Chương 6
ào Chủ nhật, bản tin cuối cùng công bố rằng nhiều người đã được cứu thoát khỏi những nơi đổ nát trong thành phố. Họ được lôi ra từ thang máy và những ngôi nhà bị sập hay mắc kẹt dưới các công trình xây dựng đã sụp đổ. Từ khi xảy ra trận địa chấn năm 1989, ngành xây dựng đã đưa ra nhiều qui định xây cất rất khắc nghiệt, nhưng cường độ của trận địa chấn vừa rồi quá mạnh nên gây nhiều thiệt hại về người và của. Con số thương vong đã lên đến hơn bốn ngàn người. Tuy nhiên, từ khi xảy ra động đất đến giờ chỉ mới được sáu mươi giờ, nên vẫn còn hy vọng cứu sống nhiều người đang còn bị mắc kẹt dưới các kiến trúc bị sập.
Tin tức vừa khủng khiếp vừa có tính khích lệ, mọi người ai cũng buồn rầu khi rời khỏi bãi cỏ khu nhà có hệ thống phóng thanh. Sau đó hầu hết mọi người đều đi về phía phòng ăn tập thể để ăn sáng. Họ còn được thông báo cho biết rằng, có lẽ phải mất nhiều tuần nữa họ mới có thể trở về nhà cũ. Cầu cống, xa lộ, phi trường, và nhiều khu vực trong thành phố vẫn chưa khai thông. Người ta cũng không nói khi nào thì có điện trở lại.
Everett đang nói chuyện nho nhỏ với xơ Maggie thì Melanie đi vào, sau khi đã ăn sáng với mẹ, người trợ lý, Ashley, Jake và nhiều nhạc công trong ban nhạc. Họ bồn chồn, nôn nóng muốn trở về L.A. Nhưng như tin tức đã đưa, họ chưa thể về được. Họ chỉ có nước ngồi yên một chỗ, nhìn mọi việc xảy ra quanh mình thôi. Khi Melanie đi ăn cùng bạn bè trong phòng ăn tập thể, có người đã thấy nàng, và mẹ nàng cũng khoe khoang về nàng. Nhưng trong bệnh viện, không ai quan tâm đến Melanie. Thậm chí có người nhận ra nàng, nhưng họ chỉ cười và bỏ đi. Việc này dễ hiểu thôi, vì nàng là một tình nguyện viên. Pam đăng ký làm việc tại bàn ghi danh sách người vào trại tị nạn, vì có nhiều người tiếp tục xin và trại cần có thêm nhiều thực phẩm.
- Chào cô! - Everett chào Melanie một cách thân mật. Hôm nay, nàng mặc cái áo thun mới lấy nơi bàn cứu trợ, và chiếc áo len tay dài rộng thùng thình có thủng lỗ, bộ đồ khiến nàng trông như một kẻ mồ côi. Nàng vẫn còn mặc cái quần lính và đi dép kẹp. Xơ Maggie cũng đã thay áo quần. Hôm nay trên áo thun của bà có hàng chữ: “Jesus is my homeboy”[4]. Câu đó khiến Everett bật cười.
[4] Chúa Jesus là người đồng hương của tôi.
- Tôi đoán đây là khẩu hiệu hiện đại trên áo tu sĩ, phải không? - Bà mang giày đế mềm màu đỏ, nên trông có vẻ như một huấn luyện viên trong trại hè. Nhìn bà như mới ba mươi. Thực ra bà lớn hơn tuổi ấy mười hai năm, chỉ nhỏ hơn Everett sáu tuổi, nhưng có lúc trông ông già hơn tuổi thật của mình.
Hôm đó, Everett đi chụp ảnh quanh trại Presidio, ông còn nói sẽ đi Marin và Pacific Heights để xem có gì hay ho không. Họ khuyên mọi người tránh xa khu thương mại và các trung tâm mua sắm, vì nhà cửa ở đấy cao, rất nguy hiểm, dễ xảy ra nhiều tai nạn. Cảnh sát vẫn sợ những thứ đổ vỡ có thể rơi từ các tòa nhà xuống. Đi vào những khu dân cư thì dễ, nhưng cảnh sát đã phong toả nhiều nơi. Máy bay trực thăng tiếp tục bay tuần tra khắp thành phố. Thỉnh thoảng họ đáp xuống bãi đáp trong trại Presidio, các phi công nói chuyện với nhiều người tụ đến để hỏi tin tức về những chuyện đã xảy ra trong thành phố, hay những vùng ngoại vi. Nhiều người đang ở trong các trại tạm trú của Presidio là công dân ở tại East Bay. Họ không có cách gì để về nhà vì cầu và xa lộ đã bị phong toả. Họ ít có được tin tức chính xác, chỉ nghe lời đồn về số thương vong, những hư hại và cảnh giết chóc đâu đó trong thành phố mà thôi.
