Chương 4
8
Những cơn đau đầu lại hành hạ Tariq.
Nhiều đêm, Laila tỉnh giấc và thấy anh đang ở mép giường, người rung lên, cái áo lót kéo trùm lên đầu. Anh nói những cơn đau đầu xuất hiện từ khi anh ở Nasir Bagh, sau đó nặng dần lên trong thời gian anh ở tù. Đôi khi chúng làm anh nôn mửa, làm một bên mắt lòa đi. Anh nói có cảm giác như một con dao của tay đồ tể đang khoét sâu vào một bên thái dương, chầm chậm xoáy sâu vào não anh rồi thòi ra ở phía bên kia.
“Khi cơn đau bắt đầu, anh thậm chí có thể cảm thấy chất thép lạnh của con dao đó.”
Thỉnh thoảng, Laila dấp ướt một miếng vải đặt lên trán anh, nhờ đó cơn đau cũng đỡ đi một chút. Một vài viên thuốc tròn màu trắng nho nhỏ mà bác sĩ của Sayeed đưa cho Tariq cũng có tác dụng. Nhưng nhiều đêm, tất cả những gì Tariq có thể làm là ôm đầu và rên rỉ, mắt anh đỏ ngầu, mũi rỏ nước. Laila ngồi bên cạnh anh mỗi khi anh bị giày vò như thế, xoa bóp sau gáy anh, cầm tay anh trong tay mình, chiếc nhẫn cưới anh đeo cọ vào lòng bàn tay cô lành lạnh.
Họ tổ chức đám cưới vào ngay cái ngày họ tới Murree. Sayeed nhẹ cả người khi Tariq nói với ông rằng họ sẽ cưới nhau. Ông sẽ không phải đề cập với Tariq cái vấn đề tế nhị khi một cặp nam nữ không có hôn thú lại trú ngụ ở khách sạn này. Sayeed không có vẻ gì giống như Laila đã hình dung về ông với gương mặt hồng hào và đôi mắt ti hí. Thực tế thì ông có hàng ria màu muối tiêu, phần chỏm được cuộn lại thành một mũi nhọn và mớ tóc dài xám màu được chải từ trán hất ra phía sau. Ông có giọng nói nhẹ nhàng, lịch sự, mọi lời nói ra đều có sự suy xét và cử chỉ duyên dáng.
Chính Sayeed đã mời một người bạn và một giáo sĩ tới để làm lễ nikka ngày hôm đó, cũng chính Sayeed là người đã kéo Tariq ra một góc và đưa cho anh một món tiền. Tariq không muốn nhận nhưng Sayeed cứ cố nài. Tariq đi tới chợ trung tâm và khi quay trở về, anh mang theo hai chiếc nhẫn cưới mỏng và đơn giản. Họ cưới nhau tối hôm đó, sau khi lũ trẻ đã đi ngủ.
Ở trong gương, bên dưới tấm mạng xanh mà vị giáo sĩ đã phủ lên đầu họ, mắt Laila bắt gặp mắt Tariq. Không có nước mắt, không có nụ cười ngày cưới, không có những lời thì thầm nguyện ước yêu nhau trọn đời. Trong im lặng, Laila nhìn vào hình ảnh phản chiếu của họ, nhìn vào hai khuôn mặt già hơn nhiều so với tuổi, nhìn vào những mọng mắt, những nếp nhăn và những chỗ sệ xuống giờ đây đã in hằn trên những khuôn mặt một thời tinh khôi, trẻ trung. Tariq mở miệng định nói gì đó, nhưng ngay lúc ấy, một người đã kéo tấm mạng, và Laila không biết anh đang định nói gì nữa.
Đêm đó, họ nằm trên giường với tư cách vợ chồng, khi lũ trẻ đã nằm ngáy dưới chiếu ngủ bên dưới. Laila nhớ lại khoảng không gian giữa cô và Tariq đã dễ dàng được lấp đầy bằng những lời nói như thế nào khi họ còn trẻ, nhớ cái líu ríu, liến thoắng, luôn luôn ngắt lời nhau và đứa nọ túm vào cổ áo đứa kia khi nhấn mạnh một điều gì, nhớ cái tính dễ cười, nhớ cái ham muốn được vui chơi thỏa thích. Bao nhiêu chuyện đã xảy ra kể từ những ngày thơ ấu đó, bao nhiêu điều cần phải nói. Nhưng trong cái đêm đầu tiên ấy, tất cả những cảm xúc ngập tràn đã lấy hết từ ngữ của cô. Đêm đó, chỉ cần được ở cạnh anh đã là quá đủ sung sướng. Chỉ cần được biết rằng anh đang ở đây, được cảm thấy hơi ấm của anh ở bên cạnh cô, được nằm với anh, đầu chụm vào nhau, cánh tay phải của anh ôm cô từ phía bên trái chỉ cần vậy thôi đã là quá đủ hạnh phúc rồi.
Vào nửa đêm, khi Laila tỉnh giấc vì khát nước, cô thấy tay họ vẫn đang đan chặt vào nhau, các đốt ngón tay ép vào nhau đến trắng bệch ra, như những đứa bé lo lắng giữ chặt sợi dây buộc bóng bay của mình vậy.
Laila thích những buổi sáng mát mẻ, nhiều sương mù của Murree và cả những tia sáng le lói lúc chạng vạng, bầu trời đêm sâu thẳm lấp lánh ánh sao; màu xanh thẫm của những cây thông và màu nâu nhạt của những con sóc đang phi vùn vụt trên những thân cây cứng cáp; những cơn mưa rào bất chợt làm cho những người mua hàng trong chợ trung tâm bị kẹt lại dưới các mái hiên. Cô thích các cửa hàng bán đồ lưu niệm và rất nhiều khách sạn dành cho du khách, thậm chí cô thích cả khi người dân địa phương than vãn rằng việc không ngừng xây dựng, mở rộng cơ sở hạ tầng đang làm mất đi vẻ đẹp tự nhiên của Murree. Laila lấy làm lạ khi thấy mọi người lại phàn nàn về việc xây dựng những tòa nhà. Ở Kabul, có lẽ người ta sẽ ăn mừng vì điều đó.
Cô thích thú vì họ có một phòng tắm, không phải ở bên ngoài nhà mà là một phòng tắm thực sự với một cái toilet có giật xả nước, một vòi tắm hoa sen và một bồn rửa mặt có những cái vòi nước đôi, từ đó chỉ cần gạt nhẹ tay là cô có thể lấy ra nước nóng hoặc nước lạnh. Cô thích thú khi dược đánh thức bởi tiếng be be của Alyona vào mỗi buổi sáng, và giọng nói của Adiba, bác đầu bếp hay gắt gỏng nhưng vô hại, người tạo nên những điều kỳ diệu trong nhà bếp.
Thỉnh thoảng, khi Laila nhìn Tariq ngủ, khi những đứa con của cô càu nhàu và cựa quậy trong giấc ngủ của chúng, một niềm biết ơn dâng trào trong cô, làm mắt cô đẫm nước.
Vào những buổi sáng, Laila theo Tariq từ phòng này sang phòng kia. Những chiếc chìa khóa xuyên thành xâu ngang hông anh kêu xủng xoảng và chai nước lau kính treo lủng lẳng vào đỉa chiếc quần bò anh mặc. Laila thì mang một cái xô đầy những giẻ, thuốc tẩy uế, một cái cọ bệ xí, và thuốc xịt côn trùng. Aziza cũng lẽo đẽo đi theo như hình với bóng, một tay cầm một cái móp lau sàn, tay kia cầm một con búp bê nhồi hạt đậu mà Mariam đã làm cho con bé. Zalmai đi theo họ một cách miễn cưỡng và hờn dỗi, luôn ở phía sau vài bước.
Laila hút bụi, chỉnh trang lại giường và lau đồ đạc. Tariq rửa bồn rửa mặt và bồn tắm, cọ toilet và lau cái sàn nhà lót vải sơn. Anh cất khăn sạch, những lọ dầu gội đầu nhỏ xíu và những miếng xà phòng mùi quả hạnh lên các giá. Aziza đã nhận nhiệm vụ xịt kính và lau các cửa sổ. Con búp bê không bao giờ ở quá xa chỗ nó đang làm.
Laila nói với Aziza về Tariq một vài ngày sau lễ nikka.
Laila nghĩ những chuyện giữa Aziza và Tariq thật lạ lùng, gần như khiến cô bối rối. Giờ thì Aziza nói nốt câu mà anh nói với nó, còn anh cũng nói nốt những câu nó đang nói dở. Con bé đưa các thứ cho anh trước khi anh hỏi đến chúng. Những nụ cười bí mật mà bọn họ trao đổi với nhau qua chiếc bàn ăn tối như thể họ không phải người lạ mà giống những người quen gặp lại nhau sau bao ngày xa cách.
Aziza nhìn xuống cánh tay mình với vẻ nghĩ ngợi khi Laila nói với nó.
“Con quý ông ấy,” con bé nói sau khi im lặng một lúc lâu.
“Ông ấy yêu con.”
“Ông ấy nói thế ạ?”
“Không, ông ấy không nhất thiết phải nói ra thế, Aziza ạ.”
“Kể con nghe hết đi, Mammy. Kể cho con đi.”
Và Laila kể cho Aziza.
“Bố con là một người đàn ông tốt. Ông ấy là người tốt nhất mà mẹ từng biết.”
“Nếu bố bỏ đi thì sao?” Aziza hỏi.
“Ông ấy sẽ không bao giờ bỏ đi. Hãy nhìn mẹ, Aziza. Bố con sẽ không bao giờ làm tổn thương con, và bố sẽ không bao giờ rời bỏ chúng ta.”
Vẻ nhẹ nhõm trên khuôn mặt Aziza làm trái tim Laila tan nát.
Tariq đã mua cho Zalmai một con ngựa gỗ bập bênh và làm cho nó một cỗ xe. Anh đã học từ một người bạn tù cách làm những con thú bằng giấy, bởi vậy anh đã gấp, cắt không biết bao nhiêu tờ giấy thành các hình sư tử, kangaroo, ngựa và những con chim với bộ lông sặc sỡ cho Zalmai. Nhưng mọi cố gắng làm thân đó đã bị Zalmai gạt bỏ một cách thô lỗ, đôi khi là cay độc.
“Ông là một con lừa!” nó gào lên. “Tôi không muốn những thứ đồ chơi của ông!”
“Zalmai!” Laila há hốc miệng.
“Không sao đâu,” Tariq nói. “Không sao đâu, Laila. Kệ thằng bé.”
“Ông không phải Baba jan* của tôi! Baba jan thật của tôi đang đi xa, và khi trở về ông ấy sẽ đánh cho ông một trận! Và ông sẽ không thể nào chạy đi được, bởi vì ông ấy có hai chân còn ông thì chỉ có một cái!”
Bố kính yêu.
Buổi tối, Laila ôm Zalmai vào ngực và đọc lời cầu nguyện Babaloo với nó. Khi nó hỏi, cô lại nói dối một lần nữa, nói với nó rằng Baba jan của nó đã đi xa và không biết khi nào ông ấy mới quay trở lại. Cô ghét cay ghét đắng chuyện này, ghét cay ghét đắng bản thân mình vì phải nói dối một đứa trẻ con như thế.
