Chương 6
ố mẹ đánh thức con dậy,” ông Pod nói, “để kể cho con về trên nhà.”
Arrietty, cầm cái tách lớn trong hai tay, nhìn ông qua miệng tách.
Ông Pod ho lên. “Cách đây khá lâu con có nói bầu trời có màu nâu thẫm với những vết nứt. Ừ, không phải như thế đâu.” Ông nhìn cô bé gần như với vẻ trách móc. “Nó màu xanh.”
“Con biết,” Arrietty nói.
“Con biết ư?” ông Pod kêu lên.
“Vâng, tất nhiên là con biết. Con có cái lưới.”
“Con có thể nhìn thấy bầu trời qua cái lưới ư?”
“Kể đi,” bà Homily ngắt lời, “kể cho nó biết về những cái cổng.”
“Ừm,” ông Pod từ tốn nói, “nếu ra ngoài phòng này, con sẽ nhìn thấy gì?”
“Một hành lang tối,” Arrietty nói.
“Và gì nữa?”
“Những căn phòng khác.”
“Và nếu đi xa hơn nữa?”
“Thêm nhiều hành lang.”
“Và, nếu cứ đi tiếp và tiếp nữa, qua tất cả các hành lang dưới sàn nhà, dù nó lắt léo đến mấy, con sẽ thấy gì?”
“Những cái cổng,” Arrietty nói.
“Những cái cổng kiên cố,” ông Pod nói, “những cái cổng mà con không mở được. Chúng ở đó để làm gì?”
“Để chống chuột?” Arrietty nói.
“Phải,” ông Pod ngập ngừng đồng ý, như thể ông đang cho cô bé một nửa điểm, “nhưng chuột nhắt chẳng bao giờ làm hại ai. Còn gì nữa?”
“Chuột cống?” Arrietty gợi ý.
“Ở đây không có chuột cống,” ông Pod nói. “Thế còn mèo?”
“Mèo?” Arrietty lặp lại, ngạc nhiên.
“Hoặc để nhốt con ở trong?” ông Pod gợi ý.
“Để nhốt con ở trong?” Arrietty nhắc lại, thất thần.
“Trên nhà là một nơi nguy hiểm,” ông Pod nói. “Và con, Arrietty, con là tất cả với bố mẹ, hiểu không? Không như bác Hendreary - bác ấy vẫn còn có hai đứa con riêng và hai đứa của bác gái. Có một thời,” ông Pod nói, “bác Hendreary có ba - ba đứa con riêng.”
“Bố của con đang nghĩ đến Eggletina,” bà Homily nói.
“Ừ,” ông Pod nói, “Eggletina. Họ không bao giờ kể với nó về trên nhà. Và họ tuyệt chẳng có lưới sắt. Họ nói với nó rằng bầu trời được đóng đinh treo lên, kiểu thế, với những vết nứt...”
“Một cách dạy bảo trẻ con thật ngu ngốc,” bà Homily lẩm bẩm. Bà hít nhẹ và vuốt tóc Arrietty.
“Nhưng Eggletina không phải đứa ngu ngốc,” ông Pod nói, “nó không tin họ. Rồi một ngày,” ông nói tiếp, “nó đã lên trên nhà để tự mình xem.”
“Làm sao chị ấy ra ngoài được?” Arrietty hỏi, thích thú.
“Ừ, lúc đó chúng ta không có nhiều cổng lắm. Chỉ có cái cổng ở dưới đồng hồ. Bác Hendreary chắc đã không khóa hoặc sao đó. Dù sao đi nữa, Eggletina cũng đã ra ngoài...”
“Mặc váy màu xanh biển,” bà Homily nói, “và đi đôi ủng có nút mà bố con đã đóng cho, bằng da dê non màu vàng với hạt huyền làm nút. Đôi ủng thật đáng yêu.”
“Ừm,” ông Pod nói, “nếu là bất cứ lúc nào khác thì có thể đã không sao. Nó đã ra ngoài, nhìn xung quanh, hơi sợ hãi, có thể thế, và quay lại - vô thưởng vô phạt...”
“Nhưng đã có những chuyện xảy ra,” bà Homily nói.