Melanie giúp Maggie làm việc, như hai ngày qua. Những người bị thương vẫn tiếp tục nhập trại, các bệnh viện quanh thành phố vẫn chuyển người đến cho họ. Buổi chiều đó có chuyến không vận lớn mang thêm thuốc men và thực phẩm cho mọi người. Thức ăn trong những bữa ăn tại phòng ăn tập thể rất phong phú. Chủ và bếp trưởng của một nhà hàng ngon nhất trong thành phố hiện đang ở với gia đình trong trại, ông ta phụ trách việc nấu ăn cho phòng ăn chính, điều này khiến mọi người vui mừng. Những bữa ăn rất ngon, nhưng Melanie và Magie không có thì giờ đến thưởng thức. Thay vì đến ăn trưa, hai người phải theo các bác sĩ ra ngoài đón chuyến không vận, mang dụng cụ y khoa vào trong.
Melanie đang ì ạch cố mang một thùng đồ khổng lồ, chiếc thùng nặng sắp tuột khỏi tay nàng thì bỗng một thanh niên đưa tay đỡ giúp. Anh ta mặc chiếc quần jeans rách bươm và chiếc áo len tả tơi. Thùng có ghi hàng chữ “đồ dễ vỡ”, nên nàng rất mừng vì được anh ta giúp. Anh ta nâng thùng khỏi tay nàng một cách dễ dàng và miệng nhoẻn cười. Nàng cám ơn anh, lòng mừng vì đã tránh khỏi tại hoạ. Trong thùng là chai lọ đựng Insulin, ống tiêm để dùng chữa trị cho các bệnh nhân đái đường. Hàng đã được đăng ký tại bệnh viện khi mới nhập. Một bệnh viện ở bang Washington đã gởi các thứ này đến cho những ai cần chúng.
- Cám ơn, - Melanie nói trong khi thở hồng hộc. - Tôi xuýt để rơi cái thùng!
- Cái thùng lớn hơn cô rất nhiều. - Anh cười rất tươi.
- Tôi thấy cô trong khu tạm trú, - anh vui vẻ nói khi mang cái thùng đi về phía bệnh viện với nàng. - Trông cô quen quen. Chúng ta đã gặp nhau rồi phải không? Tôi là sinh viên năm cuối trường Đại học Berkeley, ngành kỹ sư xây dựng. Cô đã đến Berkeley chưa - Anh ta nghĩ rằng anh đã thấy nàng rồi. Melanie chỉ cười.
- Không, tôi ở L.A, - nàng thản nhiên đáp.
Họ đã đến bệnh viện của trại. Anh cao, mắt xanh, tóc vàng như nàng. Trông anh mạnh khỏe và trẻ trung. - Tôi mới đến đây chỉ một đêm thôi, - nàng nói và anh cười, ngẩn ngơ trước sắc đẹp của nàng, mặc dù nàng không chải tóc, không trang điểm và mặc áo quần dơ bẩn. Trông hai người như những kẻ bị đắm tàu. Anh mang giày đế mòn của ai đấy, sau khi ở lại đêm tại nhà của người bạn trong thành phố. Khi trận động đất xảy ra, anh chỉ mặc quần short, để chân trần chạy ra khỏi nhà trước khi nhà sập. May thay mọi người trong đó đều sống sót.
- Tôi ở Pasadena, - anh đáp.- Tôi học ở Đại học UCLA, nhưng năm ngoái tôi chuyển đến đây. Tôi thích trường mới. Hay ít ra, bây giờ tôi thích. - Anh cười. - Nhưng ở L.A chúng ta cũng có động đất. - Anh giúp nàng đem cái thùng vào trong, xơ Maggie chỉ chỗ cho anh đặt nó. Anh rất muốn owr lại để nói chuyện với nàng. Melanie không nói gì về mình, và anh phân vân tự hỏi nàng học trường đại học nào. - Tôi tên là Tom. Tom Jenkins.