Laila biết rằng mình sẽ còn phải kể đi kể lại mãi câu chuyện dối trá đáng xấu hổ này. Cô sẽ phải lặp lại vì Zalmai lại sẽ hỏi khi nhảy xuống từ chiếc xích đu, khi thức dậy sau một giấc ngủ trưa, và, sau đó, khi nó đã đủ lớn để có thể tự buộc dây giày, tự đi tới trường thì cô vẫn cứ phải lặp lại lời nói dối ấy.
Vào một lúc nào đó, Laila biết thế, những câu hỏi cũng sẽ nguôi ngoai. Dần dần Zalmai sẽ ngừng băn khoăn tại sao bố nó lại rời bỏ nó. Nó sẽ thôi không tìm kiếm bố nó mỗi chỗ đèn giao thông, trong những ông già đang khom lưng lê bước trên đường phố hay đang nhấm nháp trà đun trong ấm samovar tại các dãy quán. Và rồi sẽ đến cái ngày mà nó cảm thấy rằng sự biến mất của bố nó không còn là một vết thương hở miệng và đau đớn nữa khi đang đi dọc một dòng sông uốn khúc quanh co, hoặc khi đang ngắm nhìn những cánh đồng tuyết trơ trụi. Rằng vết thương đó đã trở thành một thứ gì đó khác, đã liền miệng, đã mềm lại và dịu hơn. Giống như một truyền thuyết. Một điều để tôn sùng, một điều bí ẩn.
Laila hạnh phúc ở nơi đây, Murree. Nhưng đó không phải thứ hạnh phúc dễ dàng. Không phải thứ hạnh phúc tự nhiên mà có.
Trong những ngày nghỉ làm, Tariq đưa Laila và lũ nhóc tới chợ trung tâm, dọc theo chợ là những cửa hiệu bán những đồ rẻ tiền và bên cạnh nó là một nhà thờ Anh giáo được xây dựng vào giữa thế kỷ mười chín. Tariq mua cho cả nhà những xiên thịt nướng chapli có tẩm gia vị từ những người bán hàng ven đường. Họ đi tản bộ giữa dòng người địa phương, giữa những du khách châu Âu với điện thoại cầm tay và máy ảnh kỹ thuật số, những người Punjab tới đây để trốn khỏi cái nóng của vùng bình nguyên.
Thi thoảng, họ bắt xe bus tới đỉnh Kashmir. Từ đó, Tariq chỉ cho ba người thấy thung lũng sông Jhelum, các triền dốc được dệt thảm bởi cây thông và những đồi cây tươi tốt, rậm rạp, nơi người ta vẫn có thể nhìn thấy những con khỉ đang chuyền giữa mấy cành cây. Họ cũng đi tới vùng núi Nathia Gali bạt ngàn phong, cách Murree chừng ba mươi cây số, ở đó Tariq cầm tay Laila bước đi trên những con đường rợp bóng cây dẫn đến Tòa nhà Chính phủ. Họ dừng lại ở nghĩa trang cổ của người Anh hoặc bắt taxi lên đỉnh núi để ngắm nhìn thung lũng xanh tươi sương giăng phía dưới.
Trong những chuyến đi đó, có vài lần họ đi qua cửa kính của một cửa hiệu, Laila bắt gặp hình ảnh phản chiếu của họ ở đó. Chồng, vợ, con gái, con trai. Cô biết, đối với những người lạ, gia đình họ trông cũng giống như bao gia đình bình thường khác, không có những bí mật, không có những lời nói dối, không có sự hối tiếc.
Những cơn ác mộng làm cho Aziza thức giấc và kêu la. Laila phải đến nằm bên cạnh con bé, lấy tay áo lau khô hai má của nó và dỗ dành cho nó ngủ trở lại.
Laila cũng có những giấc mơ của mình. Trong mơ, cô luôn thấy mình quay trở lại ngôi nhà ở Kabul, bước trên hành lang và trèo lên tầng.
Cô thấy chỉ có mình cô, nhưng đằng sau những cánh cửa, cô nghe thấy tiếng xèo xèo của cái bàn là, tiếng giũ, rồi gấp chăn. Đôi khi cô nghe thấy một giọng nữ nho nhỏ lẩm nhẩm một bài hát cổ của Herat. Nhưng khi cô bước vào, căn phòng trống không. Không có ai ở đó.
Những giấc mơ tan đi, để lại Laila nằm run rẩy. Cô thức giấc, người ướt đẫm mồ hôi, mắt ứa lệ. Thật rã rời. Mỗi lần như thế, thật rã rời.
49
Vào một ngày Chủ nhật của tháng Chín, khi Laila đang đặt Zalmai bị cảm nằm xuống giường nghỉ trưa thì Tariq chạy ào vào nhà.
“Em nghe tin gì chưa?” anh nói, thở gấp. “Người ta giết ông ấy rồi. Ahmad Shah Massoud. Ông ấy chết rồi.”
“Gì cơ?”
Từ lối vào, Tariq thông báo cho cô những gì anh biết.
“Họ nói ông ta đồng ý trả lời phỏng vấn của hai phóng viên tự nhận là người Bỉ gốc Maroc. Khi họ đang nói chuyện, một quả bom được giấu trong chiếc máy quay đã phát nổ, giết chết Massoud và một trong hai người phóng viên. Họ bắn chết kẻ còn lại khi hắn cố tẩu thoát. Người ta nói rằng những phóng viên có lẽ là người của Al-Qaeda.”
Laila nhớ bức áp phích Ahmad Shah Massoud mà Mammy treo trên tường trong phòng ngủ của bà. Massoud nghiêng người về phía trước, một bên lông mày nhướng lên, mặt nhăn lại vì tập trung, như thể ông đang lắng nghe ai đó một cách đầy kính cẩn. Laila nhớ Mammy đã rất biết ơn khi Massoud cầu nguyện cho các con trai của bà tại nghĩa địa, và bà cứ kể đi kể lại câu chuyện đó với mọi người. Thậm chí sau khi cuộc chiến giữa bè cánh của ông với những lực lượng khác diễn ra, Mammy cũng không đổ lỗi cho ông. Bà thường nói, Ông ấy là một người tốt. Ông ấy muốn hòa bình. Ông ấy muốn xây dựng lại Afghanistan. Nhưng họ không cho ông ấy làm điều đó. Họ sẽ không để ông làm điều đó. Đối với Mammy, thậm chí đến phút cuối cùng, sau tất cả những sai lầm tồi tệ đã xảy ra và cả khi Kabul bị tàn phá, Massoud vẫn là Sư tử vùng Panjshir.
Laila không có lòng vị tha như thế. Cái chết thảm khốc của Massoud không làm cho cô thích thú, nhưng cô nhớ quá rõ những vùng dân cư lân cận đã bị san bằng dưới bàn tay của ông ta, xác người được kéo ra khỏi những đống đổ nát, những cánh tay và bàn chân trẻ con được tìm thấy trên các mái nhà hoặc những cành cây cao nhiều ngày sau đám tang của chúng. Cô cũng nhớ rất rõ khuôn mặt của Mammy chỉ vài khoảnh khắc trước khi quả rocket nã xuống, và cô muốn quên đi hình ảnh thân thể Babi không đầu nằm gần đó, ngọn tháp của cây cầu in trên áo phông của ông chọc lên giữa khói bụi và máu.
“Tang lễ sẽ được tổ chức,” Tariq nói. “Anh chắc chắn thế. Có lẽ là ở Rawalpindi. Nó sẽ lớn lắm đấy.”
Zalmai khi nãy còn đang thiêm thiếp ngủ bây giờ đã ngồi dậy, hai nắm tay dụi mắt.
Hai ngày sau, họ đang lau dọn phòng thì nghe thấy tiếng ầm ĩ. Tariq thả cái giẻ lau xuống dưới sàn, vội vã chạy ra ngoài. Laila chạy theo anh.
Âm thanh đó vọng lại từ sảnh khách sạn. Khu dành cho khách ngồi đợi ở bên phải bàn tiếp tân, ở đó có vài cái ghế tựa và hai chiếc đi văng bọc da lộn màu be. Ở một góc, đối diện với những chiếc đi văng, có một cái ti vi và Sayeed, người khuân vác cùng với một vài người khách đang tụ tập phía trước.
Laila và Tariq đi lại chỗ đó.
Ti vi đang bật kênh BBC. Trên màn hình là một tòa nhà, đúng hơn là một tòa tháp, khói đen dâng lên cuồn cuộn từ những tầng trên cùng. Tariq nói gì đó với Sayeed và Sayeed đang trả lời nửa chừng thì một chiếc máy bay xuất hiện từ góc màn hình. Nó đâm vào tòa tháp bên cạnh, nổ tung thành một chùm lửa kỳ vĩ hơn bất kỳ chùm lửa nào Laila từng thấy. Tiếng kêu vang lên từ người này đến người khác trong sảnh khách sạn.
Chưa đầy hai giờ, cả hai tòa tháp đổ sụp xuống.
Không lâu sau đò, tất cả các kênh truyền hình đều nói về Afghanistan, về Taliban và Osama bin Laden.
“Em nghe những điều Taliban nói chưa?” Tariq hỏi. “Về Bin Laden ấy?”
Aziza ngồi đối diện với anh trên giường và đang nghĩ nước đi. Tariq đã dạy con bé chơi cờ. Nò đang nhăn mặt và gõ gõ vào môi dưới, bắt chước cử chỉ của bố nó mỗi khi anh chuẩn bị đi nước cờ nào đó.
Cơn cảm lạnh của Zalmai đã đỡ hơn một chút. Nó đang ngủ và Laila đang xoa thuốc Vicks lên ngực nó.
“Em có nghe,” cô nói.
Taliban tuyên bố họ sẽ không từ chối Bin Laden vì ông ta là một mehman, một người khách, người đã tìm kiếm một chỗ trú thân tại Afghanistan và sẽ trái với đạo lý Pashiunwali nếu trở mặt với một vị khách. Tariq lặng lẽ cười chua chát và Laila hiểu rằng anh cảm thấy ghê tởm trước cách họ bóp méo tục lệ cao quý của người Pashtun, một sự xuyên tạc bản chất dân tộc anh.
Vài ngày sau cuộc tấn công, Laila và Tariq lại đang ở trong sảnh khách sạn. Trên màn hình ti vi, George W. Bush đang diễn thuyết. Một lá cờ Mỹ khổ lớn ở phía sau ông. Có một lúc, giọng ông trở nên ngập ngừng và Laila nghĩ rằng ông sắp khóc.
Sayeed biết tiếng Anh và ông giải thích cho bọn họ rằng Bush vừa mới tuyên chiến.
“Với ai?” Tariq hỏi.
“Khởi đầu sẽ là với đất nước của quý vị.”
“Có thể không tồi tệ đến thế,” Tariq nói.
Họ mới ân ái xong. Anh nằm bên cạnh, đầu gối lên ngực cô, tay anh phủ qua bụng cô. Một vài lần đầu cũng có những khó khăn. Tariq luôn xin lỗi còn Laila luôn cố gắng làm anh yên lòng. Những khó khăn bây giờ không phải về thể xác mà về không gian. Gian phòng họ ở cùng với lũ trẻ rất chật hẹp. Lũ trẻ ngủ trên những chiếc giường bên dưới họ và bởi thế có quá ít sự riêng tư. Hầu hết mọi lần, Laila và Tariq làm tình trong yên lặng, với những đam mê được kiểm soát, câm lặng, đầy đủ cả quần áo dưới tấm chăn, phòng khi bị gián đoạn bởi bọn trẻ. Họ luôn đề phòng tiếng chăn sột soạt, tiếng kẽo kẹt của lò xo dưới giường. Nhưng đối với Laila, việc được ở cùng với Tariq đáng để cô vượt qua tất cả những lo sợ đó. Khi họ âu yếm nhau, Laila cảm thấy lòng bình yên, cô thấy mình được che chở. Những lo lắng của cô, rằng cuộc sống cùng nhau của họ chỉ là một đặc ân tạm thời, rằng nó sẽ lại tan thành những mảnh vụn, tất cả đều lắng xuống. Nỗi sợ hãi của cô về sự chia cắt đã biến mất.
