Năm
hặt một cọng rơm rồi tung nó lên không, anh sẽ biết gió thổi chiều nào.
JOHN SELDEN
Bám theo một ai đó mà không để cho họ biết chẳng hề dễ như trở bàn tay như trong phim ảnh. Tôi đã chứng kiến vài vụ theo dõi chuyên nghiệp, và những vụ mà chuyên gia theo dõi trở về bản doanh báo cáo “chúng tôi mất dấu anh ta hay cô ta rồi” thì còn nhiều hơn. Trừ khi con mồi của anh điếc, đui và què, anh cần ít nhất cả tá người và điện đài sóng ngắn trị giá năm mươi ngàn bảng để làm cho tươm tất.
Vấn đề với McCluskey là hắn ta, theo thuật ngữ chuyên môn, là “một tay chơi” - kẻ biết mình có thể là mục tiêu, và biết cách đối phó. Tôi không thể mạo hiểm tới quá gần, và cách duy nhất để tránh điều đó là chạy, ở những đoạn thẳng thì trở lại bình thường, rồi chạy hết tốc độ khi hắn vào chỗ rẽ, dừng lại kịp thời nếu hắn quay lại. Một đội chuyên nghiệp thì chắc chắn không chấp nhận mấy chuyện này, bởi họ thì không thèm biết đến cái khả năng là kẻ bị theo dõi biết có ai đó đang theo dõi sau lưng hắn ta, người này có thể bắt đầu băn khoăn không hiểu cái kiểu chạy, đứng, nghiêng ngó kính cửa hàng kia thực ra là cái trò gì.
Đoạn đường đầu diễn ra khá dễ dàng. McCluskey đi từ phố Fleet dọc xuống tới Strand, nhưng khi tới Savoy, hắn nhảy ngang qua đường rồi đi lên phía Bắc vào quận Covet Garden. Sau đó hắn đi giữa vô số cửa hàng cửa hiệu, và dừng lại khoảng năm phút xem một người tung hứng phía ngoài nhà thờ Nghệ sĩ. Thoải mái rồi, hắn bước mau về phía đường Thánh Martin, ngang qua quảng trường Leicester rồi biến tôi thành thằng đần bằng cách đột ngột rẽ về hướng Nam vào quảng trường Trafalgar.
Khi chúng tôi tới cuối đường Haymarket, mồ hôi tôi túa ra như suối và tôi mong sao hắn vẫy một cái taxi. Nhưng hắn không làm thế cho tới khi đến tận đường Lower Regent, và sau đó hai mươi giây tôi bắt chiếc khác một cách đầy chật vật.
Tất nhiên là một chiếc khác. Ngay cả những kẻ theo dõi nghiệp dư cũng biết rằng đừng có lên cùng taxi với người mình đang theo dõi.
Tôi gieo mình xuống ghế và hét với người tài xế “bám theo cái taxi đó”, rồi nhận thấy thật lạ lùng làm sao khi nói như thế trong đời thực. Song người lái taxi thì dường như không thấy thế.
“Nói tôi nghe xem nào,” ông ta nói, “hắn ngủ với vợ ông à, hay ông ngủ với vợ hắn?”
Tôi cười như thể đó là lời tuyệt nhất tôi từng được nghe trong nhiều năm qua, đó là điều ta phải làm với các bác tài taxi nếu muốn xe đến đúng chỗ và đi đúng lộ trình.
McCluskey xuống xe ở Ritz, nhưng hẳn là hắn bảo người tài xế chờ và vẫn để công tơ mét chạy. Tôi để hắn đi ba phút rồi mới làm tương tự với xe của tôi, nhưng, ngay khi tôi mở cửa xe, McCluskey quay trở lại và chúng tôi lên đường tiếp.
Xe chúng tôi bò dọc phố Piccadilly một lúc, rồi rẽ phải vào những con phố hẹp mà tôi không biết tí gì. Đây là kiểu lãnh thổ nơi những người thợ khéo tay xây dựng tư gia cho các chủ thẻ American Express.