“Phải,” ông Pod nói, “nó không biết, vì họ không hề kể cho nó biết, là bố của nó đã bị ‘nhìn thấy’ và ở trên nhà họ đã có một con mèo và...”
“Họ đợi một tuần,” bà Homily nói, “rồi họ đợi một tháng và họ hy vọng trong một năm nhưng tuyệt chẳng còn ai nhìn thấy Eggletina lần nào nữa.”
“Và đó,” ông Pod nói sau giây lát tạm ngừng và nhìn Arrietty chăm chú, “là điều đã xảy ra với Eggletina.”
Im lặng, ngoại trừ tiếng thở của ông Pod và tiếng lục bục khe khẽ của nồi xúp.
“Việc đó đã làm bác Hendreary của con suy sụp,” cuối cùng bà Homily nói. “Bác ấy không bao giờ lên trên nhà nữa - chẳng may, bác ấy nói, nhỡ bác ấy tìm thấy đôi ủng có nút. Tương lai duy nhất của họ là di cư.”
Arrietty im lặng một lúc, rồi cô bé ngẩng đầu lên.
“Tại sao bố mẹ kể cho con?” cô bé hỏi. “Vào lúc này? Đêm nay?”
Bà Homily đứng dậy. Bà bồn chồn đi về phía bếp. “Bố mẹ không bao giờ nói về chuyện đó,” bà nói, “ít ra là không nhiều, nhưng, đêm nay, bố mẹ thấy...” Bà quay ngoắt lại. “Ừm, bố mẹ sẽ nói thẳng ra: bố con đã bị ‘nhìn thấy,’ Arrietty ạ!”
“Ôi!” Arrietty nói, “ai?”
“Ừm, bị một - một thứ con chưa bao giờ nghe đến. Nhưng đó không phải là vấn đề: vấn đề là...”
“Mẹ nghĩ họ sẽ nuôi một con mèo?”
“Họ có thể,” bà Homily nói.
Arrietty đặt xúp xuống một lát; cô bé nhìn chăm chú vào cái tách trên sàn nhà bên cạnh mình, nó cao gần tới đầu gối cô; có vẻ gì đó mơ mộng, bí ẩn trên khuôn mặt đang cúi xuống của cô bé. “Chúng ta không thể di cư sao?” cuối cùng cô bé đánh bạo nói, với giọng thỏ thẻ.
Bà Homily há hốc miệng kinh ngạc và siết chặt hai bàn tay rồi quay ngoắt về phía bức tường. “Con không biết con đang nói gì đâu,” bà kêu lên, nói với chiếc chảo nướng đang treo trên tường. “Bọn giun và chồn rồi lạnh và ẩm và...”
“Nhưng lỡ như,” Arrietty nói, “con đi ra ngoài, như Eggletina đã làm, và mèo ăn thịt con. Lúc đó bố mẹ sẽ di cư, đúng không?” cô bé hỏi, và giọng nói trở nên ấp úng. “Đúng không?”
Bà Homily quay phắt lại lần nữa, lần này là về phía Arrietty; mặt bà trông rất giận dữ. “Mẹ sẽ đánh con, Arrietty Clock, nếu con không cư xử cho ngoan ngoãn ngay lập tức!”
Đôi mắt Arrietty đẫm lệ. “Con chỉ đang nghĩ,” cô bé nói, “là con thích được ở đó - cũng được di cư. Không bị ăn thịt,” cô bé thỏ thẻ nói thêm và những giọt nước mắt bắt đầu rơi.
“Thôi,” ông Pod nói, “thế là đủ rồi! Con lên giường đi, Arrietty, không bị ăn thịt và không bị đánh - và chúng ta sẽ nói về việc này vào sáng mai.”
“Không phải là con sợ đâu,” Arrietty kêu lên giận dữ, “Con thích mèo. Con tin chắc con mèo đã không ăn thịt Eggletina. Con cược là chị ấy chỉ bỏ nhà đi vì chị ấy ghét bị giam trong lồng... ngày này qua ngày khác... tuần này qua tuần khác... năm này qua năm khác... Như con!” cô bé nói thêm với tiếng khóc nức nở.
“Bị giam trong lồng!” bà Homily nhắc lại, kinh ngạc.
Arrietty úp mặt vào đôi bàn tay. “Những cái cổng...” cô bé nói hổn hển, “những cái cổng, cổng, cổng...”
