Chương 2
ai chiếc thuyền nối vào nhau của chúng tôi chững lại ở vùng nước nông đầy đá. Chúng tôi vào đến bờ đúng lúc mặt trời đang tắt dần đằng sau những tầng mây xám mênh mông, có lẽ còn chừng một tiếng nữa trời sẽ tối hẳn. Bãi biển là một mũi đất lởm chởm đá đầy tảo mắc lại khi thủy triều xuống, nhưng với tôi nó thật đẹp, còn đẹp hơn bất cứ bãi biển cát trắng tinh dành cho du lịch nào ở quê nhà. Nó có nghĩa là chúng tôi đã tới nơi. Nó có nghĩa gì với những người khác tôi khó lòng hình dung được; phần lớn họ chưa rời khỏi Cairnholm suốt thời gian bằng cả đời người, và giờ đây họ ngỡ ngàng nhìn quanh, sững sờ vì vẫn còn sống và băn khoăn không biết nên làm gì với chuyện đó.
Chúng tôi loạng choạng rời khỏi thuyền với những đôi chân rỡ rời. Fiona bốc một nắm sỏi dính đầy bùn cho vào miệng, lấy lưỡi đảo qua đảo lại chúng, như thể cô cần đến cả năm giác quan để thuyết phục bản thân rằng mình không phải đang mơ - cũng chính là điều tôi từng cảm thấy khi ở trong Vòng Thời Gian của cô Peregrine lần đầu tiên. Từ bé đến giờ, tôi chưa bao giờ nghi ngờ chính đôi mắt của mình đến thế. Bronwyn rên lên rồi ngồi phịch xuống cát, kiệt sức đến không thể nói thành lời. Những người khác xúm lại quanh cô, rối rít cảm ơn cô vì những gì cô đã làm, nhưng những lời cảm ơn đó thật gượng ép; chúng tôi nợ cô quá nhiều, mà hai từ cảm ơn thật nhỏ bé, Bronwyn cố xua chúng tôi đi, song vì quá mệt nên cô hầu như không thể giơ nổi bàn tay lên nữa. Emma và mấy cậu con trai kéo Olive từ trên những đám mây xuống.
“Trông cậu đúng là xanh lè!” Emma kêu lên khi Olive xuất hiện qua làn sương mù, và cô nhổm dậy kéo cô bé lại ôm vào lòng. Olive ướt sũng và lạnh cóng, hai hàm răng va lập cập. Không có tấm chăn nào, thậm chí chẳng có lấy một chiếc áo khô cho cô bé, vậy là Emma đưa đôi bàn tay luôn ấm nóng của cô lướt khắp người Olive cho tới khi những cơn rùng mình kinh khủng nhất của cô bé dịu xuống, sau đó cử Fiona và Horace đi tìm củi nhóm lửa. Trong khi đợi hai người trở lại, chúng tôi tập trung quanh hai chiếc thuyền để kiểm kê những gì đã mất ngoài biển. Một bản tổng kết nghiêm trọng. Hầu như tất cả mọi thứ chúng tôi mang theo giờ đây đều đã nằm dưới đáy biển.
Những gì chúng tôi còn lại là quần áo đang mặc trên người, một ít thực phẩm trong những cái lon hoen gỉ, và chiếc rương hành lý to tướng của Bronwyn, không thể bị phá hủy và có vẻ không thể chìm - và nặng một cách phi lý tới mức chỉ có chính Bronwyn may ra mới vác được nó. Chúng tôi cạy mở ba cái chốt kim loại của nó, hăm hở tìm xem liệu có thấy thứ gì đó hữu ích, hay tốt hơn thế, ăn được, nhưng tất cả những gì cái rương chứa đựng là một tập truyện ba cuốn có tên là Những truyện kể về người đặc biệt, các trang sách đã mềm nhũn vì ngấm nước biển, và một tấm thảm hút nước ở buồng tắm có thêu mấy chữ cái ALP, các chữ cái đầu họ tên cô Peregrine.
“Ôi, ơn Chúa trên thiên đường! Ai đó đã nhớ đến tấm thảm hút nước trong buồng tắm.” Enoch ngẩn ra. “Chúng ta được cứu rồi.”
Tất cả những thứ khác đều đã mất, kể cả toàn bộ bản đồ của chúng tôi - tấm bản đồ nhỏ Emma đã dùng để định hướng cho chúng tôi vượt qua eo biển cũng như tập bản đồ lớn các Vòng Thời Gian bọc bìa da từng là món tài sản Millard rất trân trọng, Bản đồ Các Ngày. Khi Milllard nhận ra nó đã mất, cậu bắt đầu làm toáng lên. “Trên đời chỉ còn năm tấm bản đồ và nó là một trong số đó!” anh chàng than vãn. “Một tài liệu vô giá! Chưa kể nó chứa đựng những ghi chép và chú giải cá nhân của tớ suốt bao nhiêu năm!”
“Ít ra chúng ta vẫn còn Những truyện kể về người đặc biệt,” Claire nói, vẩy vẩy nước biển khỏi những lọn tóc vàng của cô. “Tớ sẽ không thể ngủ nổi buổi tối nếu không được nghe một câu chuyện.”
“Những câu chuyện cổ tích hay ho thì ích gì nếu chúng ta thậm chí không thể tìm ra đường đi?” Millard hỏi.
Tôi thầm nhủ: Tìm đường đi đâu kia chứ? Rồi tôi chợt nhận ra, trong lúc vội vã đào thoát khỏi hòn đảo, tôi đã chỉ nghe thấy đám trẻ nói về việc tìm vào đất liền, nhưng chúng tôi chưa bao giờ thảo luận xem cần làm gì một khi đã tới được đây - như thể ý tưởng thực sự sống sót qua được chuyến đi trên những con thuyền nhỏ xíu đó là quá xa xăm, quá lạc quan một cách lố bịch, tới mức lên kế hoạch cho nó chỉ lãng phí thời gian. Tôi nhìn sang Emma để được trấn an như tôi vẫn hay làm. Cô rầu rĩ nhìn xuống bãi biển. Từ trên nền cát lổn nhổn đá, có những đụn cát thấp phất phơ cỏ mọc. Xa hơn nữa là rừng: một chướng ngại vật màu xanh có vẻ không thể vượt qua, chạy dài liên tục xa hết tầm mắt tôi về cả hai phía. Emma, với tấm bản đồ đã mất của cô, vốn nhắm tới một thành phố cảng nào đó, nhưng sau khi cơn bão ập tới, mục tiêu của chúng tôi chỉ còn là vào được đất liền. Chẳng thể nào biết chúng tôi đã chệch hướng bao xa. Tôi không thấy con đường, biển chỉ dẫn hay thậm chí lối mòn nào. Chỉ một màu hoang vu.