Tôi rướn người lên định bảo tài xế đừng tới quá gần, nhưng vì đã làm những việc kiểu này trước đây hoặc đã thấy trên ti vi nên ông ta giữ khoảng cách khá tốt.
Xe của McCluskey dừng ở phố Cork. Thấy hắn trả tiền,tôi liền bảo bác tài vượt lên từ từ rồi thả tôi xuống khoảng gần hai trăm mét phía xa cuối đường.
Đồng hồ hiện sáu bảng, tôi bèn đưa tờ mười bảng qua cửa kính và ngắm màn trình diễn trong mười lăm giây của vở tôi- không-chắc-là-có-tiền-lẻ-trả-lại, ngó giấy phép lái taxi số 99102, trước khi ra ngoài và quay đầu nhìn về cuối phố.
Trong mười lăm giây đó, McCluskey đã bốc hơi. Tôi đã theo hắn hai mươi phút và năm dặm, rồi để tuột mất hắn trong gần hai trăm mét cuối cùng. Tôi nghĩ cũng thật đáng đời, vì mình đã keo kiệt mấy đồng tiền boa.
Phố Cork chẳng có gì ngoại trừ các phòng trưng bày nghệ thuật, hầu hết có cửa sổ mặt tiền lớn, và một trong những thứ tôi nhận thấy ở các cửa sổ là chúng giúp cho việc nhìn từ trong ra ngoài cũng thuận tiện y như nhìn từ ngoài vào trong. Tôi không thể đi gí mũi vào tất cả các cửa sổ của mỗi phòng triển lãm cho tới khi tìm được hắn, bởi thế tôi quyết định phải mạo hiểm. Tôi xác định vị trí McCluskey xuống xe, rồi ngoặt vào cánh cửa gần nhất.
Nó bị khóa.
Tôi đang đứng đó nhìn đồng hồ, cố đoán xem cái phòng triển lãm này có thể mở cửa giờ nào nếu như không phải mười hai giờ, thì một cô gái tóc vàng mặc váy đen bó sát từ trong bóng tối xuất hiện và gạt chốt cửa. Cô mở cửa với nụ cười chào mừng, và rồi đột nhiên tôi dường như không còn lựa chọn nào khác là bước vào, niềm hy vọng tìm thấy McCluskey của tôi xẹp xuống sau mỗi một giây.
Vẫn để một mắt hướng ra cửa sổ trước mặt, tôi chìm vào khoảng không gian hơi tối của cửa hàng. Ngoại trừ cô gái tóc vàng, hồ như không còn ai khác ở chỗ này, nên không có gì ngạc nhiên lắm khi tôi cứ nhìn vào các bức tranh.
“Ông có biết Terence Glass không?” Cô ta hỏi, chìa cho tôi một tấm cạc và bảng giá. Cô ta trông quá trẻ.
“Có, tôi biết,” tôi đáp. “Thực ra tôi có ba bức của ông ta.”
Chà, ý tôi là, dù sao thì đôi khi anh cũng phải nói dối gì đó, phải không?
“Ba cái gì cơ?” Cô ta nói.
Không phải lúc nào lời nói dối cũng phát huy tác dụng, tất nhiên rồi.
“Bức tranh.”
“Trời ơi,” cô ta nói. “Tôi không biết là ông ấy cũng vẽ. Sarah,” cô ta gọi, “chị có biết là Terence vẽ tranh không?”
Từ nửa sau của phòng tranh, một giọng Mỹ điềm tĩnh vọng lại. “Terry chưa từng vẽ tranh trong đời. Ông ấy còn hiếm khi viết tên mình ấy chứ.”
Tôi ngước nhìn lên vừa khi Sarah Woolf đi qua cửa tò vò, trông tinh khôi trong chiếc váy hình chữ A và áo khoác, cô toát ra làn sóng hương nhẹ nhàng của Fleur de Fleurs. Nhưng cô không nhìn tôi. Cô đang nhìn về cửa trước phòng tranh.
Tôi quay lại, theo hướng nhìn của cô, và thấy McCluskey đang đứng ở lối ra vào.