- Tôi là Melanie, - nàng nói nho nhỏ. Maggie cười và đi chỗ khác. Rõ ràng anh ta không biết Melanie là ai, bà nghĩ thế mà hay. Anh ta sẽ nói chuyện với nàng như với một người bình thường khác, chứ không phải với một ngôi sao.
- Tôi làm việc trong phòng ăn tập thể, - Tom nói tiếp.
- Mọi người ở đây có vẻ bận rộn quá.
- Đúng, chúng tôi rất bận. - Melanie đáp. Tom giúp nàng mở thùng ra.
- Tôi nghĩ cô phải ở đây một thời gian lâu. Tất cả chúng ta đều thế. Tôi nghe là đài không lưu sập đổ tan tành.
- Phải, chắc chúng ta không về sớm được.
- Tôi chỉ còn học hai tuần nữa thôi. Tôi nghĩ chắc tôi sẽ không đi học được nữa. Và có lẽ nhà trường cũng không tổ chức lễ tốt nghiệp. Họ sẽ gởi bằng đến cho từng sinh viên. Tôi sẽ nghỉ hè ở đây. Tôi đã có việc làm trong thành phố, nhưng tôi sẽ quay về L.A khi có thể.
- Tôi cũng vậy, - Melanie nói. Họ lấy đồ trong thùng ra. Tom có vẻ không muốn trở lại phòng ăn tập thể. Anh thích nói chuyện với nàng. Nàng có vẻ dịu dàng như một cô tiên.
- Cô đã học nghề y tá phải không? - Anh hỏi.
- Không. Bây giờ tôi mới làm lần đầu.
- Cô ấy là một y tá giỏi, - Maggie khen Melanie thật lòng. Bà quay lại chỗ họ để kiểm tra đồ đạc trong thùng. Bà rất sung sướng khi thấy có đủ các thứ bà đã yêu cầu gởi đến. Họ đã có một lượng Insulin do các bệnh viện địa phương và quân y viện cung cấp, nhưng đã dùng hết sạch.
- Cô ấy còn là một cô gái tuyệt vời, - Maggie nói thêm, bà cười rồi đem các thứ trong thùng vào kho.
- Anh trai tôi đã học trường y ở Syracuse, - Tom đáp. Anh nán lại để nói chuyện với Melanie. Nàng nhìn anh và mỉm cười.
- Tôi đã muốn học trường điều dưỡng, - nàng nói cho Tom biết. Nhưng nếu tôi đi, mẹ tôi sẽ giết tôi mất. Bà đã có kế hoạch cho tôi rồi.
- Kế hoạch gì? - Anh tò mò hỏi, lòng vẫn thắc mắc là không biết mình đã gặp nàng ở đâu. Anh cảm thấy nàng thân thiết như là cô bạn hàng xóm xinh đẹp. Nhưng thực ra anh không ở bên cạnh nhà một cô gái như nàng.
- Kế hoạch của mẹ tôi phức tạp lắm. Bà bắt tôi phải sống theo ý bà. Tôi là con gái duy nhất, cho nên bà rất kỳ vọng vào tôi. - Nàng phàn nàn về mẹ với Tom, mặc dù nàng chưa biết gì về anh. Anh lắng nghe và chia sẻ với nàng. Bỗng nàng có cảm giác là anh quan tâm đến điều nàng suy nghĩ.
- Bố tôi rất muốn tôi làm luật sư. Ông kỳ vọng nhiều vào tôi. Ông cho là làm kỹ sư rất chán, ông còn nói rằng làm việc cho các nước kém phát triển kiếm được rất ít tiền. Ông nói có lý, nhưng với mảnh bằng kỹ sư, sau này tôi có thể đổi ngành. Tôi không thích học luật. Bố tôi muốn tôi làm bác sĩ hay luật sư. Chị tôi đậu tiến sĩ Vật lý, dạy học ở Đại học MIT. Bố mẹ tôi rất muốn con cái học cao nhưng bằng cấp không làm cho người ta tốt được. Tôi muốn thành người có học để làm việc gì khác hơn ngoài việc kiếm tiền. - Rõ ràng gia đình Tom là gia đình trí thức, nên Melanie không thể nói cho anh biết hoàn cảnh của mình, mẹ nàng chỉ muốn nàng thành ngôi sao.