Tất nhiên, chúng tôi không hẳn là cần bản đồ, biển chỉ dẫn hay bất cứ thứ gì khác. Chúng tôi cần cô Peregrine - lành lặn, khỏe mạnh - người biết chính xác cần đi đâu và làm cách nào để đưa chúng tôi tới đó an toàn. Con chim đang đậu trước mặt chúng tôi lúc này, đang xòe lông ra hong khô trên một tảng đá, cõi lòng cũng bị tổn thương nặng nề như bên cánh gãy đang gập xuống thành một hình chữ V đầy lo sợ. Tôi có thể nói đám trẻ rất đau lòng khi trông thấy bà như thế. Bà được trông đợi sẽ là mẹ, là người bảo vệ họ. Bà đã là nữ hoàng của thế giới trên hòn đảo nhỏ của họ, nhưng giờ đây bà không thể nói, không thể tạo Vòng Thời Gian, thậm chí còn không thể bay. Họ nhìn bà, cau mày rồi quay đi nhìn chỗ khác.
Cô Peregrine luôn đưa mắt nhìn chăm chăm về phía mặt biển tối sầm màu đá xám. Đôi mắt nặng nề, đen thẳm chứa đựng mỗi phiền muộn không nói nên lời.
Đôi mắt đó dường như nói: Ta đã phụ lòng trông đợi của các em.
***
Horace và Fiona gập người lại đi về phía chúng tôi qua bãi cát lổn nhổn đá, gió thổi làm mái tóc hoang dã của Fiona xõa bung ra như một đám mây bão, Horace nhảy lên, hai bàn tay áp chặt vào hai bên cái mũ chóp cao của mình để giữ nó yên vị trên đầu. Bằng cách nào đó, cậu ta vẫn giữ được nó trong suốt thời gian chúng tôi gần như gặp phải thảm họa ngoài biển, nhưng giờ đây cái mũ bị móp vào ở một bên và trông như một cái ống khói bị uốn cong. Dẫu vậy, cậu ta vẫn không chịu vứt nó đi; Horace nói cái mũ rất hợp với bộ đồ cắt may bảnh chọe bê bết bùn ướt sũng của mình.
Cả hai đều tay không. “Chẳng có củi ở bất cứ chỗ nào!” Horace nói khi hai người tới chỗ chúng tôi.
“Các cậu đã tìm trong rừng chưa?” Emma hỏi, chỉ tay vào các hàng cây tối sẫm phía sau các đụn cát.
“Ghê lắm,” Horace nói. “Bọn tớ nghe thấy tiếng một con cú.”
“Từ lúc nào cậu bắt đầu sợ chim vậy hả?”
Horace nhún vai nhìn xuống mặt cát. Sau đó, Fiona thúc khuỷu tay vào cậu ta, anh chàng có vẻ tự nhớ ra được rồi nói, “Nhưng bọn tớ đã tìm thấy một thứ khác.”
“Nơi ở à?” Emma hỏi.
“Hay một con đường?” Millard hỏi.
“Một con ngỗng để nấu bữa tối phải không?” Claire hỏi.
“Không,” Horace đáp lại. “Những quả khí cầu.”
Tiếp theo là một thoáng im lặng ngỡ ngàng.
“Ý cậu là sao, khí cầu à?” Emma hỏi.
Những quả khí cầu to tướng trên trời, có người bên trong.”
Khuôn mặt Emma tối sầm lại. “Chỉ cho bọn tớ thấy đi.”
Chúng tôi đi theo hai người trở lại con đường họ vừa từ đó đi lại, vòng qua một khúc uốn cong của bãi biển, rồi leo lên một bờ kè nhỏ. Tôi băn khoăn tự hỏi làm thế nào chúng tôi lại không nhìn thấy một thứ rõ mồn một như những khinh khí cầu, cho tới khi chúng tôi leo lên một ngọn đồi và tôi trông thấy chúng – không phải những quả khí cầu hình giọt nước to lớn đủ màu sắc bạn vẫn thấy trên những tờ lịch tường hay những tấm áp phích cổ động (“Bầu trời là giới hạn!”), mà là một cặp khí cầu máy cỡ nhỏ: những túi khí hình quả trứng màu đen có lồng treo bên dưới, mỗi cái lồng có một phi công. Những khí cầu này rất nhỏ và đang hạ xuống thấp, đu đưa hết tiến lại lùi thành hình dích dắc, và tiếng sóng vỗ đã át đi tiếng cánh quạt động cơ của chúng. Emma kéo chúng tôi vào đám cỏ cao, và chúng tôi ngồi sụp xuống nấp khỏi tầm nhìn.
“Đó là khí cầu săn ngầm,” Enoch lên tiếng, trả lời khi chưa ai kịp hỏi. Millard có vẻ là người hiểu biết nhất khi nói đến bản đồ và sách vở, song Enoch mới là chuyên gia về mọi thứ dính đến quân sự. “Cách tốt nhất để phát hiện tàu ngầm địch là từ trên trời,” cậu ta giải thích.
“Nếu thế tại sao chúng lại bay sát mặt đất thế?” tôi hỏi.
“Và sao chúng không bay xa hơn ra ngoài biển?”
“Cái đó thì tớ không biết.”
“Cậu có nghĩ bọn họ đang tìm kiếm… chúng ta không?” Horace dò hỏi.
“Nếu ý cậu muốn nói họ là đám xác sống,” Hugh nói, “đừng có ngốc thế. Bọn xác sống đang ở cùng bọn Đức. Chúng ở dưới cái tàu ngầm Đức đó.”
“Bọn xác sống liên minh với bất kì ai có lợi ích gắn liền với lợi ích của chúng,” Millard nói. “Chẳng có lý do nào đề cho rằng chúng lại không xâm nhập vào các tổ chức của hai phe trong chiến tranh.”
Tôi không thể rời mắt khỏi mấy cỗ máy kì lạ trên bầu trời. Trông chúng không tự nhiên, như những con côn trùng cơ khí kềnh càng mang những quả trứng to tướng.
“Tớ không thích chúng bay kiểu như thế,” Enoch nói, đôi mắt sắc bén chăm chú tính toán. “Chúng đang tìm kiếm dọc bờ biển chứ không phải ngoài khơi.”
“Tìm cái gì cơ?” Bronwyn hỏi, nhưng câu trả lời đã hiển nhiên và đáng sợ đến mức không ai muốn nói thành tiếng.
Chúng đang tìm kiếm chúng tôi.
Tất cả chúng tôi cùng túm tụm lại trong đám cỏ, và tôi cảm thấy cả người Emma căng lên cạnh mình. “Tớ hô thì chạy nhé,” cô nghiêm giọng khẽ nói. “Chúng ta sẽ giấu thuyền đi rồi ẩn nấp.”