“Nhưng quý ông đây nói rằng ông ấy có ba...” Cô tóc vàng vừa nói vừa cười.
McCluskey đang bước nhanh về phía Sarah, tay phải của hắn trượt ngang ngực, vào phía trong của chiếc áo khoác. Tôi đưa tay phải đẩy cô tóc vàng ra xa, nghe cô ta hổn hển câu gì đó lịch sự, và cùng lúc đó McCluskey quay đầu về phía tôi.
Hắn vừa lắc người qua một bên, tôi liền tung một cú đá vòng cầu nhằm thẳng bụng hắn, để đỡ cú đó hắn phải rút tay phải từ trong áo ra, cú đá chạm người hắn, và chỉ trong một khoảnh khắc chân McCluskey bật lên khỏi sàn. Hắn vừa thở hổn hển vừa đánh đầu về phía trước, còn tôi vòng ra sau và luồn cánh tay trái quanh cổ hắn. Cô tóc vàng gào lên “ối trời ơi” với giọng rất lịch sự và quờ quạng cái điện thoại trên bàn, nhưng Sarah thì vẫn ở nguyên chỗ cũ, hai cánh tay cứng đờ hai bên người. Tôi la lên bảo cô chạy đi, nhưng hoặc cô không nghe thấy tôi, hoặc cô không muốn nghe tôi. Khi tôi siết chặt gọng kìm quanh cổ McCluskey,hắn ra sức cưỡng lại, cố nhét các ngón tay vào giữa khuỷu tay tôi và cổ họng hắn. Nhưng hắn không có cơ hội làm chuyện đó.
Tôi đè cùi chỏ phải lên bả vai McCluskey còn bàn tay phải ấn sau gáy hắn. Tay trái tôi luồn vào hõm khuỷu tay phải tôi, thế là tôi đã ở trong tư thế ở hình vẽ (c) trong chương có tiêu đề “Kỹ thuật bẻ cổ: Những điều cơ bản”.
Thấy McCluskey vừa giãy giụa vừa đạp lấy đạp để, tôi bèn khẽ kéo tay trái về sau và đẩy tay phải lên trước, thế là hắn ngừng đạp ngay. Hắn ngừng đạp bởi vì đột nhiên nhận ra điều mà tôi biết, và muốn hắn biết - đó là, chỉ cần gia tăng chút áp lực nữa thôi, tôi có thể kết liễu đời hắn.
Tôi không chắc chắn lắm, nhưng tôi nghĩ đó là lúc khẩu súng được lôi ra.
Tôi không nhớ cảm giác thực sự khi bị bắn. Chỉ là sự phẳng bẹt của tiếng nổ trong phòng tranh, và mùi của cái thứ người ta dùng làm thuốc súng ngày nay.
Đầu tiên tôi nghĩ là cô đã bắn McCluskey, nên tôi bắt đầu nguyền rủa cô bởi vì tôi đã kiểm soát được mọi thứ, và dù sao tôi cũng đã bảo cô ra khỏi đây. Sau đó tôi nghĩ lạy Chúa, hẳn là tôi đang ra rất nhiều mồ hôi, bởi vì tôi có thể cảm thấy nó chảy dọc người mình, nhỏ giọt ướt cả cạp quần. Tôi nhìn lên thì nhận ra rằng Sarah chuẩn bị bắn tiếp. Hay có khi cô đã bắn rồi cũng nên. McCluskey đã vặn vẹo thoát ra còn tôi dường như ngã về phía sau vào một trong các bức tranh.
“Con đĩ đần độn,” tôi nghĩ là mình đã nói thế, “Tôi... ở phe cô cơ mà. Chính hắn... là người... hắn là người... muốn giết bố cô. Mẹ kiếp.”
Mẹ kiếp bởi vì mọi thứ bắt đầu trở nên lạ lẫm. Ánh sáng, âm thanh, hành động.
Sarah đang đứng ngay trước mặt tôi, và tôi nghĩ, nếu như tình huống khác đi, có lẽ tôi đang thưởng thức cặp giò của cô. Nhưng nó đã không khác. Nó vẫn thế. Và tất cả những gì tôi nhìn thấy giờ đây là khẩu súng.