“Ý anh là gì?” bây giờ tới lượt cô nói.
“Những chuyện đang xảy ra ở quê nhà. Có thể cuối cùng nó sẽ không đến nỗi quá tệ.”
Ở quê nhà, một lần nữa bom lại rơi, lần này là bom của Mỹ - Laila ngày nào cũng xem những hình ảnh về cuộc chiến trên ti vi khi cô đi thay chăn và hút bụi các phòng. Người Mỹ lại một lần nữa trang bị vũ khí cho các viên tư lệnh và tranh thủ sự hợp tác của Liên minh Miền Bắc để đẩy lùi Taliban và tìm kiếm Bin Laden.
Nhưng những điều Tariq nói làm Laila cảm thấy đau đớn. Cô đẩy đầu anh ra khỏi ngực mình một cách thô bạo.
“Không đến nỗi tệ? Người ta đang chết? Phụ nữ, trẻ con, người già? Nhà cửa bị phá hủy? Như thế mà không đến nỗi tệ?”
“Suỵt. Em làm bọn trẻ thức giấc bây giờ.”
“Sao anh lại có thể nói điều đó, Tariq?” cô ngắt lời. “Sau cái được gọi là sai lầm ở Karam? Một trăm người dân vô tội! Chính mắt anh đã nhìn thấy những thân thể đó!”
“Không,” Tariq nói. Anh chống người lên khuỷu tay và nhìn xuống Laila. “Em hiểu sai rồi. Ý anh nói là...”
“Anh làm sao biết được,” Laila nhận thấy mình đang cao giọng, rằng họ đang có một cuộc cãi vã vợ chồng đầu tiên. “Anh rời đi khi lực lượng Chiến binh Hồi giáo bắt đầu đánh nhau, anh nhớ không? Em là người ở lại phía sau. Em. Em biết chiến tranh. Em đã mất bố mẹ trong chiến tranh. Bố mẹ em, Tariq ạ. Và bây giờ anh nói rằng chiến tranh không đến nỗi tệ.”
“Anh xin lỗi, Laila. Anh xin lỗi.” Anh áp tay ôm lấy khuôn mặt cô. “Em đúng rồi. Anh xin lỗi. Hãy tha thứ cho anh. Ý anh muốn nói là có thể sẽ có hy vọng ở cuối cuộc chiến, có thể lần đầu tiên trong một thời gian dài...”
“Em không muốn nói về chuyện này nữa,” Laila nói, ngạc nhiên rằng cô đã mắng nhiếc anh. Những gì cô đã nói với anh thật không công bằng, cô biết thế - chẳng phải chiến tranh cũng đã cướp đi bố mẹ của anh đó sao? - và tất cả những gì bùng lên trong cô cũng đã dịu đi. Tariq tiếp tục nói một cách nhẹ nhàng và khi anh kéo cô lại phía mình, cô để yên cho anh làm. Khi anh hôn tay cô, rồi hôn lên trán cô, cô để yên cho anh làm. Cô biết rằng có lẽ anh đúng. Cô biết anh đã định nói điều gì. Có thể điều đó là cần thiết. Có thể những hy vọng sẽ xuất hiện sau khi những quả bom của Bush ngừng rơi. Nhưng cô không cho phép mình nói điều đó, khi những gì đã xảy ra với Babi và Mammy bây giờ vẫn đang diễn ra tại Afghanistan, khi những đứa con trai, con gái bỗng trở thành trẻ mồ côi như cô bởi một quả rocket. Laila không cho phép mình nói điều đó. Khó có thể mừng vui được. Như vậy dường như là giả dối, là quá đáng.
Đêm đó, Zalmai thức giấc và ho. Trước khi Laila kịp đứng dậy, Tariq đã vắt chân qua bên kia giường. Anh siết đai chiếc chân giả và bước tới chỗ Zalmai, bồng nó trên tay. Từ giường mình, Laila nhìn thấy dáng Tariq đi đi lại lại trong bóng tối. Cô nhìn thấy đầu của Zalmai trên vai anh, những đốt tay của nó bám vào cổ Tariq, đôi chân nhỏ của nó nảy lên khi chạm hông của Tariq.
Khi Tariq quay trở lại giường, cả hai người đều không nói điều gì. Laila đưa tay sờ vào khuôn mặt anh. Hai má Tariq ướt nước.
50
Đối với Laila cuộc sống ở Murree thật dễ chịu và thanh bình. Công việc không có gì khó khăn. Những ngày nghỉ, cô và Tariq đưa lũ trẻ đi cáp treo ở đồi Patriata hoặc lên đỉnh Pindi, hôm nào đẹp trời thì đứng ở đó, họ có thể phóng xa tầm mắt đến tận Islamabad và trung tâm thành phố Rawalpindi. Họ trải khăn lên cỏ, ngồi ăn sandwich thịt viên với dưa chuột và uống rượu gừng ướp lạnh.
Đây là một cuộc sống tốt, Laila tự nhủ, một cuộc sống đáng để ta biết ơn. Trên thực tế, nó chính là cuộc sống cô hằng mơ ước trong những ngày tháng đen tối sống cùng Rasheed. Mỗi ngày Laila đều nhắc nhở mình về điều đó.
Rồi vào một đêm tháng Bảy ấm áp năm 2002, cô và Tariq đang nằm trên giường thì thầm nói chuyện về tất cả những thay đổi ở quê nhà. Đã có quá nhiều thay đổi. Lực lượng liên minh đã đẩy lùi Taliban ra khỏi tất cả những thành phố chính, đẩy họ qua biên giới Pakistan và lên những vùng núi ở phía Nam và phía Đông Afghanistan. ISAF, lực lượng gìn giữ hòa bình quốc tế, đã được cử tới Kabul. Đất nước giờ đây đã có một tổng thống lâm thời, Hamid Karzai.
Laila quyết định đây chính là thời điểm để nói với Tariq.
Một năm trước, cô sẽ rất sung sướng nếu được thoát khỏi Kabul. Nhưng vài tháng gần đây, cô thấy nhớ thành phố tuổi thơ của mình. Cô nhớ sự ồn ào của khu chợ Shor, Vườn Babur, tiếng rao của những người chở nước đang kéo lê túi da dê. Cô nhớ những người mua bán quần áo, mặc cả ồn ã ở phố Gà và những người bán dưa hấu ở Karteh-Parwan.
Nhưng điều khiến cho Laila nghĩ nhiều đến thế về Kabul trong những ngày này không chỉ đơn thuần là nỗi nhớ nhà hay một niềm hoài cổ. Cô trở nên mệt mỏi bởi sự bồn chồn. Cô nghe tin những ngôi trường được dựng ở Kabul, những con đường được lát lại, những người phụ nữ trở lại làm việc, và cuộc sống của cô ở đây, vẫn dễ chịu như thường ngày, vẫn đáng để biết ơn như cô luôn cảm thấy, dường như đã... không đủ đối với cô. Tầm thường. Tệ hơn nữa, nó thật phí phạm. Gần đây, cô bắt đầu nghe thấy tiếng của Babi từ trong đầu mình. Con có thể đạt được những gì con muốn, Laila à. Bố biết con mà. Và bố cũng biết rằng khi chiến tranh kết thúc, Afghanistan sẽ cần đến con.
Laila cũng nghe thấy tiếng của Mammy. Cô nhớ lời Mammy đáp lại Babi khi ông gợi ý rằng họ nên rời khỏi Afghanistan. Tôi muốn nhìn thấy giấc mơ của các con trai mẹ trở thành hiện thực. Tôi muốn được ở đó khi điều này xảy ra, khi người dân Afghanistan được tự do, vì như thế các con trai tôi cũng sẽ trông thấy. Chúng sẽ nhìn thấy qua mắt tôi. Có gì đó trong Laila thúc giục cô quay trở lại Kabul, vì Mammy và Babi, để họ được nhìn thấy thành phố qua đôi mắt cô.
Và, điều thúc giục Laila mạnh mẽ hơn cả chính là vì Mariam. Có phải Mariam đã chết cho điều này? Laila tự hỏi mình. Có phải bà đã hy sinh bản thân mình để cô, Laila, có thể trở thành một cô hầu ở trên xứ người? Có thể Mariam sẽ không bận tâm Laila làm gì, miễn sao cô và những đứa trẻ được an toàn và sống hạnh phúc. Nhưng đối với Laila điều này lại rất quan trọng. Đột nhiên, nó trở nên rất quan trọng.
“Em muốn trở về,” cô nói.
Tariq ngồi dậy nhìn xuống cô.
Laila lại một lần nữa choáng ngợp bởi vẻ đẹp của anh, bởi đường cong hoàn hảo của vầng trán, những bắp thịt nhỏ trên cánh tay, đôi mắt suy tư và thông minh của anh. Một năm đã trôi qua nhưng vẫn có những lần, những khoảnh khắc như thế này, khi Laila không thể tin rằng họ đã tìm thấy nhau, rằng anh thật sự đang ở đây với cô, rằng anh là chồng cô.
“Trở về? Về Kabul?” anh hỏi.
“Chỉ khi anh cũng muốn thế.”
“Em không hạnh phúc ở đây à? Em đang hạnh phúc mà. Và cả bọn trẻ nữa.”
Laila ngồi dậy. Tariq dịch ra một chút, lấy chỗ cho cô ngồi.
“Em hạnh phúc,” Laila nói. “Tất nhiên là em hạnh phúc. Nhưng... chúng ta tới đây từ nơi nào, Tariq? Chúng ta sẽ ở đây bao lâu? Đây không phải quê hương của chúng ta. Là Kabul cơ, và ở đó đang có quá nhiêu điều đang diễn ra, có rất nhiều điều tốt đẹp. Em muốn trở thành một phần trong đó. Em muốn làm một điều gì đó. Em muốn được cống hiến. Anh hiểu chứ?”
Tariq chậm rãi gật đầu. “Đó là điều em muốn phải không? Em chắc chắn chứ?”
“Em muốn thế, vâng, em chắc chắn. Nhưng hơn thế. Em cảm thấy mình phải quay về. Cứ ở mãi đây cũng không phải là đúng đắn.”
Tariq nhìn xuống tay mình, rồi lại nhìn cô.
“Nhưng chỉ khi, chỉ khi anh cũng muốn đi.”
Tariq mỉm cười. Những nếp nhăn trên mặt anh biến mất, và trong một thoáng anh lại trở thành Tariq của ngày xưa, một Tariq không có những cơn đau đầu hành hạ, người đã từng nói rằng ở Siberia nước mũi biến thành cột băng trước khi nó kịp rơi xuống đất. Có thể đó chỉ là tưởng tượng của cô, nhưng Laila tin rằng dạo gần đây cô thấy ở Tariq nhiều hình ảnh của anh ngày xưa hơn.
“Anh à?” anh nói. “Anh sẽ theo em đến tận cùng thế giới, Laila ạ.”