Chúng tôi đợi mấy chiếc khí cầu lượn ra xa, rồi bật dậy khỏi đám cỏ, thầm cầu mong chúng tôi đang ở quá xa để có thể bị phát hiện. Trong lúc chúng tôi chạy, tôi chợt nhận ra mình đang ước giá mà màn sương mù từng quấy rầy chúng tôi ngoài biển hãy quay lại để che giấu chúng tôi. Với tôi, rất có khả năng nó đã cứu chúng tôi một lần rồi; nếu không có sương mù, những chiếc khí cầu kia hẳn đã phát hiện ra chúng tôi từ hàng giờ trước, trên những chiếc thuyền, khi chúng tôi không có chỗ nào để chạy trốn. Và theo cách đó, đây là điều cuối cùng hòn đảo làm để cứu những đứa trẻ đặc biệt của nó.
***
Chúng tôi kéo hai chiếc thuyền của mình qua bãi biển về phía một cái hang bên bờ biển, cửa hang là một kẽ nứt đen ngòm trên vách đá. Bronwyn đã dốc hết sức lực đến nỗi gần như không tự mình bước đi nổi nữa, chứ đừng nói gì khiêng thuyền, vì thế những người còn lại trong chúng tôi vật lộn để kéo dây kéo, vốn liên tục kêu kèn kẹt và thẳng căng ra vì các thân thuyền luôn tìm cách cắm mũi xuống cát ướt. Qua được nửa bãi biển, cô Peregrine ré lên một tiếng kêu cảnh báo, và hai chiếc khí cầu có điều khiển nhô lên trên các đụn cát, xuất hiện trong tầm mắt chúng tôi. Chúng tôi vùng chạy như bay trong cơn hoảng hốt, vùn vụt kéo hai chiếc thuyền vào trong hang như thể chúng được đặt trên ray trượt, trong khi cô Peregrine tập tễnh nhảy cạnh chúng tôi, bên cánh bị thương kéo lê trên cát.
Khi cuối cùng cũng khuất khỏi tầm nhìn của chúng, chúng tôi thả hai chiếc thuyền xuống và ngồi vật xuống tựa vào thân thuyền lật ngược, tiếng thở hổn hển của chúng tôi vang vọng trong bóng tối ẩm ướt với tiếng nước nhỏ giọt tí tách. “Làm ơn, làm ơn đừng để chúng nhìn thấy chúng con,” Emma cầu nguyện thành tiếng.
“Ôi, khỉ thật! Dấu vết của chúng ta!” Millard kêu lên, rồi cậu ta cởi phăng chiếc áo khoác đang mặc và trườn ra ngoài xóa vết trượt mà những chiếc thuyền của chúng tôi đã tạo ra; từ trên trời, trông chúng chẳng khác gì những mũi tên chỉ thẳng vào chỗ nấp của chúng tôi. Chúng tôi chỉ có thể dõi theo dấu bước chân của cậu ta xa dần. Nếu bất cứ ai khác ngoài Millard mò ra ngoài, người đó chắc chắn đã bị nhìn thấy.
Một phút sau cậu ta quay vào, run bần bật, bê bết cát, một vết đỏ loang ra trên ngực áo. “Bây giờ chúng đang đến gần,” cậu ta thều thào. “Tớ đã cố hết sức có thể.”
“Cậu lại chảy máu kìa!” Bronwyn kếu lên lo lắng, Millard đã bị trúng đạn trong cuộc hỗn chiến của chúng tôi ở ngọn hải đăng tối hôm trước, và cho dù đến lúc này quá trình phục hồi của cậu ta nhanh đáng kể, nhưng cũng còn lâu mới lành hẳn. “Cậu đã làm gì với lớp băng bó vết thương của cậu rồi?”
“Tớ đã ném nó đi rồi. Nó được buộc lằng nhằng đến mức tớ không thể tháo ra nhanh được. Một người vô hình phải luôn có khả năng cởi hết đồ trên người trong nháy mắt, nếu không khả năng của cậu ta chỉ vô ích!”
“Nếu chết rồi cậu ta thậm chí sẽ còn vô dụng hơn, đồ con lừa cứng đầu,” Emma nói. “Giờ thì ngồi im và đừng có cắn phải lưỡi. Sẽ đau đấy.” Cô áp chặt hai ngón tay vào lòng bàn tay còn lại, tập trung một khoảnh khắc, và khi cô nhấc hai ngón tay ra, chúng đã sáng rực, nóng đỏ.
Millard chùn lại. “Này này, Emma, tớ nghĩ thà cậu đừng…”
Emma ấn mạnh hai nón tay vào bên vai bị thương của cậu ta. Millard thở hộc ra. Có tiếng thịt cháy xèo xèo và một làn khói bốc lên từ da cậu ta. Trong chốc lát, máu đã ngừng chảy.
“Tớ sẽ có sẹo mất!” Millard rên rẩm.
“Phải, thì sao? Ai mà thấy nó được?”
Cậu ta hờn dỗi im bặt.
Tiếng động cơ của hai chiếc khi cầu vang lên to hơn, rồi to hơn nữa, được vách đá trong hang khuếch đại lên. Tôi hình dung ra chúng treo lơ lửng phía trên hang, quan sát vết chân chúng tôi, chuẩn bị tấn công. Vai Emma tựa vào vai tôi. Mấy đứa trẻ nhỏ chạy đến chỗ Bronwyn và úp mặt vào lòng cô, cô bèn nựng nịu chúng. Bất chấp những công năng dị thường của mình, chúng tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực: tất cả những gì chúng tôi có thể làm là ngồi bó gối chớp mắt nhìn nhau trong cảnh tranh tối tranh sáng mờ mờ, nước mũi chảy ròng ròng vì lạnh, hy vọng kẻ thù sẽ không tìm ra chúng tôi.
Cuối cùng, tiếng động cơ bắt đầu nhỏ đi, và khi chúng tôi lại có thể nghe thấy giọng nói của chính mình, Claire lí nhí trong lòng Bronwyn, “Kể cho bọn tớ nghe một câu chuyện đi, Wyn. Tớ sợ, tớ không thích tất cả chuyện này tẹo nào và thay vì thế tớ nghĩ tớ thích nghe một câu chuyện.”
“Phải đấy, cậu kể chuyện đi!” Olive nài nỉ. “Một câu chuyện từ Những truyện kể, làm ơn đi. Đó là những câu chuyện ưa thích của tớ.”
Là người ra dáng đàn chị nhất trong đám trẻ đặc biệt, với những đứa trẻ nhỏ nhất, Bronwyn còn giống một người mẹ hơn cả cô Peregrine. Chính Bronwyn đưa chúng lên giường ngủ buổi tối, Bronwyn cũng là người đọc truyện cho chúng nghe và hôn lên trán chúng. Đôi cánh tay mạnh mẽ của cô dường như được tạo nên để ôm lấy chúng trong vòng tay ấm áp, đôi vai rộng của cô để công kênh chúng. Nhưng giờ không phải lúc kể chuyện - và cô cũng nói như vậy.