“Ông nói lạ thật đấy, ông Lang,” cô nói. “Ông ấy có thể làm việc đó tại nhà.” Đột nhiên tôi không còn hiểu chuyện này là thế nào nữa. Quá nhiều thứ đã sai, sai lè, nửa người bên trái tê cứng của tôi không phải là tất cả. Sarah quỳ xuống kề họng súng dưới cằm tôi.
“Người này,” cô hất ngón cái về phía McCluskey, “là bố tôi.”
Bởi không thể nhớ gì thêm nữa, tôi nghĩ là mình đã bị ngất đi.
“Ông cảm thấy thế nào?”
Đó là câu người ta hẳn sẽ hỏi anh khi anh nằm ngửa trên giường bệnh viện, nhưng tôi ước gì cô ta đừng hỏi y như thế. Đầu óc tôi bấn loạn kiểu như lúc anh phải gọi người phục vụ để đòi lại tiền đã trả, và nếu chính tôi hỏi cô ta rằng tôi cảm thấy thế nào thì xem ra sẽ có lý hơn. Nhưng cô ta là y tá, bởi thế không có chuyện cô ta đang giết tôi, vậy nên tôi quyết định tạm thời sẽ quý mến cô ta.
Với một nỗ lực phi thường, tôi mở môi và rền rĩ với cô ta, “Ổn.”
“Thế thì tốt,” cô ta nói. “Bác sĩ sẽ tới khám ngay cho ông đây.” Cô ta vỗ vỗ vào mu bàn tay tôi rồi khuất dạng.
Tôi nhắm mắt lại một lúc, và khi mở mắt ra thì bên ngoài trời đã tối. Một chiếc áo trắng đang đứng cạnh tôi, và tuy người mặc nó trông đủ trẻ để có thể là giám đốc chi nhánh ngân hàng của tôi, tôi chỉ có thể nghĩ ông ta là bác sĩ. Ông ta để cổ tay tôi xuống, dẫu tôi không nhận ra là ông ta đã cầm nó, rồi ghi nhanh gì đó vào kẹp hồ sơ.
“Ông cảm thấy thế nào?”
“Ổn.”
Ông ta tiếp tục ghi chép.
“Hẳn là không phải thế rồi. Ông đã bị bắn. Mất khá nhiều máu, nhưng không vấn đề gì. Ông đã gặp may. Xuyên qua nách ông.” Ông ta nói cứ như toàn bộ câu chuyện này là do lỗi ngớ ngẩn của tôi. Mà, ở mặt nào đó, thì đúng là như vậy.
“Tôi đang ở đâu?” Tôi hỏi.
“Ở bệnh viện.”
Ông ta đi ra.
Sau đó, một bà rất béo bước vào với chiếc xe đẩy rồi đặt một đĩa gì màu nâu có mùi khó chịu lên cái bàn cạnh tôi. Tôi không thể tưởng tượng tôi đã làm gì với bà ta, nhưng dù là làm gì thì chắc hẳn đều rất tệ.
Có lẽ bà ta nhận ra rằng mình đã phản ứng thái quá, bởi vậy nửa giờ sau bà ta tới mang cái đĩa đi. Trước khi đi, bà nói cho tôi biết tôi đang ở đâu. Bệnh viện Middlesex, khu William Hoyle.
Người đầu tiên tới thăm tôi là Solomon. Anh ta bước vào, vẻ kiên định và vững chãi, ngồi xuống giường và đặt một túi giấy đựng nho lên bàn.
“Ngài cảm thấy thế nào?”
Một khuôn mẫu cố định đã hình thành ở đây.
“Tôi cảm thấy,” tôi nói, “gần như chính xác là tôi đã bị bắn, giờ đang nằm trong bệnh viện và cố gắng hồi phục, vậy mà một viên cảnh sát Do Thái lại đang ngồi lên chân tôi.” Anh ta khẽ dịch người dọc theo giường.