Ông Pod và bà Homily nhìn nhau trân trân qua đôi vai thõng xuống của Arrietty. “Bà tuyệt chẳng nên đưa ra chuyện này,” ông nói vẻ không vui, “không nên vào lúc đêm khuya...”
Arrietty ngẩng mặt lên với những dòng nước mắt tuôn chảy. “Khuya hay sớm cũng có gì khác đâu?” cô bé kêu lên. “Ôi, con biết bố là một Người Vay Mượn rất giỏi. Con biết chúng ta đã xoay xở để ở lại được khi tất cả những người khác phải ra đi. Nhưng rốt cuộc nó đã đem lại cái lợi gì cho chúng ta chứ? Con không nghĩ là khôn ngoan khi sống một mình, mãi mãi và mãi mãi, ở trong một ngôi nhà to lớn, gần như vắng tanh; ở dưới sàn nhà, không có ai để nói chuyện, không có ai để chơi cùng, không có gì nhìn ngoài bụi và hành lang, không có ánh sáng nào ngoài ánh nến và ánh lửa và thứ lọt qua các vết nứt. Eggletina đã có anh em và Eggletina còn có anh em dượng; Eggletina có một con chuột thuần; Eggletina có đôi ủng màu vàng với những nút hạt huyền, và Eggletina đã ra ngoài - chỉ một lần!”
“Suỵt,” ông Pod nhẹ nhàng nói, “đừng nói to thế.” Ở trên đầu họ sàn nhà kêu cọt kẹt và có tiếng bước chân nặng nề đi lại. Họ nghe thấy giọng càu nhàu của bà Driver và tiếng lách cách của que sắt cời lửa. “Chết tiệt cái bếp này,” họ nghe thấy bà nói, “lại có gió Đông rồi.” Rồi họ nghe thấy bà cất giọng gọi, “Crampfurl!”
Pod ủ rũ nhìn sàn nhà một cách chăm chú; Arrietty hơi run rẩy và thu mình chặt hơn vào trong chiếc chăn đan còn bà Homily hít một hơi dài và chậm. Bất chợt bà ngẩng đầu lên.
“Con bé nói đúng,” bà tuyên bố chắc nịch.
Mắt Arrietty tròn xoe. “Ôi, không...” cô bé cất giọng. Cô bé bị bất ngờ vì được cho là đúng. Bố mẹ luôn đúng, con cái thì không. Con cái có thể nói bất cứ chuyện gì, Arrietty biết, và cứ tha hồ mà nói - biết chúng luôn được an toàn và luôn sai.
“Ông hiểu không, ông Pod,” bà Homily nói tiếp, “thời của tôi với ông thì khác lắm. Lúc đó có các gia đình khác, những đứa trẻ con khác... nhà Sink[5] ở trong phòng rửa bát, ông nhớ không? Và những người sống ở sau cái máy mài dao ấy - giờ tôi quên mất tên họ rồi. Và những chàng trai nhà Broom-Cupboard[6]. Rồi còn có lối đi dưới lòng đất từ chuồng ngựa - ông biết đấy, lối mà gia đình Rain-Pipe đã dùng. Chúng ta đã từng có, có thể nói vậy, nhiều tự do hơn.”
[5] Sink nghĩa là “bồn rửa”.
[6] Broom-Cupboard nghĩa là “tủ đựng đồ lau dọn”.
“À, đúng,” ông Pod nói, “theo một cách nào đó. Nhưng tự do sẽ đưa bà đến đâu?” Ông ngập ngừng nhìn lên. “Bây giờ tất cả họ đang ở đâu chứ?”
“Một số đã có cuộc sống tốt hơn, tôi nghĩ chắc thế,” bà Homily gay gắt nói. “Thời gian đã thay đổi toàn bộ ngôi nhà này. Đồ thừa không như hồi trước. Có những người đã ra đi, ông nhớ chứ, khi họ đào rãnh cho ống ga. Xuyên qua những cánh đồng, và xuyên qua khu rừng, và tất cả. Một loại đường hầm cho họ, đến tận Leighton Buzzard.”
“Và họ đã tìm thấy gì ở đó?” ông Pod hỏi với giọng chẳng mấy nhã nhặn. “Một núi than!”