“Sao chứ, chắc chắn là phải rồi!” Enoch lên tiếng với giọng mỉa mai đều đều. “Nhưng lần này hãy tạm bỏ qua Những truyện kể và kể cho chúng tớ câu chuyện bằng cách nào những đứa trẻ của cô Peregrine tìm được đường tới nơi an toàn khi không có bản đồ hay chút thức ăn nào và sẽ không bị đám hồn rỗng ăn thịt trên đường! Tớ rất nóng lòng muốn nghe xem câu chuyện đó kết thúc thế nào.”
“Giá như cô Peregrine có thể nói cho chúng mình biết,” Claire sụt sịt. Cô rời khỏi Bronwyn và tới bên con chim đang đậu trên một thân thuyền lật úp quan sát chúng tôi. “Chúng em phải làm gì đây, cô phụ trách?” Claire nói. “Làm ơn hãy trở lại hình người đi. Làm ơn hãy tỉnh lại đi!”
Cô Peregrine kêu cu cu và dùng cánh vuốt ve mái tóc Claire. Sau đó, Olive cũng tiến lại, khuôn mặt giàn giụa nước mắt. “Chúng em cần cô, cô Peregrine! Chúng em bị lạc đường, đang gặp nguy hiểm và càng lúc càng đói bụng, mà chẳng còn mái nhà hay bạn bè nào ngoài chính những người đang ở đây, và chúng em cần cô!”
Đôi mắt đen của cô Peregrine sáng lên long lanh. Bà quay đi, tránh ra ngoài tầm với.
Bronwyn quỳ xuống cạnh mấy cô bé. “Cô ấy chưa thể trở lại hình người ngay bây giờ được, các cô bé. Nhưng chúng ta sẽ chữa khỏi cho cô ấy, tớ xin hứa.”
“Nhưng bằng cách nào?” Olive hỏi. Câu hỏi của cô vang vọng lại trên các vách đá, mỗi tiếng vọng hỏi thêm lần nữa.
Emma đứng dậy. “Tớ sẽ cho các cậu biết bằng cách nào,” cô nói, và mọi con mắt đổ dồn vào cô. “Chúng ta sẽ đi bộ.” Emma nói những lời đó với vẻ quả quyết khiến tôi lạnh người. “Chúng ta sẽ đi, cứ đi cho tới khi đến được thành phố nào đó.”
“Nhưng nếu không có thành phố nào trong vòng năm mươi ki lô mét thì sao?” Enoch hỏi.
“Thì chúng ta sẽ đi bộ năm mươi mốt ki lô mét. Nhưng tớ biết chúng ta đã không bị đẩy đi chệch hướng xa đến thế.”
“Thế nếu bọn xác sống phát hiện ra chúng ta từ trên không thì sao?” Hugh hỏi.
“Chúng sẽ không phát hiện ra. Chúng ta sẽ cẩn thận.”
“Thế nếu chúng đợi sẵn chúng ta trong thành phố thì sao?” Horace hỏi.
“Chúng ta sẽ giả làm người thường. chúng ta sẽ qua mặt chúng được.”
“Tớ giả làm người bình thường không tốt lắm đâu,” Millard vừa cười vừa nói.
“Không ai nhìn thấy cậu đâu, Mill. Cậu sẽ là trinh sát tiền trạm cho chúng tớ, là người bí mật thu thập những thứ cần thiết cho chúng ta.”
“Tớ đúng là một tay trộm khá tài năng,” cậu nói với chút tự hào. “Một bậc thầy đích thực trong nghệ thuật sử dụng năm ngón tay.”
“Sau đó thì sao?” Enoch chua chát hỏi. “Có thể chúng ta sẽ có đồ ăn bỏ bụng và chỗ nào ấm áp để ngủ, nhưng chúng ta vẫn phải lang thang bên ngoài, lù lù ra đó, dễ bị tấn công, không có Vòng Thời Gian… mà cô Peregrine thì… thì vẫn…”
“Bằng cách nào đó chúng ta sẽ tìm thấy một Vòng,” Emma nói. “Có những dấu mốc và ký hiệu dành cho những người biết tìm kiếm. Còn nếu không có, chúng ta sẽ tìm ai đó giống như chúng ta, một đồng loại cũng là người đặc biệt có thể chỉ dẫn cho chúng ta vị trí của Vòng gần nhất. Và trong Vòng đó sẽ có một Chủ Vòng Thời Gian, người đó sẽ có thể dành cho cô Peregrine sự giúp đỡ cô ấy cần.”
Tôi chưa từng gặp ai có sự tự tin mãnh liệt như Emma. Tự tin toát ra từ mọi thứ thuộc về cô: tư thế của cô, cần cổ vươn cao; hàm răng nghiến chặt khi cô hạ quyết tâm về một điều gì đó; cách cô kết thúc mỗi câu đầy quả quyết, không bao giờ bằng một dấu hỏi. Nó thật dễ lây, tôi thích nó, và tôi phải kìm chế thôi thúc đột ngột muốn hôn cô, ngay tại đó, trước mặt mọi người.
Hugh bật ho, và những con ong lao ra khỏi miệng cậu ta tạo thành một dấu hỏi run rẩy trong không khí. “làm sao cậu dám chắc là vậy?” Hugh hỏi.
“Vì tớ tin chắc, thế thôi.” Và cô giơ hai bàn tay ra như thể chỉ có vậy.
“Cậu vừa có một bài diễn văn đầy hào khí rất hay ho,” Millard nói, “và tớ ghét phải làm hỏng nó, nhưng từ những gì chúng ta biết, cô Peregrine là Chủ Vòng Thời Gian duy nhất chưa bị bắt. Hãy nhớ lại những gì cô Avocet đã nói với chúng ta: bọn xác sống đã tấn công các Vòng và bắt cóc các Chủ Vòng từ nhiều tuần trước rồi. Như thế có nghĩa là dù có thể tìm thấy một Vòng Thời Gian, chúng ta cũng chẳng có cách nào để biết liệu Chủ Vòng còn đó hay không - hay thay vì thế kẻ thù của chúng ta đang chiếm cứ nó. Chúng ta không thể cứ khơi khơi tới gõ cửa các Vòng Thời Gian và hy vọng trong đó không đầy ắp xác sống.”
“Hay có cả đống hồn rỗng đang đói ngấu bu quanh,” Enoch nói.
“Chúng ta sẽ không phải hy vọng,” Emma nói, sau đó mỉm cười về phía tôi. “Jacob sẽ nói cho chúng ta biết.”
Cả người tôi lạnh toát. “Tớ?”
“Cậu có thể cảm thấy đám hồn rỗng từ xa mà, phải không nào?” Emma nói. “Bên cạnh khả năng nhìn thấy chúng?”