Cô kéo anh lại gần và hôn lên môi anh. Cô tin mình chưa bao giờ yêu anh như giây phút này. “Cám ơn anh,” cô nói, gục đầu vào anh.
“Trở về nhà nào.”
“Nhưng trước tiên, em muốn tới Herat,” cô nói.
“Herat?”
Laila giải thích.
Cần phải dỗ dành bọn trẻ, mỗi đứa theo một cách riêng. Laila phải ngồi xuống nói chuyện với một Aziza bị kích động, đứa vẫn có những cơn ác mộng hằng đêm, đứa đã giật mình hoảng hốt và bật khóc khi ai đó bắn một tràng đạn lên trời trong một đám cưới gần đó tuần trước. Laila phải giải thích cho Aziza rằng khi họ trở lại Kabul thì Taliban sẽ không còn ở đó, sẽ không còn đánh nhau và con bé sẽ không phải trở lại trại trẻ mồ côi. “Chúng ta sẽ sống cùng nhau. Bố con, mẹ và Zalmai. Và con, Aziza. Con sẽ không bao giờ, không bao giờ còn phải xa mẹ nữa. Mẹ hứa đấy.” Cô cười với con gái. “Cho tới khi nào con muốn. Cho tới khi con yêu một chàng trai và muốn lấy anh ta làm chồng.”
Ngày họ rời Murree, Zalmai buồn không tả xiết. Thằng bé vòng đôi tay quanh cổ con Alyona và không chịu rời ra.
“Con không thể lôi em ra khỏi nó được, Mammy,” Aziza nói.
“Zalmai. Chúng ta không thể mang dê lên xe bus được,” Laila giải thích một lần nữa.
Chỉ tới khi Tariq quỳ bên cạnh thằng bé và hứa rằng sẽ mua cho nó một con dê giống như Alyona ở Kabul thì Zalmai mới miễn cưỡng bước đi.
Cuộc chia tay với Sayeed cũng đầy nước mắt. Để cầu chúc bình an, ông cầm một cuốn kinh Koran đứng bên bậc cửa cho Tariq, Laila và lũ trẻ hôn ba lần, rồi giơ lên cao để cho họ đi qua dưới đó. Ông giúp Tariq xếp hai chiếc va li lên cốp xe của ông. Và cũng chính Sayeed là người lái xe đưa họ tới bến xe rồi đứng trên lề đường vẫy chào tạm biệt khi chiếc xe nổ máy rồi lăn bánh đi.
Khi Laila ngả người và nhìn Sayeed đang lùi dần trong gương chiếu hậu của chiếc xe bus, cô nghe thấy một giọng thì thầm nghi hoặc trong đầu mình. Cô tự hỏi có phải họ đang dại dột bỏ lại sau lưng sự yên ổn ở Murree? Dại dột khi quay trở lại mảnh đất nơi bố mẹ và các anh trai mình đã bỏ mạng, nơi khói đạn bom mới chỉ lắng xuống?
Và rồi, từ những vòng xoáy ký ức tối tăm của Laila hiện lên hai dòng thơ mà Babi đã đọc để ngợi ca Kabul:
Không ai có thể đếm được bao nhiêu mặt trăng tỏa sáng trên những mái ngói của nàng
Hay ngàn mặt trời rực rỡ trốn sau những bức tường của nàng.
Laila ngả người trên ghế, chóp đôi mắt đẫm lệ. Kabul đang chờ đợi. Đang cần cô. Chuyến trở về nhà này là một việc đúng đắn.
Nhưng trước tiên cần nói lời vĩnh biệt.
Cuộc chiến ở Afghanistan đã tàn phá con đường nối Kabul, Herat và Kandahar. Cách dễ nhất để tới được Herat bây giờ là đi qua Mashad ở Iran. Laila và gia đình mình tới đó lúc quá nửa đêm. Họ nghỉ lại ở một khách sạn và buổi sáng ngày hôm sau, họ lên một chuyến xe bus khác.
Mashad là một thành phố đông đúc và hối hả. Laila ngắm những công viên, những nhà thờ và những cửa hàng ăn bán chelo kebab lướt ngang tầm mắt. Khi xe đi qua lăng mộ của Imam Reza, nhà tiên tri dòng Shi’a thứ tám, Laila thò đầu ra ngoài để nhìn rõ hơn những mái ngói sáng lấp lánh, những mái tháp giáo đường, những mái vòm dát vàng nguy nga tráng lệ của nó, tất cả đều được lưu giữ một cách đáng yêu và không chê vào đâu được. Cô lại nghĩ về những bức tượng Phật ở đất nước mình. Bây giờ chúng đã trở thành bụi đất, bị cuốn đi cùng những cơn gió trong thung lũng Bamiyan.
Chuyến xe tới biên giới Iran-Afghanistan đi mất gần mười tiếng đồng hồ. Khung cảnh trở nên hoang tàn, cằn cỗi hơn khi họ đến gần Afghanistan. Ngay trước khi vượt biên giới để vào Herat, họ đi qua một trại tị nạn của người Afghanistan. Hiện ra trước mắt Laila là một vệt mờ của bụi vàng, những túp lều màu đen và những kết cấu chật chội làm bằng các tấm thép đã gỉ sét. Cô với tay qua ghế nắm lấy bàn tay Tariq.
Ở Herat, hầu hết đường phố đều được trải nhựa, hai bên đường là hai hàng thông tỏa mùi thơm ngát. Công viên và thư viện đang được sửa chữa lại, những khu vườn nhỏ được cắt tỉa và những ngôi nhà có nước sơn còn mới. Đèn giao thông đã hoạt động và cái khiến Laila bất ngờ nhất là điện đóm ở đây đã ổn định. Laila nghe nói thống soái của Herat, Ismail Khan, đã giúp xây dựng lại thành phố bằng một lượng lớn tiền của mà ông ta thu được ở vùng biên giới Afghanistan-Iran, Kabul cho rằng số tiền này không thuộc về ông ta mà là của chính quyền trung ương. Khi nói đến cái tên Ismail Khan, trong giọng nói của người lái taxi chở họ về khách sạn Muwaffaq có cả vẻ tôn kính lẫn sợ hãi.
Hai đêm ở khách sạn Muwaffaq làm họ tiêu tốn hết gần một phần năm số tiền dành dụm, nhưng họ không còn cách nào khác vì hành trình từ Mashad quá dài và mệt mỏi, còn lũ trẻ thì đã kiệt sức. Khi Tariq lấy chìa khóa, người thư ký già phía sau quầy nói với anh rằng Muwaffaq rất nổi tiếng với giới phóng viên và những nhân viên làm việc cho các tổ chức phi chính phủ.
“Bin Laden cũng đã ngủ ở đây một lần cơ đấy,” ông ta khoe khoang.
Căn phòng có hai giường và một phòng tắm nước lạnh. Ở trên tường, giữa hai chiếc giường có treo một bức chân dung của nhà thơ Khaja Abdullah Ansary. Từ cửa sổ, Laila có thể nhìn thấy phố phường tấp nập bên dưới và công viên phía bên kia đường với những lối đi bằng gạch màu lam xuyên qua những bụi hoa lớn. Aziza và Zalmai vốn đã quen với việc có ti vi giờ đang thất vọng vì trong phòng chẳng có cái nào. Dù vậy, ngay sau đó, chúng đã lăn ra ngủ. Không lâu sau, Tariq và Laila cũng mệt rã rời. Laila ngủ ngon lành trong vòng tay của Tariq, chỉ trừ một lần cô thức dậy vào nửa đêm bởi một giấc mơ mà cô không nhớ rõ là gì.
Hôm sau, khi đã ăn xong bữa sáng với trà và bánh mì, mứt quả mộc qua và trứng luộc, Tariq gọi cho cô một chiếc taxi.
“Em có chắc là em không muốn anh đi cùng không?” Tariq hỏi. Aziza nắm lấy bàn tay anh. Zalmai không nắm tay Tariq, nhưng nó đứng sát vào anh và tựa vai vào hông anh.
“Em chắc.”
“Anh thấy lo.”
“Em sẽ ổn thôi,” Laila nói. “Em hứa. Hãy đưa lũ trẻ đến chợ. Mua cho chúng thứ gì đó.”
Zalmai bắt đầu khóc khi chiếc taxi chạy đi xa, và khi Laila quay lại, cô thấy nó đang với tay tới Tariq. Nó bắt đầu chấp nhận Tariq, điều đó vừa xoa dịu vừa làm trái tim Laila tan nát.
“Cô không phải người Herat,” người tài xế nói.
Anh ta có mái tóc tối màu dài ngang vai, một dấu hiệu cho thấy sự dính dáng với Taliban trong quá khứ, Laila biết điều đó, và hình như có một vết sẹo ở phía bên trái hàng ria của anh ta. Trên tấm kính chắn gió, cùng phía anh ta ngồi, có gắn một tấm ảnh. Đó là ảnh một cô gái với đôi má hồng và mái tóc được rẽ ngôi ở giữa, tết thành hai bím đuôi sam.
Laila nói với anh ta rằng năm ngoái cô đã ở Pakistan và giờ đang trên đường trở về Kabul. “Deh-Mazang.”
Qua kính xe, cô nhìn thấy những người thợ làm đồ đồng đang hàn tay nắm bằng đồng vào bình, những người thợ làm yên cương đang trải những miếng da đã cắt để phơi khô dưới ánh mặt trời.
“Anh đã sống ở đây bao lâu rồi, người anh em?” cô hỏi.
“Ồ, cả cuộc đời tôi. Tôi sinh ra ở đây. Tôi đã nhìn thấy mọi thứ. Cô có nhớ cuộc nổi loạn chứ?”
Laila nói có nhớ, nhưng anh ta đã tiếp tục.
“Đó là vào tháng Ba năm 1979, khoảng chín tháng trước khi Liên Xô xâm lược. Một vài người Herat giận dữ đã giết chết mấy cố vấn Liên Xô, bởi vậy Liên Xô đã gửi xe tăng và máy bay trực thăng tới tấn công vùng này. Trong vòng ba ngày, hamshira ạ, họ đã nã đạn vào thành phố. Họ phá đổ những tòa nhà, phá hủy một trong mấy ngọn tháp của giáo đường, giết hại hàng nghìn người. Hàng nghìn. Tôi đã mất hai người chị em mình trong ba ngày đó. Một trong hai người mới có mười hai tuổi.” Anh ta gõ lên tấm ảnh trên kính xe. “Cô ấy đấy.”
“Xin chia buồn với anh,” Laila nói, tự hỏi làm thế nào mà tất cả những câu chuyện của người Afghanistan lại đều được đánh dấu bằng những chết chóc, mất mát và đau thương không thể tưởng tượng nổi như thế. Nhưng rồi cô thấy con người vẫn tìm ra được cách để tồn tại, để tiến lên. Laila nghĩ về cuộc đời của chính mình và về tất cả những gì đã xảy ra đối với cô, cô thực sự ngạc nhiên khi thấy mình cũng hãy còn tồn tại, vẫn còn sống và ngồi đây, trong chiếc taxi này, lắng nghe câu chuyện của người đàn ông này.