Melanie vẫn mơ có ngày nàng sẽ vào đại học, nhưng với kế hoạch ghi âm và những chuyến lưu diễn dày đặc như thế này, nàng sẽ không có thì giờ học hành. Để bù lại việc này, nàng đọc sách rất nhiều, ít ra nàng cũng biết được những sự thay đổi và phát triển trên thế giới. Cuộc sống của một ngôi sao rày đây mai đó như thế này không giúp nàng có được kiến thức từ sách vở. - Bây giờ tôi phải về làm việc ở phòng ăn tập thể, - cuối cùng Tom nói. - Tôi có nhiệm vụ phụ giúp nấu món xúp cà rốt. Tôi nấu nướng rất tệ, nhưng may là không bị ai phàn nàn. - Anh cười thoải mái và nói rằng hy vọng sẽ gặp lại nàng trong trại. Nàng nói nếu anh bị bệnh, hãy trở lại, nhưng nàng hy vọng anh không như thế. Nàng vẫy tay chào anh. Xơ Maggie đi gần đó, bà cười và đôi mắt sáng long lanh:
- Anh ấy dễ thương đấy chứ. - Melanie cười ngây ngô hồn nhiên như cô gái mới lớn, chứ không phải là một siêu sao thế giới.
- Phải, dễ thương. Và đẹp trai. Anh ấy sắp tốt nghiệp kỹ sư ở Berkeley, sống ở Pasadena. - Tom rất khác Jake. Jake chải chuốt và thường vào trung tâm cai nghiện, mặc dù nàng đã yêu anh ta một thời gian. Nhưng mới đây nàng đã phàn nàn với Ashley rằng anh ta quá tự tôn. Thậm chí nàng không tin anh ta là người trung thực. Còn Tom thì dễ thương và chân thành.
- Có lẽ cô sẽ gặp anh ấy ở L.A, - Maggie nói. Bà thích hai người họ yêu nhau. Bà không hài lòng anh chàng bạn trai của Melanie hiện thời. Jake chỉ đến bệnh viện một lần để thăm nàng, anh ta nói bệnh viện hôi hám, rồi bỏ về chỗ ở để nằm cho khỏe. Anh ta không tình nguyện làm một công việc gì do người khác đề nghị, lại còn nói làm y tá như Melanie là kỳ cục. Anh ta có quan điểm giống như mẹ nàng. Bà rất giận Melanie. Mỗi đêm Melanie về chỗ ở để ngả lưng nằm nghỉ, bà thường đay nghiến nàng về việc này.
Maggie và Melanie lại bắt tay vào việc, còn Tom về phòng ăn tập thể, nói chuyện với người bạn mà anh đã quen vào cái đêm xảy ra trận động đất. Bạn anh là sinh viên năm cuối tại Đại học USF.
Tớ thấy cậu nói chuyện với ai rồi. - Anh chàng bạn Tom nói với nụ cười ranh mãnh. - Cậu làm quen được với cô ấy kể cũng giỏi đấy.
- Thế à? - Tom đáp và đỏ mặt. - Cô ấy rất dễ thương. Cô ấy ở L.A.
- Đừng đùa! - Anh bạn cười. Họ đặt những cái thùng nấu xúp cà rốt lên lò ga do đoàn Vệ Binh Quốc gia cung cấp.
- Cậu nghĩ cô ấy ở đâu? Ở Thổ tinh à? - Tom không biết tại sao bạn mình hỏi đùa như thế.
- Cậu muốn nói cái gì đấy? Có lẽ cô ấy ở đây cũng nên.
- Trời đất, bộ cậu không đọc những tờ báo lá cải ở Hollywood sao? Dĩ nhiên cô ấy ở L.A. Này ông anh, cô ấy vừa đoạt giải Grammy đấy.
- Thế à? - Tom sửng sốt nhìn bạn, - Tên cô ấy là Melanie... Bỗng anh khựng lại, vẻ ngượng ngùng vì nhận ra mình ngớ ngẩn, không biết cô ấy là ai. - Ôi lạy Chúa, mình không nhận ra cô ấy, chắc cô ấy cho mình là đồ cù lần. Ôi lạy Chúa... Mình nghĩ cô ấy chỉ là một cô gái tóc vàng, sắp để rơi cái thùng hàng và mình nhào vào giúp. Thật ngốc! - Tom cười với bạn. Nhưng cô ấy như thế thật quá tuyệt. - Cô ấy nói ước chi mình đi học trường điều dưỡng, nhưng mẹ cô ấy không cho đi.