“Khi chúng ở gần, lúc đó tớ có vẻ cảm thấy như mình sắp nôn ọe vậy,” tôi thừa nhận.
“Chúng cần phải ở gần tới mức nào?” Millard hỏi. “Nếu chỉ là vài mét, như thế chúng ta vẫn ở trong tầm bị xơi tái. Bọn tớ cần cậu cảm nhận được chúng từ xa hơn nhiều.”
“Chính xác thì tớ chưa thử,” tôi nói. “Tất cả chuyện này còn quá mới với tớ.”
Tôi chỉ mới chạm trán con hồn rỗng của bác sĩ Golan, Malthus, con quái vật đã sát hại ông tôi, sau đó thiếu chút nữa đã dìm tôi chết đuối dưới đầm lầy ở Cairnholm. Hắn đã ở cách bao xa khi lần đầu tiên tôi cảm thấy hắn rình rập tôi, lẩn khuất bên ngoài nhà tôi ở Englewood? Không thể biết được.
“Dù sao đi nữa, tài năng của cậu có thể được phát triển,” Millard nói. “Các năng lực đặc biệt cũng ít nhiều giống như cơ bắp vậy - cậu càng luyện tập nhiều, chúng càng to ra.”
“Chuyện này đúng là điên rồ!” Enoch nói. “Có thực tất cả các cậu liều lĩnh tới mức đặt cược tất cả vào cậu ta không đấy? Sao chứ, cậu ta chỉ là một cậu nhóc - một anh chàng bình thường mềm nhũn gần như chẳng biết gì về thế giới của chúng ta!”
“Cậu ấy không bình thường,” Emma nói, nhăn mặt như thể đó là lời sỉ nhục thậm tệ nhất. “Cậu ấy là một trong số chúng ta!”
“Vớ vẩn, ngớ ngẩn!” Enoch hét lên. “Cậu ta không thể trở thành anh em với tớ chỉ nhờ có một tí xíu máu đặc biệt trong huyết quản. và chắc chắn điều đó không thể khiến cậu ta trở thành người bảo vệ tớ! Chúng ta không biết cậu ta có thể làm gì - nhiều khả năng cậu ta chẳng phân biệt được giữa một con hồn rỗng ở cách xa năm mươi mét và mùi trung tiện!”
“Cậu ấy đã giết một gã trong bọn chúng, đúng không nào?” Bronwyn nói. “Đâm xuyên qua mắt nó bằng một cái kéo xén lông cừu! Lần cuối cùng cậu nghe nói tới một người đặc biệt còn trẻ như thế làm được việc tương tự là khi nào hả?”
“Chưa có, kể từ Abe,” Hugh nói, và khi tên ông được nhắc đến, cả đám trẻ chìm vào im lặng đầy kính cẩn.
“Tớ nghe nói có lần cậu ấy đã dùng tay không giết chết một gã,” Bronwyn nói.
“Tớ nghe nói cậu ấy đã giết một gã bằng một que đan và một đoạn dây,” Horace nói. “Thực ra tớ đã mơ thấy điều đó, vậy nên tớ chắc chắn cậu ấy đã làm được như thế.”
“Một nửa những chuyện đó chỉ toàn là được dựng lên, và cứ mỗi năm lại càng được thổi phồng thêm lên.” Enoch nói. “Anh chàng Abraham Portman tớ biết thêm chưa từng làm gì giúp chúng ta.”
“Cậu ấy là một người đặc biệt vĩ đại!” Bronwyn nói. “Cậu ấy đã chiến đấu dũng cảm và giết được hàng chục hồn rỗng vì chúng ta!”
“Rồi sau đó cậu ta bỏ chạy và bỏ mặc chúng ta ẩn núp trong ngôi nhà đó như những kẻ tị nạn trong khi cậu ta lang thang khắp nước Mỹ đóng vai anh hùng!”
“Cậu không biết cậu đang nói gì đâu,” Emma lên tiếng, đỏ bừng vì phẫn nộ. “Trong chuyện đó còn nhiều nguyên do hơn thế.”
Enoch nhún vai. “Dù sao đi nữa, tất cả chuyện đó đều không phải vấn đề,” cậu ta nói. “Dù các cậu có nghĩ gì về Abe, nhóc này cũng không phải là cậu ấy.”
Vào khoảnh khắc ấy tôi ghét Enoch, thế nhưng không thể trách cậu ta vì đã nghi ngờ tôi. Làm sao những người khác, chắc chắn và thuần thục những khả năng của mình đến thế, có thể đặt nhiều niềm tin tới vậy vào năng lực của tôi - một thứ tôi chỉ mới bắt đầu hiểu và biết mình có thể làm được mới vài ngày? Dường như chuyện tôi là cháu ai chẳng mấy ý nghĩa. Tôi chỉ đơn giản không biết mình đang làm gì.
“Cậu nói đúng, tớ không phải ông tớ,” tôi nói. “Tớ chỉ là một cậu nhóc từ Florida tới. có lẽ tớ đã gặp may khi giết được con hồn rỗng đó.”
“Vớ vẩn,” Emma nói. “Một ngày nào đó cậu sẽ trở thành một người diệt trừ hồn rỗng hệt như Abe.”
“Hãy hy vọng ngày đó sớm đến,” Hugh nói.
“Đó là số mệnh của cậu,” Horace nói, và cách cậu nói ra những lời này khiến tôi nghĩ cậu biết điều gì đó tôi không biết.
“Nếu đúng thế, mong Chim giúp đỡ tất cả chúng ta,” Enoch nói.
Đầu tôi quay cuồng. Gánh nặng từ kỳ vọng của họ đe dọa sẽ đè bẹp tôi. Tôi đứng lên, loạng choạng, và đi ra phía cửa hang. “Tớ cần chút không khí,” tôi nói, đẩy Enoch sang bên.
“Jacob, đợi đã!” Emma kêu lên. “Những chiếc khí cầu!”
Nhưng chúng đã bay đi từ lâu.
“Cứ để cậu ta đi,” Enoch lầm bầm. “Nếu chúng ta may mắn, cậu ta sẽ bơi trở lại Mỹ.”
***
Bước đi theo mép nước, tôi cố gắng - hay muốn - hình dung bản thân mình dưới góc nhìn của những người bạn mới: không phải là Jacob, cậu nhóc từng gãy xương mắt cá chân khi chạy theo một chiếc xe bán kem, hay từng miễn cưỡng nghe theo mệnh lệnh của bố và thất bại ba lần khi tìm cách giành lấy một chỗ trong đội chạy việt dã vốn chẳng phải đua tranh khốc liệt gì của trường cậu ta, mà là Jacob, người săn tìm các bóng ma, người giải nghĩa kỳ tài những cơn quặn thắt ruột, người phát hiện và diệt trừ những con quái vật chính hiệu có thật - và tất cả những điều đó có thể sẽ định đoạt sống chết cho cả đám trẻ đặc biệt vui vẻ chúng tôi.