Gul Daman là một ngôi làng với lác đác vài ngôi nhà có tường xây nhô lên giữa các kolba được dựng lên bằng bùn trộn rơm. Bên ngoài kolba, Laila nhìn thấy những người phụ nữ da rám nắng đang nấu nướng, khuôn mặt họ nhễ nhại mồ hôi lẫn với hơi nước bốc lên từ những chiếc nồi lớn, đen sì đặt trên lò đốt củi được đặt tạm bợ. Những con la ăn trong máng. Lũ trẻ đang lùa gà chuyển sang lùa theo chiếc taxi. Laila nhìn thấy những người đàn ông đang đẩy mấy cái xe cút kít chất đầy đá. Họ dừng lại nhìn chiếc xe đi qua. Người lái xe đánh tay lái và đi qua một nghĩa trang với một cái lăng đã bị thiên nhiên bào mòn ở ngay chính giữa. Người lái xe nói với cô rằng một vị Sufi của làng được chôn ở đấy.
Có một cái cối xay gió nữa. Trong bóng râm của cái chong chóng gió lười biếng màu gỉ sắt có ba đứa trẻ con đang ngồi xổm, nghịch đất. Người lái xe đánh xe lại và thò ra ngoài cửa sổ. Đứa có vẻ lớn tuổi nhất trong ba đứa con trai trả lời. Nó trỏ tới một ngôi nhà xa xa phía cuối con đường. Người lái xe cám ơn nó và vào số xe.
Anh ta đỗ chiếc xe ở phía ngoài một ngôi nhà xây một tầng. Laila nhìn thấy ngọn của cây sung vươn cao lên phía trên bức tường, một vài cành ngả ra bên ngoài.
“Tôi sẽ không đi lâu đâu,” cô nói với người lái xe.
Người đàn ông trung niên ra mở cửa là một người thấp lùn, gầy, với mái tóc màu nâu đỏ. Bộ râu của ông ta được rẽ dọc bằng những dải song song màu xám. Ông mặc một chiếc chapan bên ngoài chiếc pirhan-tumban.
Họ chào nhau “salaam alaykums”.
“Đây có phải là nhà của Giáo sĩ Faizullah không, thưa ông?” Laila hỏi.
“Vâng. Tôi là con ông ấy, Hamza. Tôi giúp gì cho cô được không, hamshireh?”
“Tôi tới đây vì một người bạn cũ của bố ông, Mariam.”
Hamza chớp mắt. Một thoáng bối rối trên khuôn mặt của ông ta. “Mariam...”
“Con gái của Jalil Khan.”
Ông lại chớp mắt. Rồi ông đặt lòng bàn tay lên má và gương mặt ông bừng sáng với một nụ cười làm lộ ra những chiếc răng sâu. “Ồ!” ông nói. Nó buột ra nghe như Ohhhhh, như bật ra một hơi thở. “Ồ! Mariam! Cô là con gái của bà ấy à? Bà ấy...” Ông ngoái cổ háo hức ngó nhìn, tìm kiếm phía sau cô. “Bà ấy có ở đây không? Đã lâu quá rồi! Mariam có ở đây không?”
“Bà ấy đã chết rồi, tôi rất tiếc.”
Nụ cười lịm dần trên khuôn mặt Hamza.
Trong một thoáng, họ đứng đó, trên lối đi, Hamza nhìn xuống đất. Một con lừa đang be be đâu đó.
“Mời vào,” Hamza nói. Ông mở rộng cánh cửa. “Xin mời vào.”
Họ ngồi trên sàn nhà, trong một căn phòng trống trải. Sàn được trải thảm, có những tấm nệm đính hạt để ngồi, trên tường là một bức ảnh thánh địa Mecca đóng khung. Họ ngồi bên cạnh chiếc cửa sổ để mở, ở hai bên có những vệt nắng hình chữ nhật. Laila nghe thấy những giọng phụ nữ từ một căn phòng khác. Một đứa bé trai chân trần đặt trước mặt họ một đĩa có trà xanh và kẹo nougat gaaz hồ trăn. Hamza gật đầu với nó.
“Con trai tôi.”
Đứa bé lặng lẽ đi vào trong.
“Cô kể tôi nghe đi,” Hamza nói một cách mệt mỏi.
Laila nói. Cô kể cho ông nghe tất cả mọi điều. Mất nhiều thời gian hơn rất nhiều so với cô hình dung. Tới gần cuối, cô phải cố gắng để giữ được sự bình tĩnh. Sau một năm trời, cô vẫn không hề thấy dễ dàng chút nào khi nói về Mariam.
Khi cô đã kết thúc, Hamza không nói gì một lúc lâu. Ông chậm rãi xoay chén trà trên chiếc đĩa, theo một chiều, rồi chiều ngược lại.
“Bố của tôi, cầu cho ông được yên nghỉ, đã rất yêu quý bà ấy,” cuối cùng ông nói. “Ông chính là người đã hát azan vào tai bà ấy khi bà ấy mới sinh ra, cô ạ. Ông đến thăm bà ấy hằng tuần, không bao giờ lỡ cả. Đôi lần ông đưa tôi cùng đi với ông. Ông là một người giảng kinh, đúng thế, nhưng ông cũng là một người bạn nữa. Ông ấy, bố tôi, là một người đàn ông nhân từ. Ông gần như suy sụp khi Jalil Khan gả bà ấy đi.”
“Tôi rất lấy làm tiếc khi nghe tin về bố ông. Cầu Thượng đế phù hộ cho ông ấy.”
Hamza gật đầu cám ơn. “Ông sống rất thọ. Thật ra ông còn sống lâu hơn cả Jalil Khan. Chúng tôi chôn ông trong nghĩa địa của làng, không xa nơi chôn mẹ của Mariam. Bố tôi là một người đáng quý, một người đàn ông đáng quý, người có trái tim nhân từ.”
Laila đặt chén của mình xuống.
“Tôi có thể nhờ ông một điều được không?”
“Tất nhiên rồi.”
“Ông có thể chỉ cho tôi nơi Mariam đã sống không? Ông có thể đưa tôi tới đó được không?”
Người lái xe đồng ý sẽ chờ lâu hơn một chút nữa.
Hamza và Laila ra khỏi làng và đi xuống đồi trên con đường nối liền Gul Daman và Herat. Sau mười lăm phút hoặc khoảng chừng đó, ông chỉ tới một lối hẹp bị che mất bởi đám cỏ cao ùa ra từ hai bên.
“Đó là đường tới đó,” ông nói. “Có một lối dẫn lên.”
Lối mòn gồ ghề, quanh co và tối tăm, khuất những cây cao và bụi rậm. Một cơn gió làm những búi cỏ cao quật vào bắp chân Laila khi cô và Hamza trèo lên phía trên. Hai bên họ là muôn màu sắc biến ảo của những bông hoa dại đang đung đưa trong gió, một vài bông vươn cao với những cái cánh cong cong, một số khác ở dưới thấp có những chiếc lá hình dẻ quạt. Đây đó có một vài bông mao lương rải rác nhô ra từ các bụi cây thấp. Laila nghe thấy tiếng ríu rít của chim nhạn phía trên đầu và tiếng gọi nhau không ngớt của lũ cào cào ở dưới chân.
Họ cứ đi lên đồi như thế khoảng hai trăm mét hoặc hơn. Sau đó thì lối đi bằng phẳng và mở ra một vùng đất cao. Họ dừng lại lấy hơi. Laila lấy vạt áo chấm mồ hôi trên trán và xua từng đàn muỗi đang quay vòng trước mặt. Từ đây cô nhìn thấy những dãy núi thấp phía chân trời, một vài cây dương đen và bạch dương cùng vô số bụi cây dại mà cô không thể gọi tên.
“Trước kia thì có một dòng suối ở chỗ này,” Hamza nói, có vẻ hơi hụt hơi. “Nhưng giờ thì nó đã cạn lâu rồi.”
Ông nói ông sẽ đợi ở đây. Ông bảo cô đi ngang qua lòng con suối cạn đi về phía dãy núi.
“Tôi sẽ đợi ở đây,” ông nói và ngồi trên một phiến đá phía dưới một cây dương. “Cô cứ tiếp tục đi đi.”
“Tôi không...”
“Đừng lo. Cứ từ từ. Đi đi, hamshireh.”
Laila cám ơn ông. Cô ngang qua lòng suối, bước từ phiến đá này sang phiến đá kia. Cô nhìn tháy một vỏ chai xô đa vỡ nằm giữa những tảng đá, vài cái hộp đã gỉ và một cái thùng bằng kim loại phủ đầy rêu với nắp bằng kẽm, một nửa bị vùi trong đất.
Cô hướng về phía dãy núi, về phía rặng liễu mà bây giờ cô có thể nhìn thấy những cành dài rủ xuống uốn lượn theo từng cơn gió. Trái tim đập thình thịch trong lồng ngực cô. Cô nhìn thấy rặng liễu được trồng như Mariam đã nói, thành một vòng tròn và khu đất trống ở giữa. Laila đi nhanh hơn, bây giờ thì gần như là chạy. Cô ngoái nhìn lại và thấy Hamza chỉ còn là một đốm nhỏ, cái chapan của ông nổi bật giữa màu nâu của vỏ cây. Cô vấp phải một hòn đá và suýt ngã, rồi lại đứng vững lại. Cô bước vội trên đoạn đường còn lại với hai ống quần kéo cao. Cô thở hổn hển khi tới được chỗ rặng liễu.
Kolba của Mariam vẫn còn ở đây.
Khi lại gần nó, Laila nhìn thấy ô cửa sổ trơ trọi và trống trơn, cửa chính thì không còn. Mariam có miêu tả về chiếc chuồng gà và một cái bếp lò, một cái nhà xí bằng gỗ nữa, nhưng Laila không thấy dấu vết nào của chúng. Cô dừng lại ở lối ra vào của kolba. Cô có thể nghe thấy tiếng ruồi vo ve bên trong.
Để bước vào bên trong cô phải tránh những mạng nhện lớn đang đung đưa. Trong này khá tối. Laila phải đợi một lúc để mắt mình thích ứng với bóng tối. Khi đã quen, cô nhìn thấy những đồ vật trong nhà thậm chí còn nhỏ hơn so với hình dung của cô. Chỉ còn một nửa tấm ván sàn mục nát còn nằm trên sàn. Số còn lại, cô nghĩ rằng đã bị lột ra làm củi đun. Sàn nhà bây giờ được phủ kín bằng lá khô, chai lọ vỡ, vỏ kẹo cao su, nấm dại, những mẩu thuốc lá ngả vàng. Nhưng chủ yếu vẫn là cỏ, chỗ thì còi cọc, chỗ thì lơ lửng ở giữa bức tường.
Mười lăm năm, Laila nghĩ. Mười lăm năm ở chỗ này.
Laila ngồi xuống, tựa lưng vào tường. Cô lắng nghe tiếng gió thổi qua rặng liễu. Trên trần nhà còn có nhiều mạng nhện hơn. Ai đó đã sơn xịt cái gì lên trên tường nhưng nó bị tróc ra gần hết và Laila không thể luận ra điều gì. Rồi cô nhận ra những chữ cái đó là tiếng Nga. Có một tổ chim bỏ không ở một góc nhà và một con dơi treo mình lộn ngược ở một góc nhà khác, nơi bức tường chạm vào trần nhà.
Laila nhắm mắt lại và ngồi đó một lúc.
Ở Pakistan, đôi khi cô cảm thấy khó khăn khi muốn nhớ từng chi tiết trên khuôn mặt của Mariam. Có nhiều lần, giống như những lời ở đầu lưỡi, khuôn mặt của Mariam lẩn tránh cô. Nhưng bây giờ đây, ở nơi này, sau hàng mi khép lại, cô dễ dàng hình dung ra Mariam: tia sáng mềm mại từ cái nhìn của bà, cái cằm dài, lớp da thô sần ở cổ bà, nụ cười với đôi môi mím chặt. Ở đây, Laila lại có thể áp má mình vào lòng Mariam thật dịu dàng, có thể cảm thấy Mariam đung đưa người và đọc những vần thơ từ kinh Koran, có thể cảm thấy những câu chữ lan truyền xuống thân thể của Mariam, xuống hai đầu gối của bà và đi vào trong hai tai cô.
