu ta muốn hỏi tôi. Tôi lắc đầu.
“Chúng ta đang bị đám xác sống săn đuổi!” Enoch hét với theo Emma. “Chúng ta đã hoàn toàn bị lạc! Cậu đang nghĩ tới cái quỷ quái nào vậy?”
“Tớ đang nghĩ như một người đặc biệt!” Emma quát lại. Cô bì bõm lội qua làn nước nông tới chân tảng đá, sau đó leo lên hàm nó và nhìn vào trong cái miệng đang há ra của nó.
“Thế nào?” tôi gọi. “Cậu thấy gì vậy?”
“Không biết!” cô trả lời. “Trông như thể bên trong chạy sâu xuống dưới. Tốt hơn tớ nên lại nhìn gần hơn!”
Emma trèo vào trong khuôn miệng bằng đá của người khổng lồ.
“Tốt hơn cậu nên leo xuống khỏi chỗ đó, không lại làm sao bây giờ!” Horace gọi lớn. “Cậu đang khiến mọi người lo lắng đấy.”
“Cậu thì cái gì chả lo,” Hugh nói.
Emma ném thêm một hòn đá xuống dưới cổ họng người khổng lồ, lắng nghe âm thanh vọng lại. Cô đang dợm nói “Tớ nghĩ chỗ này có thể là một…” thì trượt chân trên những hòn sỏi rời, và từ cuối cùng cô nói bị sót mất khi cô toài người bám lại kịp thời, suýt ngã.
“Cẩn thận!” tôi gọi lớn, tim đập thình thịch. “Đợi đã, tớ cũng tới đây!”
Tôi bì bõm lội xuống hồ theo sau cô.
“Nó có thể là cái gì cơ?” Enoch hỏi.
“Chỉ có một cách để tìm ra thôi!” Emma nói đầy kích động, rồi đi sâu hơn vào miệng người khổng lồ.
“Ôi, Chúa ơi,” Horace thốt lên. “Cậu ấy đi vào kìa… ”
“Đợi đã!” tôi lớn tiếng gọi lần nữa, nhưng Emma đã đi, rồi biến mất xuống dưới cổ họng người khổng lồ.
***
Khi lại gần, trông người khổng lồ có vẻ to hơn so với khi nhìn từ trên bờ, và khi ngó xuống cuống họng tối om của nó, tôi dám thề tôi gần như có thể nghe thấy ông lão Cuthbert hít thở. Tôi khum hai bàn tay lại gọi tên Emma. Chính giọng nói của tôi vọng trở lại. những người khác lúc này cũng đang lội xuống hồ, nhưng tôi không thể đợi họ - nhỡ Emma đang gặp nguy hiểm dưới đó thì sao? Tôi bèn nghiến chặt răng, thả hai chân vào bóng tối, rồi buông mình xuống.
Tôi rơi khá lâu. Trong hẳn một giây. Rồi ùm – một cú rơi vào nước lạnh tới mức làm tôi há hốc miệng, tất cả các sợi cơ trên người đồng loạt co thắt lại. Tôi đã phải tự nhắc mình khóa nước nếu không muốn chìm nghỉm. tôi đang ở trong một cái hang hẹp tối mờ mờ ngập đầy nước, không có đường nào để leo trở lên cái họng dài trơn tuột của người khổng lồ; không dây thừng, không thang, không bậc để chân. Tôi lớn tiếng gọi Emma, nhưng khắp xung quanh không thấy bóng dáng cô đâu.
Ôi Chúa ơi, tôi thấm nghĩ. Cô ấy chết đuối rồi!
Nhưng rồi có thứ gì đó chạm vào cánh tay tôi, và các bong bóng nước bắt đầu sủi lên khắp xung quanh tôi, rồi một khoảnh khắc sau Emma trồi lên mặt nước, hổn hển thở lấy hơi.
Trông cô có vẻ vẫn ổn trong ánh sáng mờ nhạt. “Cậu đang đợi gì vậy?” cô nói, dùng bàn tay khỏa nước như thể muốn tôi cùng lặn xuống với mình. “Đi thôi!”
“Cậu mất trí à?” tôi nói. “Bọn mình đang bị mắc kẹt ở đây!”
“Tất nhiên là không!” cô nói.
Giọng nói của Bronwyn gọi xuống từ bên trên. “Xiiin chào, tớ nghe thấy hai người dưới đó! Các cậu tìm thấy gì thế?”
“Tớ nghĩ chỗ này là lối vào một Vòng Thời Gian!” Emma đáp lại. “Bảo mọi người nhảy xuống và đừng sợ. Tớ và Jacob sẽ gặp các cậu ở phía bên kia!”