“Họ nói với tôi rằng ngài đã gặp may, thưa ông chủ.”
Tôi ngắt một quả nho.
“May mắn vì...?”
“Vì chỉ cách tim ngài vài phân thôi.”
“Hoặc chỉ cần chệch vài phân là bắn trượt tôi. Tùy theo quan điểm của anh.”
Anh ta gật đầu, ngẫm nghĩ về điều đó.
“Thế còn của ngài?” Một lúc sau anh ta nói.
“Của tôi cái gì?”
“Quan điểm của ngài ấy mà.”
Chúng tôi nhìn nhau.
“Là đội Anh nên chơi đẹp với Hà Lan,” tôi nói.
Solomon đứng dậy khỏi giường rồi bắt đầu cởi áo mưa, và tôi khó mà trách anh ta được. Nhiệt độ phải khoảng 32 độ C, và dường như có quá nhiều, quá nhiều không khí ở trong phòng. Chúng túm tụm lại, lùa vào mặt và tóc, làm ta tưởng như căn phòng như là chuyến tàu điện ngầm vào giờ cao điểm, và rất nhiều khí thừa đã cố lách vào ngay khi người ta đóng cửa.
Tôi hỏi y tá xem liệu cô ta có thể vặn nhiệt độ thấp một chút không, nhưng cô ta nói rằng máy sưởi được điều khiển bằng máy tính. Nếu là kiểu người chuyên ngồi viết thư phàn nàn cho tờ Daily Telegraphthì có lẽ tôi đã viết một bức rồi.
Solomon treo áo khoác ra sau cánh cửa.
“Giờ thưa ngài,” anh ta nói, “tin hay không thì tùy nhưng các quý bà quý ông, những người trả lương cho tôi đã yêu cầu tôi lấy ở ngài một lời giải thích về chuyện làm thế nào ngài lại nằm ở sàn của phòng tranh West End danh tiếng với một lỗ đạn xuyên vào ngực.”
“Nách.”
“Hốc tay, nếu như ngài thích thế hơn. Giờ ngài có thể nói tôi nghe không, ông chủ, hay là tôi phải dằn gối lên mặt ngài cho tới khi ngài chịu hợp tác?”
“Chà,” tôi nói, nghĩ rằng có lẽ chúng tôi nên bàn chuyện công việc, “tôi cho rằng anh đã biết McCluskey chính là Woolf.” Tất nhiên là tôi chưa từng đưa ra được giả thiết đó trước đây. Tôi chỉ muốn lời nói đó nghe sao có trọng lượng. Biểu hiện của Solomon rõ ràng cho thấy là anh ta chưa hề biết, bởi vậy tôi nhấn mạnh thêm. “Tôi đã theo McCluskey tới phòng tranh, cứ nghĩ rằng ông ta sẽ làm gì đó không tốt với Sarah. Tôi nện ông ta, bị Sarah bắn, sau đó cô ấy nói cho tôi biết rằng, người bị đánh thực ra chính là bố cô ấy, Alexander Woolf.”
Solomon điềm tĩnh gật đầu, cái kiểu quen thuộc của anh ta mỗi khi nghe những thứ lạ đời.
“Trong khi ngài,” cuối cùng anh ta nói, “là người đã từ chối ông ta khi ông ta dùng tiền đề nghị ngài giết Alexander Woolf?”
“Đúng thế.”
“Và ngài đã nghĩ, thưa ông chủ, tôi chắc chắn nhiều người ở vào vị trí của ngài cũng nghĩ thế, rằng khi một người yêu cầu ngài giết ai đó, thì ai đó không thể lại chính là ông ta được.”
“Hiển nhiên trên đời này không ai làm vậy cả.”
“Hừm.” Solomon đã dịch tới cửa sổ, anh ta có vẻ bị quyến rũ bởi Tháp Bưu điện ở đó.
“Thế thôi, phải không?” Tôi hỏi. “Hừm à? Báo cáo của Bộ Quốc phòng về chuyện này chỉ gồm một chữ ‘hừm’, được bọc bằng da với nhũ vàng và được nội các chính phủ ký xác nhận hay sao?”