Rồi, đột nhiên, đám cỏ bắt đầu hạ xuống, như thể có cái gì đó ở dưới đất kéo rễ của chúng vậy. Chúng chìm xuống thấp dần, thấp dần cho tới khi mặt đất trong kolba nuốt chửng những chiếc lá gai góc cuối cùng. Những cái mạng nhện tự động gỡ ra một cách kỳ diệu. Cái tổ chim tự động rời ra, những nhánh que bật rời từng chiếc, từng chiếc một, bay ra ngoài kolba. Một cái tẩy vô hình xóa hết những dòng chữ tiếng Nga sơn ở trên tường.
Các ván sàn nhà đã nối liền lại. Laila nhìn thấy hai chiếc giường ngủ, một cái bàn bằng gỗ, hai cái ghế, một cái lò gang đặt ở góc nhà, những cái giá dựng dọc theo tường, trên đó đặt những chiếc nồi đất và những cái chảo, một cái ấm trà muội đen, những chiếc chén và thìa. Cô nghe tiếng gà kêu cục cục ngoài kia, và tiếng róc rách của dòng suối vọng lại từ phía xa xa.
Một cô bé Mariam ngồi ở chiếc bàn đang kết một con búp bê dưới ánh sáng của chiếc đèn dầu. Cô bé đang lẩm nhẩm điều gì. Gương mặt cô mịn màng và trẻ trung, mái tóc cô đã được gội sạch và chải ra phía sau. Cô có hàm răng còn nguyên vẹn.
Laila nhìn Mariam gắn những sợi rễ khoai lên đầu con búp bê. Mấy năm sau, cô gái bé nhỏ này sẽ trở thành một người đàn bà, sẽ chỉ có những nhu cầu nhỏ nhặt trong cuộc sống, người không bao giờ làm nặng gánh người khác, người không bao giờ để lộ ra rằng mình cũng từng có những nỗi đau buồn, thất vọng, những giấc mơ đã bị đem ra chế nhạo. Người đàn bà ấy như một tảng đá dưới lòng suối, chịu đựng tất cả mà không một lời ta thán, lòng khoan dung của bà không bị bào mòn mà được định hình sau từng dòng nước xiết chảy qua đời bà. Laila đã nhìn thấy phía sau đôi mắt của cô gái trẻ, sâu thẳm bên trong cô, một cái gì đó mà cả Rasheed hay Taliban đều không thể phá hủy. Một cái gì đó cứng chắc như những khối đá vôi. Một điều gì đó cuối cùng sẽ giải phóng chính bà và cứu rỗi Laila.
Cô gái nhỏ ngước nhìn lên. Đặt con búp bê xuống. Mỉm cười.
Laila thân yêu?
Laila choàng mở mắt. Cô thở hổn hển, người đổ về phía trước. Cô làm con dơi giật mình, bay vèo từ góc này sang góc khác của kolba, tiếng vỗ cánh của nó nghe như tiếng lật giở các trang sách, rồi nó bay ra ngoài cửa sổ.
Laila đứng lên, phủi những chiếc lá bám phía sau quần. Cô bước ra ngoài kolba. Ở bên ngoài, bóng nắng đã dịch chuyển một chút. Một cơn gió thổi qua làm cho đám cỏ gợn sóng và những cành liễu va vào nhau xào xạc.
Trước khi rời khỏi khu đất hoang, Laila nhìn lại kolba lần cuối cùng, nhìn lại nơi Mariam đã từng ngủ, từng ăn, từng nhịn thở dể được ở bên Jalil lâu hơn. Trên những bức tường xiêu vẹo, đám cành liễu rủ xuống tạo thành những hình thù uốn cong, hạ xuống nhấc lên theo mỗi cơn gió. Một con quạ đậu trên cái mái phẳng. Nó mổ một cái gì đó, kêu quàng quạc rồi bay đi.
“Tạm biệt, Mariam.”
Và rồi Laila bắt đầu chạy xuyên qua đám cỏ, không để ý rằng mình đang khóc.
Cô thấy Hamza vẫn dang ngồi trên phiến đá. Khi trông thấy cô, ông đứng dậy.
“Hãy quay trở về nào,” ông nói. “Tôi có cái này cho cô.”
Laila đợi Hamza trong khu vườn gần cửa trước. Cậu bé lúc trước đã mời họ uống trà đang đứng dưới một cây sung, tay cầm một con gà và nhìn cô bình thản. Laila nhác thấy hai khuôn mặt, một người phụ nữ có tuổi và một cô gái trẻ trong chiếc hijab đang kín đáo quan sát cô từ một cửa sổ.
Cửa nhà mở và Hamza bước ra. Ông cầm một cái hộp.
Ông đưa nó cho Laila.
“Jalil Khan đưa vật này cho bố tôi khoảng một tháng trước khi ông ấy chết,” Hamza nói. “Ông ấy yêu cầu bố tôi giữ nó cho Mariam cho đến khi bà ấy quay lại nhận nó. Bố tôi đã giữ nó trong hai năm. Sau đó, ngay trước khi sắp ra đi, ông đưa lại cho tôi và yêu cầu tôi giữ gìn nó cho Mariam. Nhưng bà ấy... cô biết đấy, bà ấy đã không bao giờ tới.”
Laila nhìn xuống cái hộp thiếc hình ô van. Nó nhìn giống như một hộp kẹo sô cô la cũ. Chiếc hộp màu xanh ô liu với lớp mạ đã mờ ở xung quanh chiếc nắp có bản lề. Nó bị gỉ đôi chút ở những mặt xung quanh và có hai vết lốm nhỏ ở mặt trước của chiếc nắp. Laila cố mở chiếc hộp, nhưng cái lẫy đã bị khóa lại.
“Trong này là gì thế?” cô hỏi.
Hamza đặt một chiếc chìa khóa vào bàn tay cổ. “Bố tôi chưa từng mở nó. Cả tôi cũng vậy. Tôi nghĩ rằng Thượng đế muốn cô là người làm việc đó.”
Khi Laila quay trở lại khách sạn, Tariq và lũ trẻ vẫn chưa về.
Laila ngồi trên giường, chiếc hộp đặt trong lòng cô. Một phần trong cô không muốn mở chiếc hộp, để cho những dự định của Jalil mãi mãi là bí mật. Nhưng cuối cùng, nỗi tò mò trở nên quá mạnh. Cô đút chiếc chìa khóa vào. Mất mấy lần xoay và lắc cô mới mở được chiếc hộp.
Trong đó, cô tìm thấy ba thứ: một cái bì thư, một cái bao vải và một băng video.
Laila mang cuốn băng xuống dưới bàn lễ tân. Người thư ký già đã đón gia đình cô ngày hôm trước cho cô biết rằng khách sạn chỉ có một đầu video ở trong phòng lớn nhất. Phòng đó hiện tại không có người và ông đồng ý dẫn cô tới đó. Ông giao bàn lễ tân lại cho một người thanh niên có ria mép mặc com lê đang nói chuyện bằng điện thoại di động.
Người thư ký già dẫn Laila lên tầng hai, đến một cánh cửa ở cuối một hành lang dài. Ông mở khóa và để cô vào trong. Laila nhìn tháy chiếc ti vi ở một góc phòng. Ngoài ra không có gì khác.
Cô bật ti vi và đầu video lên. Cô đút cuốn băng vào và nhấn nút Play. Màn hình trống không một lúc, và Laila bắt đầu tự hỏi tại sao Jalil lại sơ ý gửi một cuộn băng trắng cho Mariam như vậy. Nhưng sau đó có tiếng nhạc và những hình ảnh bắt đầu hiện lên trên màn hình.
Laila nhăn mặt. Cô xem thêm khoảng một hai phút. Sau đó cô bấm nút dừng, rồi tua nhanh đoạn băng và lại bấm Play lần nữa. Cũng vẫn là phim đó.
Người thư ký nhìn cô vẻ hơi chế nhạo.
Cuốn phim đang chiếu trên màn hình là phim Pinocchio của hãng Walt Disney. Laila không hiểu.
Tariq và lũ trẻ quay về khách sạn sau sáu giờ. Aziza chạy lại với Laila và cho cô xem bộ khuyên tai Tariq mới mua cho nó, bộ khuyên tai bằng bạc với một con bướm tráng men sứ trên mỗi chiếc. Zalmai thì nắm chặt một con cá heo có thế bom hơi được và khi bị bóp vào cái mũi thì nó sẽ kêu chút chít.
“Em thế nào?” Tariq hỏi, choàng tay qua vai cô.
“Em ổn,” Laila nói. “Em sẽ kể cho anh nghe sau.”
Họ ăn tối trong một quán kebab ở gần đó. Đó là một quán nhỏ, với tấm khăn trải bàn bằng nhựa vinyl dinh dính, nhiều khói và tiếng ồn. Nhưng thịt cừu thì mềm và ẩm, còn bánh mì thì nóng. Sau đó, họ tản bộ trên phố một lúc. Tariq mua cho lũ trẻ kem nước hoa hồng từ một ki-ốt dọc đường. Họ ăn kem, ngồi trên ghế, dãy núi phía sau lưng họ đổ bóng vào trong ráng đỏ tía của hoàng hôn. Không khí ấm áp và thơm ngát mùi hương của cây tuyết tùng.
Laila đã mở chiếc phong bì từ trước đó, lúc cô quay trở lại phòng sau khi xem cuốn băng video. Trong đó có một lá thư, được viết bằng mực xanh trên một tấm giấy có dòng kẻ màu vàng.
Trong đó viết:
Ngày 13 tháng Năm, 1987.
Mariam thân yêu của bố
Bố cầu mong lá thư này đến tay con nguyên vẹn.
Như con biết, bố đến tìm con ở Kabul một tháng trước đây để nói chuyện với con, nhưng con đã không gặp bố. Bố rất thất vọng nhưng bố không thể trách cứ gì con. Ở vào hoàn cảnh của con, có lẽ bố cũng sẽ làm như thế. Từ lâu, bố đã đánh mất cái đặc quyền được con tha thứ và vì thế bây giờ bố chỉ có thể trách cứ bản thân mình. Nhưng nếu con đang đọc lá thư này thì con hẳn đã đọc lá thư bố để lại cho con ở cửa nhà con. Con đã đọc nó và con đã tới gặp Giáo sĩ Faizullah như bố đã yêu cầu. Bố vui sướng vì con đã làm điều đó, Mariam ạ. Bố cảm thấy được an ủi vì đã có cơ hội này để nói một vài lời với con.
Bố sẽ bắt đầu như thế nào đây?
