Bốn
ó một con rắn ẩn mình trong cỏ.
VIRGIL
Như tất cả mọi chuyện tốt cũng như xấu, cuối cùng thì việc này cũng kết thúc. Các hình nhân Solomon đưa Sarah tới quảng trường Grosvenor trên chiếc xe Rover của họ, còn O’Neal thì gọi một chiếc taxi, nhưng mãi xe mới đến, khiến ông ta có thêm thời gian để cười nhạo đồ đạc của tôi. Solomon thật thì ở lại để rửa mấy cái cốc, rồi sau đó gợi ý hai chúng tôi nên ra ngoài uống một chút bia ấm thơm ngon.
Mới chỉ năm giờ rưỡi, thế mà các quán bar đã đầy ắp bọn trai trẻ mặc vest và để ria lạc kiểu, kháo chuyện trên trời dưới biển. Chúng tôi xoay xở tìm được một bàn ở quán Thiên Nga Hai Cổ, nơi Solomon lục lọi ra hàng đống tiền lẻ từ hai túi quần. Tôi bảo tính nó vào chi phí công vụ, thế là anh ta bảo tôi lấy từ khoản ba mươi ngàn bảng của tôi ra mà trả. Chúng tôi tung đồng xu, và tôi thua.
“Thật biết ơn sự tốt bụng của ngài, ông chủ.”
“Uống nào, David.” Cả hai chúng tôi đều tu một hơi dài, rồi tôi châm một điếu thuốc.
Tôi chờ xem Solomon có gợi chuyện bằng vài lời nhận xét về những sự việc đã diễn ra hai mươi tư giờ vừa rồi không, nhưng có vẻ anh ta thấy hài lòng với việc chỉ ngồi đó lắng nghe một tụi cò nhà đất ở bàn bên bàn bạc về những hệ thống báo động trong xe. Anh ta cố làm cho tôi cảm thấy như thể ra đây ngồi là ý tưởng của tôi, mà tôi thì không có ý đó.
“David.”
“Thưa ngài.”
“Thế này có phải là thân hữu không?”
“Thân hữu?”
“Anh được người ta yêu cầu rủ tôi ra ngoài phải không? Vỗ vào lưng tôi, chuốc cho tôi say, tìm hiểu xem tôi có ngủ với Công nương Margaret không à?”
Solomon luôn bực dọc khi thấy người khác có những phát ngôn khinh thị Hoàng gia, đó chính là lý do tại sao tôi làm thế.
“Tôi được yêu cầu ở cạnh ngài,” cuối cùng thì anh ta nói. “Tôi nghĩ sẽ thú vị hơn một chút nếu chúng ta ngồi cùng bàn, thế thôi.” Dường như anh ta nghĩ điều đó đã trả lời câu hỏi của tôi.
“Thế chuyện gì đang diễn ra ở đây?” Tôi nói.
“Đang diễn ra?”
“Này David, nếu như anh cứ ngồi đó, tròn mắt ra, nhắc lại tất cả những gì tôi nói như thể anh sống cả đời trong truyện cổ tích ấy, thì buổi tối hôm nay sẽ chán tệ đấy.”
Im lặng một chút.
“Buổi tối chán tệ?”
“Thôi nào, im đi. Anh biết tôi mà, David.”
“Tôi quả thực có đặc ân đó.”
“Tôi có thể thượng vàng hạ cám thật, nhưng tôi chắc chắn không phải là một sát thủ.”
“Kinh nghiệm lâu năm trong vấn đề này,” anh ta uống thêm một hơi bia dài rồi chẹp môi, “đã cho tôi thấy, thưa ông chủ, rằng tất cả mọi người chắc chắn đều không phải sát thủ, cho tới khi họ trở thành sát thủ.”
Tôi nhìn anh ta một thoáng.
“Tôi sắp chửi thề đây, David.”
“Nếu như ngài muốn.”
“Cái câu chết tiệt đó nghĩa là gì thế?”
Bọn buôn bất động sản đã bàn sang chủ đề ngực phụ nữ,từ đó họ moi ra được bao nhiêu chuyện hài hước. Nghe họ nói, tôi có cảm giác mình già đi những một trăm bốn chục tuổi.
“Giống như những tay chủ nuôi chó ấy,” Solomon nói. “Họ bảo, ‘chó của tôi không cắn ai cả’. Cho tới một ngày họ thấy mình nói ‘ồ, nó chưa từng làm thế trước kia’. ”
Anh ta nhìn tôi và thấy tôi đang cau mày. “Điều tôi muốn nói là, chẳng có ai thực sự biết ai. Bất kỳ người nào hoặc bất kỳ con chó nào. Không thực sự hiểu hết được.”