Homily quay đi. “Arrietty,” bà nói, với cùng một giọng chắc nịch, “nếu một ngày - chúng ta chọn một ngày đặc biệt khi không có ai ở đây, và nếu họ không mang con mèo về mà mẹ có những lý do riêng để nghĩ rằng họ sẽ không mang - nếu, một ngày, bố con dẫn con ra ngoài đi mượn, con sẽ là cô gái ngoan chứ? Con sẽ chỉ làm điều gì bố bảo, nhanh và khẽ và không bàn cãi?”
Mặt Arrietty ửng hồng; cô bé siết hai tay vào nhau. “Ôi...” cô bé bắt đầu bằng một giọng sung sướng, nhưng ông Pod nhanh chóng xen vào:
“Này, bà Homily, chúng ta cần phải suy nghĩ. Bà không thể cứ nói những chuyện như thế mà không suy nghĩ kỹ càng. Tôi đã bị ‘nhìn thấy’, bà nhớ không? Bây giờ không phải lúc dẫn một đứa trẻ lên trên nhà.”
“Sẽ không có mèo đâu,” bà Homily nói, “không có tiếng thét lên. Không phải như cái lần với Rosa Pickhatchet.”
“Dù sao đi nữa,” ông Pod ngập ngừng nói, “vẫn có nguy hiểm. Trước nay tôi tuyệt chẳng bao giờ nghe thấy đứa con gái nào đi mượn cả.”
“Tôi thì thấy rằng,” bà Homily nói, “và chỉ bây giờ ý nghĩ đó mới đến với tôi; giá như ông có đứa con trai thì ông đã dẫn nó đi mượn, đúng không? Ừ thì, ông không có con trai mà chỉ có Arrietty. Giả dụ bất cứ điều gì đó xảy đến với ông hay với tôi, Arrietty sẽ thế nào nếu nó chưa học đi mượn?”
Pod nhìn chằm chằm xuống đầu gối mình. “Ừ,” ông nói sau giây lát, “tôi hiểu ý bà.”
“Và việc đó sẽ cho nó một chút hứng thú, kiểu thế, và ngăn nó tiếp tục mơ ước.”
“Mơ ước gì?”
“Mơ ước bầu trời xanh và cỏ và những thứ như thế.” Arrietty thở mạnh và bà Homily quay phắt về phía cô bé, “Không hay đâu, Arrietty, mẹ sẽ không di cư - vì con hay bất cứ ai khác!”
“À,” ông Pod nói và bắt đầu cười, “thế ra là vì việc đó!”
“Suỵt!” bà Homily nói, bực mình, và liếc nhanh lên trần nhà. “Đừng nói to như thế! Thôi, con hôn bố đi, Arrietty,” bà lanh lợi nói tiếp, “rồi trở lại giường đi.”
Trong khi rúc xuống dưới chăn Arrietty cảm thấy, lan lên từ các ngón chân, một dòng hạnh phúc giống luồng hơi ấm. Cô bé nghe thấy giọng to nhỏ ở phòng bên cạnh: giọng nói của bà Homily vẫn tiếp tục đều đều, thận trọng và chắc chắn - Arrietty cảm thấy có một sự vững tin đằng sau đó; đó là giọng nói chiến thắng. Có lúc cô bé nghe thấy ông Pod đứng dậy và tiếng ken két của cái ghế. “Tôi không thích chuyện đó!” cô bé nghe thấy ông nói. Và cô bé nghe thấy bà Homily nói thầm “Suỵt!” và có tiếng chân đi lại rất to trên sàn ở phía trên và tiếng loảng xoảng bất thình lình của những chiếc chảo.
Arrietty, hơi thiêm thiếp, nhìn lên trần nhà vẽ tranh của mình. “Flor de Havanna,” những tấm biểu ngữ tự hào tuyên bố. “Garantizados... Superiores... Non Plus Ultra... Esquisitos...” và các quý cô mảnh dẻ đáng yêu đang thổi kèn, im lặng, khải hoàn, những nốt nhạc câm lặng của niềm hân hoan...
Những Người Vay Mượn Tí Hon Những Người Vay Mượn Tí Hon - Mary Norton Những Người Vay Mượn Tí Hon