Bố của con đã chịu quá nhiều đau buồn kể từ lần cuối cùng chúng ta nói chuyện với nhau, Mariam yêu quý. Mẹ kế Afsoon của con đã bị giết chết trong ngày đầu tiên của cuộc bạo loạn năm 1979. Một viên đạn lạc cũng đã giết chết em gái Niloufar của con trong cùng ngày. Bố vẫn có thể nhìn thấy con bé, Utile Niloufar của bố, đang trồng cây chuối để gây ấn tượng với khách. Anh con, Farhad đã tham gia cuộc Thánh chiến vào năm 1980. Người Liên Xô giết chết nó vào năm 1982, ngay bên ngoài Helmand. Bố không bao giờ dược nhìn xác nó. Bố không biết con có con hay không Mariam thân yêu, nhưng nếu con có thì bố cầu Thượng đế trông nom chúng và tránh cho con khỏi những đau thương mà bố đã gặp phải. Bố vẫn mơ thấy chúng. Bố vẫn mơ thấy những đứa con đã chết của mình.
Bố cũng có những giấc mơ về con nữa, Mariam thần yêu. Bố nhớ con. Bố nhớ giọng nói của con, nhớ tiếng cười của con. Bố nhớ những lần đọc sách cho con nghe và tất cả những lần chúng ta câu cá cùng nhau. Con có nhớ tất cả những lần chúng ta cùng câu cá đó không? Con là một đứa con gái ngoan của bố, Mariam thân yêu, và bố không thể nghĩ về con mà không cảm thấy hổ thẹn và hối tiếc. Hối tiếc... Khi nghĩ về con, Mariam thân yêu, bố có cả một đại dương những điều đáng hối tiếc. Bố hối tiếc rằng đã không gặp con ngày con tới Herat. Bố hối tiếc đã không mở cánh cửa đón con vào. Bố hối tiếc đã không để con trở thành một đứa con gái của bố, bố hối tiếc rằng đã để con sống ở nơi đó trong bao nhiêu năm như vậy. Và để làm gì? Sợ mất thể diện? Sợ làm hoen ố cái được gọi là thanh danh của bố? Những chuyện đó tầm thường đối với bố biết bao sau tất cả những điều tồi tệ mà bố đã chứng kiến từ cái cuộc chiến chết tiệt này. Nhưng bây giờ, tất nhiên, đã quá muộn. Có lẽ đây là sự trừng phạt cho những người đã từng sống nhẫn tâm, làm cho họ hiểu ra khi không còn gì họ có thể làm lại được nữa. Bây giờ đây, tất cả những gì bố có thể làm là nói rằng con là một đứa con gái ngoan, Mariam thân yêu, và rằng bố sẽ không bao giờ xứng đảng với con. Bây giờ, tất cả những gì bố có thể làm là cầu xin sự tha thứ của con. Bởi vậy hãy tha thứ cho bố, Mariam thân yêu. Tha thứ cho bố. Tha thứ cho bố. Tha thứ cho bố.
Bố không còn là người thương gia giàu có mà con đã từng biết. Những người cộng sản đã tịch thu phần lớn đất đai, cũng như tất cả các cửa hiệu của bố. Nhưng sẽ là nhỏ nhen khi phàn nàn về việc đó, bởi vì Thượng đế, vì một nguyên do nào đó mà bố không hiểu được, Người vẫn ban phước cho bố nhiều hơn nhiều người khác. Bố đã tìm cách bán đi những gia sản còn lại của mình. Bố đã đưa cả con vào trong phần chia quyền thừa kế. Con có thể thấy nó còn xa mới được gọi là một gia tài, nhưng nó cũng là chút gì đó. Nó là một chút gì đó. (Con cũng sẽ nhận thấy rằng bố đã chọn đổi tiền sang đồng đô la. Bố nghĩ như thế là tốt nhất bởi chỉ có Thượng đế mới biết được số phận đồng tiền của chúng ta rồi sẽ như thế nào.)
Bố hy vọng rằng con sẽ không nghĩ rằng bố đang cố gắng dùng tiền mua sự tha thứ của con. Bố mong rằng con sẽ tin rằng bố hiểu sự tha thứ của con không phải để mua bán. Không bao giờ như thế cả. Bố chỉ trao cho con, dù chậm, cái phần mà con có quyền được hưởng. Bố đã không là một người bố có trách nhiệm đối với con khi còn sống. Có lẽ bố sẽ làm được điều đó khi đã chết đi rồi.
À, cái chết. Bố sẽ không làm nhọc lòng con với những điều vặt vãnh, nhưng cái chết bây giờ đã ở trước mắt bố rồi. Tim yếu, bác sĩ nói thế. Đây là một điều phù hợp với cái chết, bố nghĩ như vậy, một người đàn ông ốm yếu.
Mariam thân yêu,
Bố dám, bố dám cho phép bản thân mình hy vọng rằng, sau khi đọc lá thư này con sẽ trở nên khoan dung hơn với bố, hơn là bố đã từng làm với con. Rằng con sẽ tìm thấy sự khoan dung đó trong trái tim mình và đến gặp bố của con. Rằng con sẽ gõ cửa nhà bố một lần nữa và cho bố cơ hội để mở nó lần này, để đón con, để dắt con vào, con gái của ta, vì đáng ra bố đã phải làm điều đó bao nhiêu năm trước đây. Niềm hy vọng đó cũng yếu ớt như trái tim của bố vậy. Bố biết điều đó. Nhưng bố sẽ vẫn chờ. Bố sẽ lắng nghe tiếng con gõ cửa. Bố luôn hy vọng như vậy.
Cầu mong Thượng đế ban phước cho con sống lâu và thịnh vượng, cầu Thượng đế ban cho con những đứa trẻ thật khỏe mạnh và xinh đẹp. Cầu mong cho con tìm thấy hạnh phúc, sự bình yên và sự công nhận mà ta đã không dành cho con. Khỏe mạnh con nhé. Ta để con lại trong vòng tay yêu thương của Thượng đế.
Người bố không xứng đáng của con,
Jalil.
Đêm hôm đó, sau khi họ đã quay trở lại khách sạn, sau khi lũ trẻ đã chơi và lên giường đi ngủ, Laila nói với Tariq về lá thư. Cô chỉ cho anh số tiền đựng trong cái bao vải. Khi cô bắt đầu bật khóc, anh hôn lên mặt cô và ôm cô trong vòng tay mình.
51
THÁNG TƯ, 2003
Đợt hạn hán đã kết thúc. Cuối cùng thì tuyết đã rơi ngập tới gối vào mùa đông vừa rồi và bây giờ thì trời mưa ròng rã mấy ngày liền. Sông Kabul lại đang cuộn chảy. Dòng nước lũ mùa xuân đã cuốn những dấu vết của Thành phố Titanic trôi xa.
Bùn đất đầy trên đường phố. Giày dép dính lép nhép, ô tô bị ách lại. Những con lừa chở đầy táo ì ạch bước, móng guốc làm bùn bắn tung tóe từ những vũng nước mưa. Nhưng không ai phàn nàn gì về bùn đất, không ai than khóc thành phố Titanic đã mất đi. Chúng ta cần Kabul xanh trở lại, mọi người nói.
Ngày hôm qua, Laila ngắm nhìn các con mình chơi dưới cơn mưa rào, nhảy từ vũng nước này sang vũng nước khác trong vườn dưới một bầu trời màu xám chì. Lúc đó cô đang đứng nhìn từ cửa sổ phòng bếp của một căn nhà nhỏ có hai phòng ngủ mà họ thuê ở Deh-Mazang. Trong vườn có một cây lựu và một bụi tầm xuân. Tariq đã trát lại những bức tường và dựng cho bọn trẻ một cái cầu trượt, một cái xích đu và một chỗ quây rào nho nhỏ cho con dê mới của Zalmai. Laila ngắm nhìn những hạt nước mưa trượt xuống đầu Zalmai - thằng bé đã đòi được cạo đầu giống như Tariq, giờ anh đã đảm nhận việc đọc kinh Babaloo với Zalmai. Cơn mưa làm mái tóc của Aziza xẹp xuống và biến thành những lọn xoắn sũng nước, bắn tóe vào thằng em khi con bé lắc đầu.
Zalmai đã gần sáu tuổi. Aziza thì mười tuổi. Họ tổ chức sinh nhật cho con bé tuần trước, đưa nó tới rạp Cinema Park, nơi mà cuối cùng thì phim Titanic cũng được công chiếu trên màn ảnh cho khán giả ở Kabul.
“Mau nào các con, chúng ta sẽ muộn mất,” Laila gọi và bỏ đồ ăn trưa của chúng vào một cái túi giấy.
Bây giờ là tám giờ sáng. Laila đã thức dậy từ lúc năm giờ. Như thường lệ, Aziza là người lay cô dậy để đọc bài kinh namaz buổi sáng. Laila biết, lời kinh cầu chính là cách để Aziza gắn với Mariam, chính là cách của con bé để giữ Mariam gần lại một lát trước khi thời gian làm việc của nó, trước khi công việc giật mất Mariam ra khỏi khu vườn ký ức, giống như nhổ sạch rễ của một cây cỏ vậy.
Sau bài kinh namaz, Laila quay trở lại giường nằm và vẫn còn mơ màng khi Tariq rời khỏi nhà. Cô láng máng nhớ anh hôn má cô. Tariq đã tìm được một công việc cho một tổ chức phi chính phủ của Pháp chuyên cung cấp chân, tay giả cho những nạn nhân của bom mìn và những người cụt chân, tay.
Zalmai chạy đuổi theo Aziza vào trong bếp.
“Các con mang vở chưa, cả hai đứa? Bút chì? Sách?”
“Đây rồi,” Aziza nói, mở ba lô ra. Laila lại để ý thấy tật nói lắp của con bé đã giảm bớt.
“Thế thì đi nào!”
Laila đưa lũ trẻ ra khỏi nhà, khóa cửa lại. Ba mẹ con bước ra ngoài trong một buổi sáng mát mẻ. Ngày hôm ấy không có mưa. Bầu trời màu xanh lơ và Laila không nhìn thấy đụn mây nào ở phía chân trời. Đường phố đã tấp nập, đông đúc, nườm nượp những xe kéo, taxi, xe tải của Liên Hợp Quốc, xe bus, xe jeep của ISAF. Các thương nhân với đôi mắt ngái ngủ đang mở cửa những nhà kho đã được đóng xuống buổi tối hôm trước. Những người bán tạp hóa ngồi đằng sau hàng chồng kẹo cao su và bao thuốc lá. Những bà góa đã đứng chiếm chỗ ở các góc đường và xin những đồng xu lẻ của người qua đường.
Laila thấy thật khác lạ khi quay trở lại Kabul. Thành phố đã thay đổi. Hằng ngày cô nhìn thấy người ta đang trồng cây non, sơn lại những ngôi nhà cũ và chở gạch về xây những ngôi nhà mới. Họ đào mương và giếng nước. Trên các bậu cửa sổ, Laila nhìn thấy những bông hoa được trồng trong vỏ đạn rocket của lực lượng Chiến binh Hồi giáo - những bông hoa rocket - người Kabul gọi chúng như vậy. Mấy hôm trước, Tariq đưa Laila và lũ trẻ tới Vườn Babur đang được cải tạo lại. Lần đầu tiên trong bao nhiêu năm trời, Laila lại nghe thấy tiếng nhạc ở các góc đường phố Kabul, đàn rubab và trống tabla, dootar, đàn đạp hơi và trống lục lạc với những bài ca cũ của Ahmad Zahir.
Laila ước rằng Mammy và Babi còn sống để nhìn thấy những thay đổi này. Nhưng cũng giống như trong bức thư của Jalil, sự hối lỗi của Kabul đã tới quá trễ.
Laila và lũ trẻ đang chuẩn bị vượt qua đường để tới bến xe bus thì đột nhiên một chiếc Land Cruiser màu đen với cửa kính tối màu vụt qua. Nó quặt vào phút cuối và trượt qua Laila, cách cô chưa đầy một cánh tay. Nó làm vũng nước mưa vàng ố bắn lên khắp quần áo lũ trẻ.