- Không cho là đúng. Cô ấy đi hát có quá nhiều tiền. Nếu tớ là mẹ Melanie, tớ cũng không để cho cô ấy đi học. Dĩa của cô giúp cô kiếm ra bạc triệu. - Tom có vẻ bực tức.
- Vậy tại sao cô ấy ghét công việc mình làm?
- Cô ấy có thể chi một ít tiền, và làm bất cứ cái gì cô ta muốn. Nhưng tớ không tin cô ấy sẽ làm y tá. - Anh chàng sinh viên năm cuối ở USF nói.
- Melanie có vẻ thích làm việc ấy, và người tình nguyện viên mà cô ta làm phụ tá nói rằng cô ấy rất giỏi. Ở đây không ai nhận ra Melanie, chắc cô ấy rất vui mừng. - Rồi Tom lại có vẻ bối rối. - Hay phải chăng mình là người duy nhất trên hành tinh không biết cô ấy là ai?
- Chắc thế. Tớ nghe người ta nói có Melanie ở trong trại. Nhưng mãi cho đến sáng nay mới thấy cô ấy nói chuyện với cậu. Quả thật cô ấy rất hấp dẫn. Cậu thật may mắn. - Bạn Tom chúc mừng anh đã gặp may vì quen được với một siêu sao.
- Phải, đúng thế. Chắc cô ấy cho mình là thằng ngố ở trong trại. Và có lẽ mình là người duy nhất không biết Melanie là ai.
- Có lẽ cô ấy cho như thế là điều tuyệt vời, - người bạn trấn an Tom.
- Mình đã nói trông cô ấy quen, và hỏi cô ấy phải chăng chúng ta đã gặp nhau ở đâu rồi, - Tom than thở. - Mình tưởng cô ấy ở Berkeley.
- Không phải, - bạn Tom đáp và cười toe toét. - Ở chỗ tuyệt hơn thế nhiều! Cậu có trở lại gặp cô ấy không?
- Tom hy vọng vậy. Anh muốn gặp lại Melanie. Một lần thôi, để nói với mọi người rằng anh đã gặp nàng.
- Mình sẽ trở lại chỗ Melanie làm việc nếu mình chịu chai mặt.
- Cố lên đi. Cô ấy đáng để cho cậu làm vậy. Vả lại, cậu sẽ không có cơ hội nào khác như cơ hội này để gặp một siêu sao đâu.
- Melanie không hành xử như một siêu sao. Cô ấy rất tự nhiên, - Tom nói. Thái độ bình dị, chân thật của nàng là điều khiến anh rất thích. Nàng lại còn đối xử với anh rất dịu dàng và chân tình.
- Vậy thì chấm dứt việc trách mình là dồ cù lần đi. Hãy đến gặp cô ấy ngay bây giờ.
- Đúng. Có lẽ mình phải đi ngay, - Tom đáp, vẻ tin tưởng. Rồi anh chăm chú quậy nồi xúp. Anh phân vân không biết nàng có đến phòng ăn tập thể để dùng bữa tối hay không.
o O o
Xế chiều hôm đó, Everett đã về khu tạm trú sau khi đã đi một vòng quanh vùng Pacific Heights. Ông chụp nhiều bức ảnh cho một người đàn bà được kéo ra từ dưới đống đổ nát của một ngôi nhà. Bà ta mất một chân, nhưng vẫn còn sống. Cảnh lôi bà ta ra thật cảm động, ngay cả ông mà cũng phải khóc. Mặc dù đã từng ở trong các vùng có chiến tranh, nhưng ông vẫn thấy có nhiều cảnh trong khu tạm trú rất đau lòng. Ông nói thế với Maggie trong lúc bà nghỉ giải lao. Melanie ở trong bệnh viện phát thuốc Insulin và ống tiêm cho những người có tên trong danh sách do máy phóng thanh thông báo.
Ông cười với Maggie và nói: - Bà biết không, tôi sẽ rất buồn khi về lại L.A. Tôi thích ở đây.