Rồi sau đó cô cầm tay tôi, và dù không hoàn toàn hiểu chuyện gì đang diễn ra, tôi vẫn hít một hơi thật sâu và để cô kéo mình xuống dưới mặt nước. Chúng tôi lộn ngược người đạp chân bơi xuống dưới hướng đến một cái lỗ vừa cỡ người chui lọt trên vách đá, qua đó có thể nhìn thấy một tia sáng ban ngày. Emma đẩy tôi vào trong rồi theo sau, và chúng tôi bơi qua một lối thông dài chừng ba mét, sau đó chui ra hồ. Phía trên chúng tôi, tôi có thể nhìn thấy bề mặt nước dập dềnh, và ở trên nữa là bầu trời xanh được khúc xạ qua làn nước, và khi chúng tôi bơi lên hướng về phía nó, nước ấm lên nhanh chóng. Sau đó, chúng tôi nhô lên khỏi mặt nước, há miệng thở lấy hơi, và ngay lập tức tôi có thể cảm thấy thời tiết đã thay đổi: lúc này trời nóng và oi bức, và ánh sáng đã chuyển sang ráng chiều vàng óng. Cả độ sâu của hồ nước cũng đã thay đổi - giờ đây nước đã dâng lên tới tận cằm người khổng lồ.
“Thấy chưa?” Emma cười hân hoan. “Chúng ta đang ở một chỗ khác!”
Và thế là chúng tôi đã đi vào một Vòng Thời Gian - từ bỏ buổi sáng mát mẻ của năm 1940 để tới một buổi chiều nóng bức của một năm nào đó xa xưa hơn, cho dù thật khó nói rõ xa xưa hơn bao lâu ở giữa chốn rừng già này, cách xa những manh mối có thể cung cấp dữ liệu của thế giới văn minh.
Từng người một, những đưa trẻ khác nhô lên khỏi mặt nước quanh chúng tôi, và khi trông thấy sự vật thay đổi nhiều đến mức nào, họ cũng đã tự mình hiểu ra.
“Các cậu có nhận ra điều này nghĩa là gì không?” Millard kêu lên the thé. Cậu ta đang hất nước văng tung tóe, bơi vòng vòng, thở không ra hơi vì phấn khích. “Như thế có nghĩa là có những tri thức bí mật được ghi lại trong Những truyện kể!”
“Vậy là giờ chúng cũng không vô dụng lắm, phải không?” Olive nói.
“Ồ, tớ rất nóng lòng được phân tích và lập chú thích cho chúng,” Millard vừa nói vừa xoa xoa hai bàn tay vào nhau.
“Thách cậu dám viết lên cuốn sách của tớ đấy, Millard Nullings!” Bronwyn lên tiếng.
“Nhưng đây là Vòng Thời Gian nào vậy?” Hugh hỏi. “Các cậu nghĩ ai đang sống ở đây?”
Olive nói, “Những người bạn động vật của Cuthbert, tất nhiên rồi!”
Enoch đảo mắt chán nản nhưng rồi ngừng lại không nói ra khả năng mà cậu ta đang nghĩ đến - Đó chỉ là một câu chuyện mà thôi! - có thể và tâm trí cậu ta cũng đang bắt đầu đổi hướng.
“Mỗi Vòng Thời Gian đều có một Chủ Vòng,” Emma nói, “kể cả những vòng bí ẩn từ trong các truyện kể trong sách. Vậy chúng ta hãy cùng đi tim bà ấy nào.”
“Được thôi,” Millard nói. “Ở đâu?”
“Địa điểm duy nhất câu chuyện nhắc tới ngoài hồ nước này là ngọn núi kia,” Emma nói, chỉ về phía vách đá nhô lên đằng sau những rặng cây. “Ai sẵn sàng leo trèo một chút nào?”
Chúng tôi đều đói và mệt, tất cả chúng tôi, nhưng việc tìm thấy Vòng Thời Gian đã đem đến cho chúng tôi một luồng sinh lực mới. chúng tôi để người khổng lồ bằng đá lại sau lưng mình và bắt đầu băng qua rừng đi về phía chân vách đá, quần áo của chúng tôi nhanh chóng khô cong trong thời tiết nóng. Khi chúng tôi lại gần vách đá, mặt đất bắt đầu dốc lên, rồi sau đó một lối mòn rõ nét xuất hiện, chúng tôi đi theo nó lên, lên mãi, qua những lùm cây linh sam rậm rạp và những lối đi ngoằn ngoèo lởm chởm đá, cho tới khi con đường mòn ở một số nơi trở nên dốc tới mức chúng tôi phải leo bằng cả tứ chi, bấu vào những gờ góc cạnh trên mặt đất để đu lên.
“Tốt hơn nên có thứ gì đó kỳ diệu ở cuối con đường này,” Horace nói và đưa tay lên gạt mồ hôi trán. “Một quý ông thì không vã mồ hôi!”
Con đường một co hẹp lại như một dải ruy băng, mặt đất trở nên dựng đứng ở bên phải chúng tôi và dốc xuống hun hút về bên trái, tiếp theo là một tấm thảm xanh các ngọn cây trải rộng. “Ôm lấy bờ vách đá!” Emma cảnh báo. “Rơi xuống dưới khá sâu đây.”