Solomon không trả lời, vẫn nhìn chăm chăm vào cái ThápBưu điện.
“Rồi,” tôi nói, “thế thì hãy nói cho tôi biết. Chuyện gì đã xảy ra với Woolf bố và Woolf con? Sao tôi tới được đây? Ai gọi xe cứu thương? Họ đã ở đó với tôi cho đến lúc xe cứu thương tới chứ?”
“Ngài đã ăn ở cái nhà hàng cứ xoay xoay trên đỉnh kia bao giờ chưa...?”
“David, vì Chúa...”
“Cái người đã gọi xe cứu thương là ông Terence Glass nào đó, chủ của phòng tranh chỗ ngài bị bắn, và là người đã kiến nghị đòi tiền của Bộ để tẩy vết máu của ngài trên sàn.”
“Cảm động làm sao.”
“Dù vậy những người đã cứu sống ngài lại là Green vàBaker.”
“Green và Baker?”
“Họ đã theo ngài khá lâu. Baker đã bịt khăn lên vết thương của ngài.”
Thật là sốc. Tôi cứ tưởng là sau khi tôi uống bia với Solomon thì hai gã theo dõi đã được cho nghỉ. Tôi khinh suất quá. Tạ ơn Chúa.
“Hoan hô Baker,” tôi nói.
Hình như Solomon đang chuẩn bị nói với tôi điều gì thì lại bị chen ngang bởi tiếng cửa mở. O’Neal tới giữa chúng tôi ngay. Ông ta đi thẳng đến bên giường tôi, và biểu hiện của ông ta cho thấy ông ta nghĩ việc tôi bị bắn là một bước tiến vĩ đại.
“Ông cảm thấy thế nào?” Ông ta hỏi, gần như đang cố nín cười.
“Tôi rất khỏe, cảm ơn ông O’Neal.”
Im lặng một chút, và khuôn mặt ông ta hơi xịu xuống.
“Tôi nghe bảo may mắn là ông còn sống,” ông ta nói. “Ngoại trừ điều đó, kể từ giờ trở đi, ông có thể nghĩ rằng mình không may mắn vì vẫn còn sống.” O’Neal rất khoái chí với điều đó. Tôi hình dung ông ta đã tập nói điều đó trong thang máy. “Thế đó ông Lang ạ. Tôi không biết làm thế nào để cảnh sát đừng nhúng mũi vào. Với sự chứng kiến của các nhân chứng, ông rõ ràng đã cố giết ông Woolf...”
O’Neal dừng lại, cả ông ta và tôi nhìn xung quanh căn phòng, ở dưới sàn, bởi vì âm thanh chúng tôi nghe thấy hẳn phải phát ra từ một con chó ốm. Rồi chúng tôi nghe lại lần nữa, và cả hai đều nhận ra đó là Solomon đang hắng giọng.
“Với lòng kính trọng của tôi, thưa ông O’Neal,” Solomon nói, giờ thì anh ta đã giành được sự chú ý của chúng tôi, “Lang có cảm nhận rằng người mà ông ta đã tấn công thực ra là McCluskey.”
O’Neal nhắm mắt lại. “McCluskey? Woolf lại là...”
“Vâng, chính xác,” Solomon nhẹ nhàng nói. “Nhưng Lang kiên quyết rằng Woolf và McCluskey là một người.”
Im lặng một lúc lâu.
“Làm ơn nhắc lại được không?” O’Neal nói.
Điệu cười trịch thượng đã biến mất khỏi mặt ông ta, và tôi đột nhiên cảm thấy mình như đang nhảy dựng dậy khỏi giường.
O’Neal khịt khịt mũi. “McCluskey và Woolf là một người à?” Ông ta nói, giọng vỡ ra the thé. “Anh điên hẳn rồi chắc?”
Solomon nhìn tôi để xác nhận.
“Sự việc cũng gần như thế đấy,” tôi nói. “Woolf chính là người tiếp cận tôi ở Amsterdam, và yêu cầu tôi giết một người tên Woolf.”