- Tôi cũng như ông, - bà đáp, - Khi tôi từ Chicago đến San Francisco, tôi yêu ngay thành phố này. Tôi đến đây để vào dòng tu Carmelite, nhưng cuối cùng lại vào dòng khác. Tôi thích làm việc với những người vô gia cư trên đường phố.
- Bà là mẹ Teresa của chúng tôi, - ông nói đùa bởi không biết rằng người ta đã so sánh Maggie với vị nữ tu thánh thiện này nhiều lần. Bà cũng có đức tính khiêm nhường, có nghị lực, có lòng trắc ẩn vô bờ, tất cả những đức tính này đều xuất phát từ niềm tin và bản chất của bà. Tâm bà luôn rực sáng.
- Tôi nghĩ những nữ tu dòng Carmelite quá thụ động. Họ lo cầu nguyện mà không lao động chân tay. Tôi thích dòng tu hiện tôi đang theo, - bà nói với vẻ thanh thản. Hai người cùng uống nước. Hôm ấy trời lại nóng, như hôm trước khi xảy ra động đất. Thời tiết rất khác thường, vì San Francisco không bao giờ nóng như vậy. Mặt trời lúc xế chiều chiếu lên mặt họ ánh nắng gay gắt.
- Có bao giờ bà chán ngán công việc, hay là tự hỏi mình có thiên hướng gì không? - Ông nói một cách chân tình bởi bây giờ họ là bạn bè, ông rất mến phục bà.
- Tại sao tôi chán ngán? - Bà kinh ngạc hỏi lại.
- Vì hầu hết chúng ta đều có lúc như thế, mình tự hỏi mình đang làm gì đây, không biết mình có đi đúng hướng không. Tôi đã làm như thế nhiều lần. - ông đáp. Và một lúc sau, bà gật đầu.
- Ông đã hành động quá trớn, - bà dịu dàng nói. - Lấy vợ năm mười tám tuổi. Ly dị, bỏ con và rời khỏi Montana để làm những điều mình thích. Việc ông làm đòi hỏi phải hy sinh đời sống cá nhân. Rồi ông bỏ việc, bỏ rượu. Đấy toàn là những quyết định rất quan trọng, khó mà làm được. Công việc tôi chọn dễ dàng hơn ông nhiều. Tôi đi đến nơi người ta phải đến, làm việc theo lời người ta căn dặn. Vâng lời. Sự vâng lời làm cho đời sống của chúng ta đơn giản hơn. - Bà nói nghe có vẻ bà là người rất tự tin nhưng an phận.
- Việc làm của bà mà gọi là đơn giản ư? Bà không nhất trí với thượng cấp và muốn làm việc theo ý mình phải không?
- Thượng cấp của tôi là Chúa, - bà đáp. - Cuối cùng, tôi làm việc cho Ngài. Mà đúng, - bà nói tiếp với vẻ dè dặt, - thỉnh thoảng tôi nghĩ điều mà Mẹ bề trên muốn hay Đức Giám mục nói là ngốc nghếch, thiển cận, cổ xưa. Họ cho rằng tôi quá cấp tiến, nhưng bây giờ họ để cho tôi làm điều tôi muốn. Họ biết tôi không thích làm cho họ lúng túng, và tôi đã không nói quá nhiều đến các chính sách của địa phương. Điều đó sẽ làm cho mọi người lo lắng, nhất là khi tôi nói đúng. - Bà cười.
- Bà không quan tâm đến đời sống riêng cho mình à?
- Ông không tưởng tượng nổi điều này. Ông sống quá độc lập và không tuân phục ai, nhất là giáo hội hay những người điều hành giáo hội. Nhưng bà lại khác ông.
- Đời tôi là vậy và tôi thích thế. Việc tôi làm ở Presidio hay Tenderloin, với gái điếm hay với những người nghiện ma tuý, không thành vấn đề. Vấn đề quan trọng là tôi giúp họ, để phụng sự Chúa. Như người lính chiến đấu phục vụ quê hương, tôi chỉ biết theo mệnh lệnh. Tôi không cần đề ra luật cho mình. - Everett luôn luôn vướng mắc với luật lệ, với nhà cầm quyền, vì thế mà một thời ông đâm ra nghiện rượu. Khi người khác bảo ông làm cái này cái nọ, ông đã không tuân theo. Mặc dù bây giờ ông đã bỏ rượu, nhưng Maggie vẫn dễ bảo hơn ông rất nhiều. Đôi lúc người ta vẫn còn dùng quyền hành để sai khiến ông, nhưng bây giờ ông đã biết chịu đựng, chịu khuất phục. Ông đã già hơn, mềm dẻo hơn và cũng nhờ việc bỏ rượu mà ông được thế.