Chỉ nhìn xuống bờ vực tôi đã chóng mặt. Đột nhiên, dường như tôi vừa hình thành một nỗi sợ độ cao đến quặn thắt dạ dày, và tôi phải dồn hết sự tập trung lại chỉ để đặt được một bàn chân xuống phía trước bàn chân kia.
Emma chạm khẽ lên cánh tay tôi. “Cậu không sao chứ?” cô thì thầm. “Trông cậu tái mét kìa.”
Tôi nói dối là mình vẫn ổn, và thành công trong việc giả bộ bình thường qua thêm đúng ba khúc quẹo nữa của con đường mòn, đến lúc ấy tim tôi đập nhanh vọt lên, hai chân run rẩy dữ dội tới mức tôi phải ngồi xuống ở ngay giữa lối mòn hẹp, chặn đường tất cả những người đi sau.
“Ôi trời,” Hugh lẩm bẩm. “Jacob xỉu rồi kìa.”
“Tớ không biết mình bị làm sao nữa,” tôi lẩm bẩm. Trước đây, tôi chưa bao giờ bị sợ độ cao, nhưng lúc này tôi thậm chí không thể đưa mắt nhìn qua bờ vực bên rìa lối mòn mà dạ dày không quặn thắt lại.
Thế rồi một điều thật khủng khiếp nảy ra với tôi: thế nhỡ điều tôi đang cảm thấy không phải là chứng sợ độ cao mà là đám hồn rỗng thì sao?
Nhưng không thể có chuyện đó: chúng tôi đang ở trong một Vòng Thời Gian, nơi đám hồn rỗng không thể tới. Thế nhưng càng xem xét cơn đau quặn bụng, tôi càng thấy tin chắc không phải bờ vực đang làm phiền tôi, mà là thứ gì đó bên dưới vực.
Tôi cần phải nhìn tận mắt.
Những người khác lo lắng bàn tán cạnh tôi, hỏi tôi bị làm sao, có ổn không. Tôi tảng lờ những lời họ nói, ngả người ra trước chống trên hai bàn tay, bò về phía rìa lối mòn. Càng tới gần, cảm giác đau quặn trong dạ dày tôi càng dữ dội, như thể bị cào rách thành từng mảnh từ bên trong. Còn cách chục phân nữa, tôi nằm ép sát bụng xuống đất, đưa các ngón tay ra bấu vào rìa bờ vực, sau đó nhích người lên trước cho tới khi tôi có thể ngó xuống qua rìa lối mòn.
Đôi mắt tôi chỉ mất một khoảnh khắc để nhìn thấy con hồn rỗng. Thoạt đầu, nó chỉ là một chấm nhỏ mờ mờ mất hút giữa sườn núi lởm chởm; một cái bóng chập chờn trong không khí giống như những quầng hơi bốc lên từ một chiếc ô tô còn nóng rực. Một chút mơ hồ, hầu như không thể nhận ra.
Đó là cách thức chúng xuất hiện trong mắt những người bình thường và những người đặc biệt khác - trong mắt bất cứ ai không thể làm được như tôi.
Sau đó, tôi thực sự trải nghiệm năng lực đặc biệt của mình được kích hoạt. Rât nhanh chóng, những cơn co thắt trong bụng tôi tụ dồn lại, tập trung thành một điểm đau duy nhất; rồi sau đó, theo một cách tôi không hoàn toàn lý giải được, cơn đau đó trở nên có định hướng, kéo dài ra từ một điểm thành một đường, từ một chiều thành hai chiều. Đường thẳng này, như một chiếc kim la bàn, chỉ chéo về phía phía cái chấm mơ hồ ở phía dưới tôi gần một trăm mét về bên trái trên sườn núi, những gợn sóng và ánh chập chờn mờ mờ của nó bắt đầu tập hợp, đông tụ lại thành một khối đen hữu hình, một thân người được tạo nên từ các xúc tu và bóng đen, bám vào vách đá.
Và sau đó nó nhận ra tôi đã thấy nó, và cả thân hình kinh tởm của con quái vật trở nên căng cứng. Áp sát người vào vách đá, nó ngoạc cái miệng đầy răng nhọn hoắt ra và rống lên một tiếng ghê rợn như muốn xé rách màng nhĩ.
Các bạn tôi chẳng cần tôi phải mô tả thứ tôi nhìn thấy nữa. Chỉ mình âm thanh đó là đủ.
“Hồn rỗng!” ai đó hét lên.
“Chạy!” một người khác la lớn, nói ra điều đã hiển nhiên.
Tôi tụt lùi khỏi bờ vực và được kéo đứng dậy, sau đó tất cả chúng tôi cùng túm tụm thành một khối đồng loạt chạy, không phải xuống chân núi mà lên trên cao hơn, đi.
Thành Phố Hồn Rỗng Thành Phố Hồn Rỗng - Ranson Riggs Thành Phố Hồn Rỗng