Tôi dằn mạnh cốc xuống bàn.
“Chẳng ai thực sự biết ai? Ấn tượng đấy. Ý anh là bất chấp việc chúng ta đã đi guốc trong bụng nhau suốt hai năm nay, anh vẫn không biết tôi có thể giết người để lấy tiền hay không?” Thú thực là lúc đó tôi hơi nổi nóng. Còn bình thường tôi không mấy khi nổi nóng.
“Thế ngài nghĩ là tôi có thể biết không?” Solomon hỏi. Nụ cười bỡn cợt vẫn trên miệng.
“Tôi có nghĩ rằng anh có thể giết người lấy tiền không á? Không, tôi không nghĩ thế.”
“Chắc không?”
“Chắc.”
“Thế ngài là thằng đần rồi, thưa ngài. Tôi đã giết một người đàn ông và hai mụ đàn bà.”
Tôi biết điều đó. Tôi cũng biết nó ảnh hưởng như thế nào tới anh ta.
“Nhưng không phải vì tiền,” tôi nói. “Không phải là ám sát.”
“Tôi là một bầy tôi của Hoàng gia, thưa ông chủ. Chính phủ trả tiền nhà cho tôi. Dù ngài nhìn nhận chuyện đó kiểu gì, và hãy tin tôi, tôi đã nhìn nó theo nhiều cách khác nhau, cái chết của ba con người đó đã mang lại bát cơm cho tôi. Uống thêm cốc nữa nhé?”
Trước khi tôi nói được gì, anh ta đã cầm cốc của tôi mà đi về phía quầy.
Khi nhìn anh ta đi xuyên qua mấy tay buôn bất động sản, tôi chợt nghĩ về những trò cao bồi và da đỏ mà Solomon và tôi đã chơi cùng nhau ở Belfast.
Những ngày vui vẻ, chỉ loáng thoáng có vài tháng tệ hại.
Đó là năm 1986, và Solomon có giấy gọi, cùng với chục người khác từ Lực lượng Cảnh sát Đặc biệt Đô thành, bổ sung tạm thời vào Cảnh sát Hoàng gia Ireland vốn khá là chó chết. Anh ta đã sớm chứng tỏ mình là người duy nhất trong nhóm xứng đáng có vé máy bay, bởi vậy tới cuối khóa một vài tay lão luyện vốn cực kỳ khó tính đã yêu cầu anh ta ở lại thử sức với quân đội trung thành của Hoàng gia, và anh ta nhận lời.
Cách đó nửa dặm, trong mấy căn phòng phía trên Đại lý Du lịch Tự do, tôi đang phục vụ năm cuối trong tám năm quân ngũ và được biệt phái tới một đơn vị được đặt tên khá sành điệu là GR24, một trong rất nhiều đơn vị tình báo vẫn từng ganh đua trong lĩnh vực thương mại ở Bắc Ireland, và có lẽ bây giờ vẫn thế. Những bạn đồng ngũ với tôi hầu hết là cựu học sinh Eton, họ đeo cà vạt khi tới sở và thường bay tới các bãi săn gà gô trắng Scotland vào cuối tuần, tôi thấy mình càng ngày càng có nhiều thời gian hơn với Solomon, chủ yếu là khi đợi trong xe ô tô với bộ sưởi không hoạt động.
Nhưng đôi khi chúng tôi cùng ra ngoài làm cái gì đó hữu ích, và trong khoảng chín tháng làm việc cùng nhau, tôi đã thấy Solomon làm rất nhiều việc dũng cảm và phi thường. Anh ta đã lấy đi ba mạng sống, nhưng lại cứu hàng chục mạng khác, kể cả tôi. Bọn cò nhà đất đang cười cợt cái áo mưa màu nâu của anh ta.
“Woolf là một tay đểu, ngài biết không,” anh ta nói.
Chúng tôi đã tới cốc thứ ba, và Solomon đã cởi nút áo trên cùng. Hẳn tôi cũng làm thế nếu có một chiếc như vậy. Quán giờ đã thưa hơn, vì người ta đã về nhà với vợ con, hoặc đi xem phim. Tôi châm điếu thuốc không biết thứ bao nhiêu trong ngày.
“Bởi vì ma túy?”
“Bởi vì ma túy.”
“Có gì khác không?”
“Có cần thiết phải có gì khác không?”