- Bà cho vấn đề này có vẻ đơn giản vậy thôi, - Everett thở dài nói. Ông uống cạn cốc nước rồi nhìn bà chằm chằm. Bà đẹp, nhưng trốn tránh cuộc đời, không giao du với ai vượt quá giới hạn tình người. Trông bà rất đáng yêu, nhưng giữa bà với mọi người như có bức tường vô hình, và bà đứng sau bức tường như thế. Bức tường còn có sức mạnh nhiều hơn chiếc áo dòng tu bà mặc trên người. Dù người khác có thấy bức tường đó hay không, bà vẫn luôn luôn nghĩ rằng bà là kẻ tu hành, và bà muốn cứ mình như thế mãi.
- Đơn giản thật, Everett à, - bà dịu dàng nói. - Tôi vừa nhận chỉ thị của Đức Cha, ngài nói rằng hãy làm bất cứ cái gì tôi được sai bảo, chỉ thị này có vẻ rất đúng với hiện tại. Tôi đến đây để phục vụ, chứ không điều hành công việc. Không bảo người khác phải sống như thế nào. Đấy không phải là công việc của tôi.
- Đấy cũng không phải việc của tôi, - ông chậm rãi đáp. - Nhưng tôi có ý kiến quyết liệt về hầu hết mọi việc của chính tôi. Bà không mơ ước có tổ ấm cho mình, có chồng con ư? - Bà lắc đầu.
- Tôi không hề nghĩ đến chuyện đó. Tôi không bao giờ nghĩ rằng tôi sẽ có cuộc sống như thế. Nếu tôi lấy chồng, có con, tôi chỉ chăm sóc cho họ thôi. Tôi không thể chăm sóc nhiều người hơn được. - Bà có vẻ hài lòng với cuộc sống hiện tại.
- Còn về phần bà thì sao? Bà không muốn nhiều hơn thế ư? Cho riêng bà?
- Không. - Bà cười. - Tôi không muốn nhiều hơn. Đời tôi như thế này là đã hoàn hảo rồi. Tôi thích như thế.
Người ta gọi đó là thiên hướng. Tôi như người đã được chọn lựa để thực hiện mục đích đặc biệt. Đây là một vinh dự. Tôi nghĩ ông sẽ đồng ý với tôi, nhưng đừng xem đây là sự hy sinh. Tôi không từ bỏ cái gì hết. Tôi đã đạt được nhiều thứ ngoài mơ ước của tôi. Tôi không thể đòi hỏi gì nhiều hơn nữa.
- Bà rất may mắn. - Ông buồn bã đáp. Ông nghĩ, rõ ràng bà không cần gì cho mình hết, không có ước muốn tiến thân, không tham lam. Bà hoàn toàn sung sướng được cống hiến đời mình cho Chúa. - Tôi luôn luôn muốn những gì mình không có, lòng tự hỏi những thứ đó như thế nào. Tôi thường muốn chia sẻ đời mình với ai đấy, muốn có gia đình, có con, để nhìn chúng khôn lớn. Tôi muốn có người chung vui đời sống với tôi. Bây giờ quá tuổi thanh niên, tôi thấy sống một mình thật tẻ nhạt. Tôi cảm thấy mình trống rỗng và ích kỷ. Nếu không chia sẻ mọi thứ với người mình yêu, cuộc đời có gì vui đâu? Rồi chết cô độc, sẽ buồn biết bao? Thế nhưng tôi không có thì giờ để làm công việc ấy. Tôi quá bận đi lấy tin ở các vùng có chiến tranh. Nếu không, có lẽ tôi sẽ quá sợ hãi khi mắc phải tội lấy vợ khi còn nhỏ dại. Bị bắn còn ít đáng sợ hơn điều đó. - Giọng ông buồn bã. Bà nhẹ để tay mình lên cánh tay ông.