Làm thế nào tôi có thể kế thừa di sản của ông tôi đây?
Tôi leo lên một đống đá nằm ngay mép nước và đứng đó, hy vọng cơn gió thổi đều đều sẽ hong khô bộ quần áo ẩm ướt của mình, và trong ánh sáng đang tắt dần tôi ngắm nhìn biển, một tấm bạt xám xịt không ngừng thay đổi tông độ, những sắc xám trộn lẫn vào nhau và tối sẫm. Ngoài xa, thỉnh thoảng một đốm sáng lại lóe lên. Cây hải đăng ở Cairnholm đang nhấp nháy lời chào tạm biệt cuối cùng của nó.
Tâm trí tôi trôi dạt đi. Tôi chìm vào một giấc mơ ban ngày.
Tôi thấy một người đàn ông. Ông ta trạc tuổi trung niên, người bê bết bùn bẩn thỉu, chậm chạp bò theo rìa một vách đá, mái tóc lơ thơ rối bời và ướt nhẹp xõa xuống khuôn mặt. Gió quất vào chiếc áo khoác mỏng của ông như thổi vào một lá buồm. Ông dừng lại, phủ phục xuống chống người trên hai khuỷu hay. Hai bên khuỷu tay ông trượt xuống chỗ đất lõm ông đã tạo nên hàng tuần trước đó, trong khi ông lang thang dọc theo các vách đá ven biển này tìm những con nhạn biển đang kết đôi và tổ hải âu. Ông giơ một chiếc ống nhòm lên mắt, nhưng hướng nó xuống thấp, thấp hơn vị trí các tổ chim, xuống một dải bờ biển hẹp hình lưỡi liềm nơi thủy triều dâng thu nhặt đủ thứ và hất chúng dạt vào bờ: củi rêu và rong biển, mảnh thuyền vỡ - và đôi khi, như lời cư dân địa phương, cả những xác chết.
Người đàn ông ấy là bố tôi. Ông đang tìm kiếm một thứ ông khẩn thiết mong muốn không tìm thấy.
Ông đang tìm thi thể con trai mình.
Cảm thấy cái gì đó chạm vào giày mình, tôi mở choàng mắt ra, giật mình rời khỏi cơn nửa tỉnh nửa mơ. Trời đã sẩm tối, và tôi đang ngồi trên đống đá, hai đầu gối thu vào áp sát ngực, và đột nhiên Emma ở đó, cơn gió thổi tung mái tóc, cô đứng trên mặt cát phía dưới tôi.
“Cậu ổn chứ?” cô hỏi.
Đó là một câu hỏi sẽ phải cần ít nhiều trình độ toán đại học và chừng một giờ thảo luận để trả lời. Tôi cảm thấy cả trăm thứ xung đột nhau, đại bộ phận chúng tự triệt tiêu lẫn nhau về bằng tổng của lạnh, mệt mỏi và không thực sự hào hứng trò chuyện. Vì thế tôi nói, “Tớ ổn cả, chỉ đang cố hong khô người thôi,” rồi vỗ vào ngực chiếc áo len ẩm sì của mình để giải thích.
“Việc đó thì tớ có thể giúp cậu.” Cô leo lên đống đá và ngồi xuống cạnh tôi. “Đưa tay đây cho tớ.”
Tôi chìa một cánh tay ra, và Emma đặt cánh tay tôi vắt qua trên đầu gối cô. Khum hai bàn tay lại trên miệng, cô cúi đầu xuống cổ tay tôi. Sau đó, hít một hơi thật sâu, cô thổi ra từ từ qua hai lòng bàn tay và một luồng hơi nóng dễ chịu không thể tin nổi lan dọc theo cẳng tay tôi, tới mức gần như gây đau.
“Nóng quá à?” cô hỏi.
Tôi cứng người lại, một cơn rùng mình lan khắp người, rồi lắc đầu.
“Tốt.” Cô di chuyển lên cao hơn theo cánh tay tôi rồi thổi lần nữa. Thêm một luồng hơi nóng ngọt ngào. Giữa các nhịp thở, cô nói, “Tớ hy vọng cậu không bận lòng vì những gì Enoch nói. Những người còn lại trong chúng tớ đều tin cậu, Jacob. Enoch có thể trở thành một kẻ độc mồm độc miệng khủng khiếp, đặc biệt là khi cậu ta cảm thấy ghen tị.”
“Tớ nghĩ cậu ấy nói đúng,” tôi nói.
“Cậu không thực sự nghĩ vậy. phải không?”
Tất cả nhất loạt xổ ra. “Tớ không hề biết tớ đang làm gì,” tôi nói. “Ai trong số các cậu lại đi trông cậy vào tớ chứ? Nếu tớ thực sự đặc biệt thì cũng chỉ một chút thôi, tớ nghĩ vậy. Như kiểu tớ chỉ có một phần tư máu đặc biệt còn các cậu mang trọn vẹn máu đặc biệt.”
“không phải thế đâu,” Emma bật cười nói.
“Nhưng ông tớ đặc biệt hơn tớ. Chắc chắn phải thế. Ông rất khỏe… ”
“Không, Jacob,” cô nói, nheo mắt lại nhìn tôi. “Thật đáng kinh ngạc. về nhiều mặt, cậu cũng hệt như cậu ấy. Tất nhiên, cậu cũng khác biệt nữa - cậu dịu dàng và dễ mến hơn - nhưng mọi thứ cậu nói… cậu nói hệt như Abe hồi đầu khi cậu ấy mới tới sống cùng bọn tớ.”
“Thật sao?”
“Phải. Cậu ấy cũng rất bối rối. Cậu ấy chưa bao giờ gặp người đặc biệt nào khác. Cậu ấy không hiểu năng lực của mình cũng như cách nó vận hành, hay cậu ấy có thể làm gì. Mà nói thực lòng thì cả bọn tớ cũng không hề biết. Điều cậu và cậu ấy có thể làm là rất hiếm gặp. Nhưng ông cậu đã học được cách sử dụng nó.”
“Bằng cách nào?” tôi hỏi. “Ở đâu?”
“Trong chiến tranh. Cậu ấy là thành viên một đơn vị bí mật gồm toàn người đặc biệt trong quân đội Anh. Chiến đấu chống lại đám hồn rỗng lẫn bọn Đức. Người ta không trao huân chương tặng thưởng cho những việc kiểu như họ đã làm - nhưng với bọn tớ họ là những người anh hùng, và không ai hơn được ông cậu. Những hy sinh họ chịu đựng đã đẩy lùi những kẻ sa đọa trong nhiều thập kỷ và cứu được tính mạng vô số người đặc biệt.”
Ấy thế nhưng ông lại không thể cứu được hai cụ nội, tôi thầm nghĩ. Thật bi thảm lạ lùng làm sao.