Gương mặt O’Neal trở nên hoàn toàn nhợt nhạt. Trông ông ta giống như một anh chàng vừa mới nhận ra mình đã gửi một lá thư tình nhầm địa chỉ.
“Nhưng không thể nào thế được,” ông ta lắp bắp. “Không có lý nào lại như thế.”
“Điều đó không có nghĩa là không thể,” tôi nói.
Nhưng O’Neal thực sự không còn nghe thấy gì lúc này. Ông ta đang ở trong trạng thái tồi tệ. Bởi vậy tôi tiếp tục tiến tới vì Solomon.
“Tôi biết tôi chỉ là một gã tầm thường,” tôi nói, “và đây không phải là chỗ để tôi lên tiếng, nhưng đây là giả thuyết của tôi. Woolf biết rằng có một số nhóm người trên toàn cầu muốn ông ta chết. Ông ta làm các thứ thông thường, mua một con chó, thuê vệ sĩ, không nói cho bất kỳ ai biết nơi ông ta sẽ đến chừng nào chưa tới đó, nhưng,” và tôi có thể thấy O’Neal lắc người để tập trung, “ông ta biết như thế chưa đủ. Những kẻ muốn ông ta chết rất cao thủ, rất chuyên nghiệp, chẳng chóng thì chầy họ sẽ đánh thuốc con chó và mua chuộc tay vệ sĩ. Bởi thế ông ta có một lựa chọn.”
O’Neal nhìn tôi chằm chằm. Đột nhiên nhận ra miệng mình đang há hốc, ông ta liền ngậm phắt lại.
“Vâng?”
“Ông ta có thể đương đầu với bọn họ,” tôi nói, “điều mà chúng ta đều biết là khó. Hoặc có thể tránh lui.” Solomon đang bặm môi. Mà cũng đúng, vì tất cả chuyện này nghe thật tệ. Nhưng nó còn tốt hơn bất cứ thứ gì họ nghĩ ra được lúc này. “Ông ta tìm một người mà ông ta biết sẽ không chấp nhận công việc mình giao nhưng rồi vẫn giao việc đó cho họ. Ông ta để cho bên ngoài biết rằng hợp đồng đó là để lấy đi tính mạng của ông ta, và hy vọng rằng kẻ thù thực sự của ông ta sẽ chậm lại một chút bởi vì chúng nghĩ đằng nào thì việc đó cũng được hoàn thành mà không cần chúng phải mạo hiểm hay tốn một xu nào.”
Solomon đã quay lại với điệp vụ Tháp Bưu điện, còn O’Neal đang cau mặt.
“Ông tin như thế thật à?” Ông ta nói. “Ý tôi là, ông có nghĩ điều đó có thể xảy ra không?” Tôi nghĩ ông ta đang khao khát một điểm chốt để móc nối, điểm chốt nào cũng được, kể cả xả nước một cái là trôi đi ngay.
“Vâng, tôi nghĩ là có thể. Không, tôi không tin thế. Nhưng tôi đang hồi phục từ một vết thương do súng lục gây ra, và đó là điều tốt nhất tôi có thể làm.”
O’Neal bắt đầu đi lại trên sàn, lùa ngón tay vào tóc. Sức nóng trong phòng cũng đã tác động đến ông ta, nhưng ông ta không có thời gian để cởi áo khoác.
“Được rồi,” ông ta nói, “có người muốn Woolf phải chết. Tôi không thể giả vờ rằng chính phủ của Nữ hoàng sẽ đau lòng nếu ông ta bị xe buýt cán ngày mai. Thêm vào đó, những kẻ thù của ông ta có thể rất đáng gờm, và các biện pháp phòng vệ bình thường là vô dụng. Đến đây thế là hợp lý. Đúng, ông ta không thể đương đầu với họ,” O’Neal khá thích cụm từ đó, tôi có thể nhận thấy thế, “bởi vậy ông ta bày ra một hợp đồng giả để giết chính mình. Nhưng nó đã không diễn ra như ý đồ của ông ta.” O’Neal ngừng đi lại và nhìn tôi. “Tôi muốn hỏi, sao ông ta có thể chắc chắn hợp đồng đó là giả? Làm sao ông ta biết được ông sẽ không theo đuổi vụ đó?”