- Ông nên đi tìm con trai ông, - bà nói nhỏ. - Có lẽ cậu ấy cần ông đấy. Ông là món quà lớn của cậu ấy. Và có thể cậu ấy sẽ làm cho ông hết trống rỗng.- Bà biết ông cô độc, bà nghĩ ông không nên tiếp tục như thế, mà quay lại tìm con, ít ra là trong một thời gian.
- Có lẽ vậy, - ông đáp. Rồi ông đổi đề tài. Nghĩ đến chuyện tìm gặp con khiến ông sợ. Việc này thật quá khó đối với ông. Thời gian đã quá lâu, có lẽ Chad rất hận ông vì đã bỏ rơi cậu ấy. Khi đó Everett mới hai mươi mốt tuổi, mà lại có trách nhiệm quá nặng nề đè lên vai. Cho nên ông bỏ đi và chìm ngập vào rượu suốt hai mươi sáu năm tiếp theo đó. Ông gởi tiền để nuôi con cho đến khi cậu ấy được mười tám tuổi, nhưng việc này đã chấm dứt mười hai năm rồi. - Tôi nhớ những buổi họp ở hội cai rượu - ông nói. - Khi không đến đó, tôi thường cảm thấy bực bội. Tôi đi dự họp một ngày hai lần. Thỉnh thoảng nhiều hơn. - Thế mà trong ba ngày qua, ông không đi buổi nào. Không có buổi họp nào mở ra trong thành phố bị tàn phá này, và ông không làm sao tổ chức được hội cai rượu trong trại.
- Tôi nghĩ là ông nên làm điều đó, - bà khuyến khích.
- Có lẽ chúng ta còn ở đây một vài tuần nữa. Thời gian như vậy là quá lâu cho ông và mọi người chắc cũng nhớ những buổi họp. Ở đây có nhiều người cai nghiện, tôi cam đoan họ sẽ đáp ứng lời kêu gọi của ông rất nhiệt tình.
- Có lẽ tôi sẽ tổ chức, - ông đáp rồi cười với bà. Bà luôn luôn làm cho ông cảm thấy nhẹ nhõm. Bà là người rất đặc biệt. - Maggie à, tôi thực sự yêu quý bà, - ông nói một cách tự nhiên, thành thật. - Chưa bao giờ tôi gặp ai như bà. Bà là bà xơ đáng quí trọng, tôi đã hằng mong ước gặp được một người như bà đây.
- Cám ơn ông, - bà đáp, miệng cười hiền từ, rồi bà đứng lên. - Ông nhắc tôi nhớ đến một trong số các anh trai của tôi. Người đã làm linh mục. Tôi nghĩ ông nên làm linh mục, - bà trêu chọc ông. - Ông sẽ có nhiều người để chia sẻ. Ông hãy nghĩ đến những lời thú tội khủng khiếp mà ông sẽ nghe!
- Không có chuyện đó đâu! - Everett đáp. Ông từ biệt bà, đến tìm một người tình nguyện trong Hội Chữ Thập Đỏ làm việc trong ban quản lý trại. Rồi sau đó ông trở về phòng, làm một tấm biển hiệu có hàng chữ: “Bạn của Bill W”. Những thành viên trong hội cai rượu sẽ biết ý nghĩa của hàng chữ này, vì tên người trên tấm biển là người đã sáng lập ra hội. Khi gặp thời tiết nóng như bây giờ, họ sẽ họp ngoài trời, xa con đường đất một đoạn ngắn. Trong khi đi quanh trại, ông đã khám phá ra một khu rừng nhỏ thật yên tĩnh. Đây là chỗ họp rất lý tưởng. Người quản lý trại đã hứa sáng mai sẽ công bố trên loa phóng thanh. Trận động đất đã qui tụ đến đây hàng ngàn người, mỗi người đều có nỗi niềm riêng của mình. Bây giờ họ đã trở thành một thành phố trong thành phố, có cuộc sống riêng của họ. Lại một lần nữa, Maggie nói đúng. Ông cảm thấy thoải mái hơn sau khi quyết định tổ chức hội Cai rượu trong trại. Rồi ông lại nghĩ đến Maggie, bà đã có ảnh hưởng rất tích cực với ông. Dưới mắt ông, bà không chỉ là người phụ nữ, là nữ tu, mà bà còn là một điều gì đó rất huyền nhiệm nữa.
Những Trái Tim Vàng Những Trái Tim Vàng - Danielle Steel Những Trái Tim Vàng