“Và tớ có thể nói với cậu điều này,” Emma nói tiếp. “Cậu cũng đặc biệt chẳng kém gì cậu ấy - và cũng can đảm không kém.”
“Chà. Giờ thì cậu chỉ đang cố làm tớ cảm thấy phấn chấn hơn thôi.”
“Không.” Emma nói, nhìn thẳng vào mắt tôi. “Không phải thế. Rồi cậu sẽ nhận ra, Jacob. Một ngày nào đó, cậu sẽ trở thành một người diệt trừ hồn rỗng còn cừ khôi hơn cậu ấy trước đây.”
“À phải, đó là điều mọi người vẫn nói. Làm thế nào cậu có thể chắc chắn vậy được?”
“Tớ cảm thấy điều đó rất rõ rệt,” cô nói. “Cậu được định đoạt để làm điều đó, tớ nghĩ vậy. Cũng như cậu được định đoạt sẽ tới Cairnholm.”
“Tớ không tin vào những thứ như thế. Số phận. Các vì sao. Định mệnh.”
“Tớ đâu nói là định mệnh.”
“Được định đoạt cũng thế thôi,” tôi nói. “Định mệnh là dành cho những nhân vật trong các cuốn sách về những thanh gươm thần kỳ. Toàn những chuyện tào lao bí đao. Tớ ở đây vì ông tớ lẩm bẩm gì đó về hòn đảo của các cậu mười giây trước khi ông qua đời - chỉ vậy thôi. Đó là một việc tình cờ. Tớ mừng vì ông đã nói về điều đó, nhưng lúc ấy ông đã mê sảng. Ông cũng đã có thể nói ra một danh sách đồ tạp hóa.”
“Nhưng cậu ấy không làm thế,” Emma nói.
Tôi ngao ngán thở dài. “Và nếu chúng ta lên đường đi tìm các Vòng Thời Gian, các cậu trông cậy tớ sẽ cứu các cậu thoát khỏi đám quái vật, nhưng thay vì thế tớ lại khiến tất cả các cậu bị giết, như thế cũng là định mệnh phải không?”
Emma cau mày, đặt cánh tay tôi trở lại vào lòng tôi. “Tớ không hề nói định mệnh,” cô nhắc lại. “Điều tớ tin là khi những việc lớn lao xuất hiện trong đời, không hề có sự tình cờ nào cả. Mọi thứ xảy ra đều có một lý do. Cậu có mặt ở đây vì lý do nào đó - chứ không phải để thất bại rồi chết.”
Tôi chẳng còn tâm trí đâu để tranh cãi. “Được thôi,” tôi nói. “Tớ không nghĩ cậu đúng - nhưng tớ hy vọng là thế.” Tôi cảm thấy thật tệ hại vì lúc trước đã nổi cáu với Emma, nhưng lúc ấy tôi đã lạnh cóng, hoảng sợ và muốn thủ thế. Tôi đã có những khoảnh khắc tốt đẹp và tệ hại, những lúc khiếp sợ và tự tin - mặc dù vào lúc này tỷ lệ khiếp sợ so với tự tin của tôi đang chênh lệch đến mức thảm hại, ba trên một chẳng hạn, và trong những khoảnh khắc khiếp sợ, có vẻ như tôi đã bị đẩy vào một vai trò tôi không hề yêu cầu, tình nguyện lên tuyến đầu trong một cuộc chiến mà chưa bao giờ có ai trong chúng tôi biết trọn vẹn quy mô tầm vóc của nó. “Định mệnh” nghe như một bổn phận, và nếu tôi nhất định phải bị đẩy vào trận chiến chống lại một đội quân những tạo vật ghê rợn, đó cần phải là điều tôi chọn lấy.
Mặc dù về mặt nào đó, sự lựa chọn đã được đưa ra rồi, khi tôi đồng ý chèo thuyền đi vào nơi vô định với những đứa trẻ đặc biệt này. Và nếu tôi thực sự tìm kiếm kỹ lưỡng mọi ngóc ngách nội tâm mình, thì cũng không hẳn là tôi không yêu cầu được làm thế. Quả thực, tôi đã từng mơ về những chuyến phiêu lưu kiểu này từ khi còn bé. Hồi ấy, tôi đã từng tin vào định mệnh, và tin tuyệt đối vào nó, với trọn trái tim thơ dại bé nhỏ của mình. Tôi cảm thấy sự thôi thúc rộn lên trong lồng ngực trong lúc lắng nghe những câu chuyện phi thường của ông nội. Một ngày kia sẽ đến lượt mình. Thứ lúc này có vẻ là bổn phận thì hồi đótừng giống như lời hứa - rằng đến một ngày tôi sẽ thoát khỏi thị trấn bé xíu của mình và sống một cuộc đời phi thường, như ông nội từng sống, và vào ngày đó, cũng như ông nội Portman, tôi sẽ làm được điều gì đó có ý nghĩa. Ông thường hay nói với tôi, “Cháu sẽ trở thành một người vĩ đại, Yakob. Rất vĩ đại.”
“Như ông ấy ạ?” khi đó tôi sẽ hỏi ông.
“Cừ hơn ấy chứ,” ông sẽ trả lời.
Hồi ấy tôi đã tin ông, và giờ vẫn muốn thế. Nhưng càng biết nhiều hơn về ông, cái bóng của ông càng trở nên dài ra, và việc ngày nào đó tôi có thể trở nên vĩ đại như ông dường như càng trở nên bất khả thi. Thậm chí, chỉ thử làm thế thôi cũng có thể là tự sát. Và khi tôi hình dung ra mình đang thử sức, những ý nghĩ về bố tôi lại chen vào - ông bố tội nghiệp sắp bị dày vò khổ sở của tôi - và trước khi tôi có thể xua chúng ra khỏi tâm trí mình, tôi tự hỏi làm thế nào một người vĩ đại lại làm chuyện khủng khiếp đến thế với ai đó thương yêu mình.
Tôi bắt đầu rùng mình. “Cậu lạnh quá,” Emma nói. “Để tớ làm cho xong đã nào.” Cô cầm cánh tay còn lại của tôi lên và hà hơi lên suốt dọc cánh tay. Cảm giác ấy gần như quá mức tôi chịu nổi. Khi cô chạm tới vai tôi, thay vì đặt cánh tay trở lại vào lòng tôi, cô cầm nó lên quàng quanh cổ mình. Tôi nhấc cánh tay còn lại của mình lên gia nhập cùng nó, rồi Emma cũng quàng cánh tay ôm lấy tôi, trán chúng tôi tì vào nhau.
Emma thì thầm thật khẽ, “Tớ hy vọng cậu không hối hận về lựa chọn của cậu. Tớ rất vui vì cậu có mặt ở đây cùng bọn tớ. Tớ không biết tớ sẽ làm gì nếu cậu rời đi. Tớ sợ rằng tớ sẽ không ổn chút nào.”