Tôi nhìn Solomon, anh ta biết tôi đang nhìn, nhưng không nhìn lại.
“Tôi đã từng được đề nghị một việc như vậy,” tôi nói. “Người ta đưa ra nhiều tiền hơn thế nhiều. Tôi đã nói không. Có lẽ ông ta biết điều đó.”
O’Neal chợt nhớ ra rằng ông ta cực kỳ ghét tôi.
“Thế ông luôn luôn nói không à?” Tôi nhìn chằm chằm lại O’Neal, một cách điềm tĩnh nhất có thể. “Ý tôi là có thể ông đã thay đổi,” ông ta nói. “Có thể đột nhiên ông cần tiền. Đó là một sự nguy hiểm tức cười.”
Tôi nhún vai khiến nách tôi đau nhói.
“Không hẳn,” tôi nói. “Ông ta có vệ sĩ, và ít nhất với tôi ông ta biết mối nguy hiểm từ đâu tới. Rayner đã theo tôi nhiều ngày trước khi tôi vào căn nhà đó.”
“Nhưng ông đã vào căn nhà đó, Lang. Ông thực sự...”
“Tôi tới đó để cảnh báo ông ta. Tôi nghĩ đó là việc xóm giềng tốt bụng nên làm.”
“Được rồi, được rồi.” O’Neal lại dấn thêm vài bước. “Thế ông ta làm thế nào để ‘tiết lộ ra ngoài’ rằng hợp đồng đã được ký kết? Ý tôi là ông ta viết lên tường phòng tắm, hay đặt tin quảng cáo trên tờ Standard, hay thế nào?”
“Chà, ông biết mà.” Tôi đã bắt đầu thấy mệt mỏi. Tôi muốn ngủ và cần thậm chí là một đĩa cái gì đó nâu nâu khó ngửi.
“Chúng tôi không phải là kẻ thù của ông ta, ông Lang”, O’Neal nói. “Từ góc độ nào cũng không, từ mức độ nào cũng không.”
“Thế sao các ông biết việc của tôi là phải theo ông ta?”
O’Neal dừng lại, và tôi có thể thấy ông ta nghĩ là đã nóiquá nhiều chuyện với tôi. Ông ta cáu kỉnh nhìn sang Solomon, đổ cho anh ta đã không kèm người tốt. Solomon trông chỉ như một bức tranh tĩnh vật.
“Tôi không thấy chúng ta có lý do gì mà không nói cho ông ấy điều đó, thưa ông O’Neal,” anh ta nói. “Ông ấy bị một viên đạn xuyên ngực không phải do lỗi của ông ấy. Có lẽ nếu biết tại sao nó xảy ra thì ông ấy sẽ mau lành hơn.”
O’Neal mất một lúc để tiêu hóa điều đó, rồi quay sang tôi.
“Rất tốt,” ông ta nói. “Chúng tôi nhận được thông tin về cuộc gặp của ông với McCluskey, hay là Woolf...” Hẳn ông ta ghét nói ra điều này. “Chúng tôi nhận được tin từ người Mỹ.”
Cửa phòng mở ra và một y tá bước vào. Có lẽ cô ta là người đã vỗ vào mu bàn tay tôi lúc tôi mới tỉnh lại, nhưng tôi không chắc. Cô ta nhìn thẳng qua Solomon và O’Neal rồi tới nghịch với những chiếc gối của tôi, dựng chúng lên, đặt loanh quanh, làm cho chúng trở nên không thoải mái hơn nhiều so với lúc trước.
Tôi nhìn O’Neal.
“Ông nói tới CIA?”
Solomon mỉm cười, còn O’Neal thì tí nữa són ra quần.
Cô y tá thì chẳng động cựa mảy may.
Tay Lái Súng Đa Cảm Tay Lái Súng Đa Cảm - Hugh Laurie Tay Lái Súng Đa Cảm