Laila giật lũ con mình lại phía vỉa hè, trái tim cô lộn nhào lên tận cuống họng.
Chiếc Land Cruiser tăng tốc trên phố, bấm còi hai lần và đột ngột rẽ trái.
Laila đứng yên, cố lấy lại hơi thở, ngón tay cô nắm chặt cổ tay của lũ trẻ.
Chuyện làm cô choáng váng. Nó làm cô choáng váng nhớ ra những viên tư lệnh đã được phép quay trở lại Kabul. Những kẻ đã giết chết bố mẹ cô sống trong những căn hộ sang trọng với những khu vườn có tường bao quanh, và chúng được bổ nhiệm làm bộ trưởng bộ này, bộ phó bộ kia, và bọn chúng ngồi trên những chiếc SUV sáng bóng, có kính chống đạn, ngang nhiên chạy qua những khu dân cư mà trước đây chính chúng đã tàn phá. Điều đó làm cô choáng váng.
Nhưng Laila đã quyết định rằng cô sẽ không để sự oán giận làm cho tê liệt. Mariam cũng sẽ không muốn điều đó. Điều đó thì có nghĩa lý gì? bà sẽ nói vậy với một nụ cười vừa thơ ngây vừa thông thái. Như thế thì có gì tốt, Laila thân yêu? Và vậy là Laila đành tiến lên phía trước. Vì chính bản thân cô, vì Tariq, vì lũ trẻ của cô. Và vì Mariam, người vẫn đến với Laila hằng đêm trong những giấc mơ, người cô không ngừng nghĩ đến trong từng nhịp thở. Laila phải tiến lên bởi vì cuối cùng thì cô đã hiểu đó là tất cả những gì cô có thể làm. Tiến lên và hy vọng.
Zaman đang đứng ở vạch ném bóng, cong gối và đập một quả bóng rổ nảy lên nảy xuống. Ông đang hướng dẫn một lũ con trai mặc đồng phục áo nịt len ngồi thành một nửa vòng tròn ở trên sân. Nhìn thấy Laila, ông kẹp quả bóng vào dưới nách và vẫy tay. Ông nói điều gì đó với bọn trẻ và rồi chúng cũng vẫy tay và hét to, “Salaam, moalim sahib!”*
Chúng em chào cô ạ!
Laila vẫy chào lại.
Sân chơi của trại trẻ mồ côi có một hàng táo non dọc theo bức tường hướng Đông. Laila cũng đang định trồng một vài cây ở bức tường phía Nam ngay khi nó được xây dựng lại. Có thêm một cái xích đu mới, mấy cái thang đu mới và một cái cầu trượt.
Laila đi vào bên trong qua chiếc mành cửa.
Họ đã sơn lại cả bên ngoài và bên trong của khu trại trẻ. Tariq và Zaman đã lợp lại mái ngói bị dột, trát lại tường, thay cửa sổ và trải thảm các phòng cho lũ trẻ ngủ và chơi. Mùa đông vừa rồi, Laila đã mua mấy cái giường cho khu phòng ngủ của lũ trẻ, cả những chiếc gối và những chiếc chăn dạ. Cô cũng đã thuê người lắp những chiếc lò sưởi gang dành cho mùa đông.
Anis, một trong những tờ báo của Kabul tháng trước đã đăng một câu chuyện về việc cải tạo trại trẻ mồ côi. Họ cũng chụp ảnh Zaman, Tariq, Laila và một trong những người phục vụ đứng thành một hàng phía sau lũ trẻ. Khi Laila nhìn thấy bài báo, cô nghĩ về những người bạn thời thơ ấu của mình, Giti và Hasina, và lời Hasina nói, Khi chúng ta hai mươi tuổi, Giti và tớ, mỗi đứa bọn tớ đã cho ra lò bốn, năm đứa trẻ con rồi. Nhưng cậu, Laila ạ, cậu sẽ làm cho hai đứa ngu ngốc chúng tớ tự hào. Cậu sẽ trở thành người có tên tuổi. Tớ biết rằng một ngày nào đấy, tớ sẽ cầm một tờ báo và thấy hình cậu ở trang đầu. Dù tấm ảnh không được đăng ở trang nhất nhưng nó cũng đã giống như lời Hasina dự đoán.
Laila rẽ vào một lối đi dẫn tới chính cái hành lang mà hai năm trước đây cô và Mariam đã gửi gắm Aziza cho Zaman. Laila vẫn còn nhớ họ đã phải tách từng ngón tay của Aziza ra khỏi cổ tay cô. Cô nhớ mình đã chạy dọc cái hành lang này, cố kìm lại để không rú lên, Mariam chạy theo gọi cô, còn Aziza đang gào lên hoảng loạn. Bây giờ trên các bức tường hành lang đã treo những bức tranh lớn hình những con khủng long, những nhân vật hoạt hình, những pho tượng Phật ở Bamiyan và triển lãm cả những tác phẩm nghệ thuật của bọn trẻ. Rất nhiều bức vẽ diễn tả cảnh những chiếc xe tăng nghiến qua các túp lều, những người đàn ông đang vung khẩu AK-47 trên tay, những trại tị nạn, những cảnh về cuộc thánh chiến.
Laila rẽ ở một góc hành lang và bây giờ cô nhìn thấy lũ trẻ đang đợi ở bên ngoài phòng học. Chúng chào cô bằng những chiếc khăn, những chiếc đầu cạo trọc được che bởi những chiếc mũ chỏm, bằng những hình dáng nhỏ nhắn, gầy còm của chúng, bằng vẻ đẹp từ sự ảm đạm của chúng.
Khi lũ trẻ nhìn thấy Laila, chúng chạy tới. Chúng lao tới. Laila bị vây xung quanh. Rồi huyên náo những tiêng chào cao vút, những giọng nói the thé, những cái vỗ, giật, kéo, chen lấn xô đẩy để được trèo vào trong vòng tay cô. Những cánh tay nhỏ xíu với ra để mong được cô chú ý. Một vài đứa gọi cô là Mẹ. Laila để yên cho chúng gọi.
Buổi sáng nay Laila phải mất một lúc mới ổn định được lũ trẻ, để xếp chúng thành một hàng và đưa chúng vào lớp học.
Chính Tariq và Zaman đã xây phòng học này bằng cách đập bỏ bức tường giữa hai phòng kề nhau. Sàn nhà thì vẫn bị rạn nứt nghiêm trọng và thiếu mất nhiều viên gạch lát. Để cho nhanh, họ phủ vải dầu lên trên, nhưng Tariq đã hứa sẽ đúc vài viên gạch mới và sẽ sớm trải lại thảm.
Treo trên cửa lớp học là một tấm bảng hình chữ nhật đã được Zaman phủ cát và sơn lên một màu trắng bóng. Ông dùng chổi sơn và viết lên đó bốn dòng thơ, Laila biết đó chính là câu trả lời của ông cho những lời cằn nhằn rằng số tiền hứa hẹn viện trợ cho Afghanistan sẽ không đến, rằng việc tái thiết quá chậm chạp, rằng có hiện tượng tham nhũng, rằng Taliban đang nhen nhóm trở lại và chuẩn bị cho một cuộc trả thù, rằng thế giới sẽ một lần nữa lãng quên Afghanistan. Những lời đó được trích từ một bài thơ ghazal của Hafez mà ông yêu thích:
Joseph sẽ trở về Canaan, đừng bi lụy,
Hovels sẽ trở lại vườn hồng, đừng bi lụy.
Nếu như cơn hồng thủy có tới dìm chết mọi thứ,
Noah sẽ là người chỉ đường của bạn trong mắt bão, đừng bi lụy.
Laila đi qua dưới tấm bảng và vào lớp học. Bọn trẻ đang ổn định chỗ ngồi, mở vở ra và nói chuyện. Aziza đang nói chuyện với một đứa con gái ở hàng kế bên. Một cái máy bay bằng giấy lượn vòng cung ngang phòng. Ai đó lại phi nó trở lại.
“Mở sách Tiếng Farsi của các em ra nào,” Laila nói và để quyển sách của cô xuống bàn.
Trong tiếng giở sách sột soạt đồng loạt, Laila bước lại gần cái cửa sổ không có rèm. Qua cửa kính, cô nhìn thấy lũ con trai đang xếp hàng dưới sân tập ném bóng. Trên đầu chúng, phía dãy núi, mặt trời buổi sáng đang nhô lên. Ánh sáng phản chiếu vào vành kim loại của rổ bóng rổ, chiếc xích sắt của cái xích đu lốp xe, cái còi treo quanh cổ Zaman và cặp kính mới của ông. Laila áp lòng tay vào tấm kính ấm. Nhắm hai mắt lại. Cô để cho ánh sáng mặt trời rọi vào má, vào mí mắt, vào trán mình.
Khi họ mới quay trở lại Kabul, Laila đã rất đau khổ khi cô không biết Taliban chôn Mariam ở chỗ nào. Cô ước rằng cô có thể thăm mộ Mariam, ngồi xuống với bà một lúc, cắm một vài bông hoa trên mộ. Nhưng bây giờ Laila cũng không thấy điều đó quá quan trọng. Mariam chưa bao giờ ở xa. Bà vẫn ở đây, trong những bức tường họ sơn lại, trong những cái cây họ trồng, trong những tấm chăn giữ ấm cho bọn trẻ, trong những cái gói, những quyển sách và những chiếc bút chì. Bà hiển hiện trong nụ cười của lũ trẻ. Bà ở trong những vần thơ của Aziza và trong những lời cầu nguyện của cô bé khi cô bé vái về hướng Tây. Nhưng trên tất cả, Mariam ở trong lòng của Laila, nơi bà tỏa ra những tia ấm áp của ngàn mặt trời.
Laila nhận ra có ai đó đang gọi tên cô. Cô quay lại, nghiêng đầu theo bản năng và nhướng tai lên một chút. Đó là Aziza.
“Mammy? Mammy không sao chứ?”
Căn phòng đã trở nên yên tĩnh. Lũ trẻ đang dõi theo cô.
Laila định trả lời nhưng đột nhiên hơi thở nghẹn lại. Hai bàn tay của cô trượt xuống. Chúng chạm vào chỗ mà chỉ một khoảnh khắc trước đây cô cảm thấy một chuyển động lan khắp người mình. Cô chờ đợi. Nhưng không có thêm động tĩnh gì nữa.
“Mammy?”
“Ừ, con yêu.” Laila mỉm cười. “Mẹ ổn. Mẹ rất ổn.”
Khi bước lại bàn mình ở trước lớp, Laila nghĩ về trò chơi đặt tên mà họ đã chơi trong bữa ăn tối ngày hôm trước. Nó đã trở thành một thứ nghi lễ hằng tối từ khi Laila báo tin cho Tariq và lũ trẻ. Họ thay phiên nhau đưa ra các lựa chọn của mình. Tariq thích Mohammad. Zalmai vừa mới xem video bộ phim Siêu nhân thì hỏi tại sao những đứa trẻ Afghanistan không được đặt tên là Clark. Aziza thì đấu tranh cho cái tên Aman. Laila thích Omar.
Nhưng trò chơi chỉ liên quan tới những tên con trai. Bởi vì, nếu đó là bé gái, Laila đã có sẵn một cái tên.
HẾT
Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ - Khailed Hosseini Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