Tôi đã nghĩ tới chuyện trở lại. Trong một khoảng khắc tôi đã thực sự cố hình dung ra nó trong đầu mình, xem sẽ thế nào nếu bằng cách nào đó tôi có thể chèo một trong những chiếc thuyền của chúng tôi trở lại hòn đảo, và quay về nhà.
Nhưng tôi không thể làm thế. Tôi không thể hình dung ra.
Tôi thì thầm, “Làm sao tớ có thể chứ?”
“Khi cô Peregrine trở lại hình người, cô ấy sẽ có thể giúp cậu trở về. Nếu cậu muốn ra đi.”
Câu hỏi của tôi không phải là về khả năng. Tôi chỉ đơn giản có ý: Làm sao tớ nỡ rời xa cậu chứ? Nhưng những lời đó không thể nói ra được, chúng không thể tìm được đường ra khỏi miệng tôi. Vậy là tôi giữ chúng lại trong tâm trí, và thay vì thế tôi hôn cô.
Lần này, đến lượt hơi thở Emma trở nên gấp gáp. Hai bàn tay cô đưa lên má tôi nhưng dừng lại, ngần ngại không chạm vào. Hơi nóng phả ra từng đợt từ tay cô.
“Chạm vào tớ đi,” tôi nói.
“Tớ không muốn làm cậu bỏng,” cô nói, nhưng một luồng lửa bùng cháy lên trong lồng ngực tôi liền nói: Mình không bận tâm, vậy là tôi cầm lấy các ngón tay cô và đưa chúng lướt đi trên má tôi, và cả hai chúng tôi cùng kêu lên thảng thốt. Thật nóng nhưng tôi không rụt lại. Tôi không dám, sợ rằng cô sẽ không chạm vào tôi nữa. Rồi sau đó môi chúng tôi lại gặp nhau, chúng tôi lại hôn nhau, và hơi âm diệu kỳ của cô lan đi trong tôi.
Đôi mắt tôi khép lại. Thế giới tan biến đi.
Cho dù cơ thể tôi đang lạnh cóng trong màn sương mù buổi tối, tôi cũng không hề cảm thấy điều đó. Cho dù biển đang gầm thét bên tai tôi, tôi cũng không hề nghe thấy. Cho dù tảng đá tôi ngồi sắc cạnh lởm chởm, tôi cũng hầu như không để ý tới. Mọi thứ bên ngoài hai chúng tôi đều chỉ là phù phiếm.
Rồi một tiếng va chạm mạnh vọng lại trong màn đêm, nhưng tôi không nghĩ gì tới nó - tôi không thể dứt mình khỏi Emma - cho tới khi âm thanh đó lặp lại kèm theo tiếng kim loại kêu ken két gai người, và một luồng sáng lóa mắt quét qua chúng tôi, và cuối cùng tôi không thể lờ nó đi thêm được nữa.
Ngọn hải đăng, tôi nghĩ. Ngọn hải đăng đã bị rơi xuống biển. Song ngọn hải đăng là một chấm sáng ở tít xa, không phải một luồng sáng chói lọi như mặt trời, và ánh sáng của nó chỉ di chuyển theo một chiều, chứ không quét qua quét lại tìm kiếm.
Đó không phải là ngọn hải đăng. Đó là một ngọn đèn pha - và nó chiếu tới từ mặt nước gần bờ.
Đó là đèn pha của một chiếc tàu ngầm.
***
Trong một giây kinh hoảng ngắn ngủi, liên lạc giữa bộ não và đôi chân bị cắt đứt. Đôi mắt và đôi tai tôi ghi nhận được chiếc tàu ngầm ở không xa bờ: con quái vật kim loại nhô lên trên mặt biển, nước ào ào chảy xuống từ hai bên sườn nó, đám người ào ào leo lên boong từ cái cửa sập mở tung, hò hét, chĩa những luồng sáng vào chúng tôi. Rồi sự kích thích tới được chân tôi và chúng tôi trượt, ngã, lao từ trên đống đá xuống và chạy thục mạng.
Ánh đèn hất bóng chúng tôi qua bãi biển, cao ba mét và trông rõ quái đản.
Một giọng nói vang lên từ loa. “DỪNG LẠI! KHÔNG ĐƯỢC CHẠY!”
Chúng tôi lao vào trong hang - Chúng đang tới, chúng đang ở đây, dậy, dậy đi - nhưng đám trẻ đã nghe thấy những tiếng động và đứng bật cả dậy - tất cả trừ Bronwyn, cô đã kiệt sức ngoài biển tới mức phải tựa vào vách hang ngủ thiếp đi và không tài nào dậy được. chúng tôi lay cô, hét vào mặt cô, nhưng cô chỉ làu bàu rồi vùng tay gạt chúng tôi ra. Cuối cùng, chúng tôi đành bám lấy eo cô dựng dậy, chẳng khác gì nâng một tòa thấp xây bằng gạch lên, nhưng khi hai bàn chân Bronwyn chạm đất, đôi mắt đỏ quạch của cô mở ra, và cô tự đứng lên.
Chúng tôi vơ vội lấy của nả của mình, giờ lại lấy làm mừng là chúng vừa nhỏ vừa ít. Emma ôm lấy cô Peregrine trong vòng tay. Chúng tôi ùa ra ngoài. Trong khi chúng tôi chạy vào các đụn cát, tôi trông thấy sau lưng chúng tôi một đám bóng người đang ì oạp lội qua những mét nước cuối cùng để lên bờ. Trong tay chúng, những khẩu súng được giơ lên cao quá đầu để giữ cho khô.
Chúng tôi cuống cuồng chạy qua một hàng cây đang bị gió thổi tung vào khu rừng không một lối mòn. Bóng tối bao trùm lấy chúng tôi. Phần ánh trăng còn lại chưa bị mây che khuất giờ bị những tán cây che kin nốt, những cành cây làm ánh trăng mờ nhạt tiêu biến hoàn toàn. Không có thời gian để mắt chúng tôi kịp thích nghi hay để chúng tôi cẩn thận lần mò tìm đường hay làm bất cứ điều gì khác ngoài chạy muốn đứt hơi, một đám người liên tục vấp dúi dụi, cánh tay dang ra, tránh né những thân cây dường như đột ngột hiện ra trong không khí chỉ cách chúng tôi gần chục phân.
Sau vài phút chúng tôi dừng lại, lồng ngực phập phồng, lắng nghe. Những giọng nói vẫn ở đằng sau chúng tôi, chỉ có điều giờ đây hòa cùng chúng còn một âm thanh khác: tiếng cho sủa.
Chúng tôi chạy tiếp.
Thành Phố Hồn Rỗng Thành Phố Hồn Rỗng - Ranson Riggs Thành Phố Hồn Rỗng