“Ừm, có.” Tôi nhìn sang Solomon. “Cần có cái gì đó khác chứ, nếu không thì đội Chống Ma túy đã lo vụ này rồi. Ông ta đã làm gì liên quan tới bọn anh thế? Hay là dạo này chẳng có việc gì làm nên các anh vơ bèo gạt tép?”
“Tôi chưa từng nói từ nào về chuyện đó.”
“Tất nhiên là anh chưa nói.”
Solomon ngừng lại, cân đong từ ngữ và hiển nhiên là đang tìm một vài từ khá nặng.
“Một người rất giàu có, một nhà tư bản, tới đất nước này mà nói ông ta muốn đầu tư ở đây. Bộ Công thương mời ông ta một cốc rượu và đưa mấy quyển thông tin bìa bóng, rồi ông ta bắt tay vào việc. Ông ta bảo họ, ông ta muốn sản xuất một loạt kết cấu kim loại và nhựa và hỏi nếu xây dựng nửa tá nhà máy ở Scotland và Đông Bắc Anh quốc thì có được không? Một đôi người ở Bộ Thương mại vì phấn khích quá đã đề nghị trợ cấp cho ông ta hai trăm triệu bảng và một suất đỗ xe ở Chelsea. Tôi không chắc là cái nào có giá hơn.”
Solomon nhấp thêm một chút bia rồi lấy mu bàn tay quệt miệng. Anh ta đang rất tức giận.
“Thời gian trôi đi. Tiền trong séc thì đã rút rồi, các nhà máy đã được xây dựng, và chuông điện thoại reo ở khu chính phủ nhà ta. Đó là một cuộc gọi quốc tế, từ Washington. Liệu chúng tôi có biết trước rằng một nhà tư bản kếch xù vốn sản xuất các thứ đồ nhựa lại cũng buôn bán một lượng lớn thuốc phiện từ châu Á không ư? Trời ạ, không, chúng tôi không biết điều đó, cảm ơn rất nhiều đã cho chúng tôi biết, xin gửi tình cảm sâu sắc tới bà nhà và các cháu. Kinh hãi. Nhà công nghiệp giàu có hiện đang ngồi trên một núi tiền của chúng ta và đang sử dụng ba nghìn lao động là công dân của chúng ta.”
Đến lúc này, Solomon có vẻ hụt hơi, như thể nỗ lực kiềm chế cơn nóng giận là quá sức với anh ta. Nhưng tôi không thể chờ thêm.
“Bởi vậy?”
“Bởi vậy một hội đồng bao gồm những ông và những bà không hẳn là thông minh lắm đã chụm những cái đầu bự chảng của họ lại với nhau định ra những phương án hành động khả thi. Danh sách đó bao gồm không làm gì cả, không làm gì cả, không làm gì cả, hoặc gọi 999 yêu cầu cảnh sát. Điều duy nhất mà họ chắc chắn là họ không thích phương án cuối cùng.”
“Còn O’Neal...?”
“O’Neal nhận việc đó. Theo dõi. Ngăn chặn. Giảm thiểu tổn thất. Gọi nó bằng cái tên bỡn cợt nào cũng được, nếu ngài thích.” Đối với Solomon, “bỡn cợt” là một từ mạnh. “Tất nhiên là chẳng hành động nào trong số đó đụng chạm tí ti gì đến Alexander Woolf.”
“Tất nhiên không rồi,” tôi nói. “Giờ Woolf đang ở đâu?” Solomon liếc nhìn đồng hồ.
“Vào lúc này ông ta đang ngồi ghế số 6C trên một chiếc 747 của Hàng không Anh quốc từ Washington tới Luân Đôn. Nếu sành ăn, có thể ông ta đã chọn thịt bò Wellington. Cũng có thể ông ta là người thích cá, nhưng tôi nghi ngờ điều đó.”
“Phim thì là phim gì?”
“Khi em đang ngủ.”
“Tôi bị ấn tượng đấy,” tôi nói.
“Cái thú vị là ở các chi tiết, thưa ông chủ. Không phải vì một việc nào đó vốn dĩ chẳng ra gì mà chúng ta buộc phải làm nó một cách chẳng ra gì.”
Chúng tôi hớp thêm chút bia trong yên lặng đầy dễ chịu. Nhưng tôi phải hỏi anh ta.
“Này David.”
“Xin cứ sai bảo, ông chủ.”
“Phiền anh giải thích tại sao tôi lại dính vào tất cả chuyện này?” Anh ta nhìn tôi bằng vẻ như sắp bảo “ngài giải thích chotôi thì có” cho nên tôi vội tiếp. “Ý tôi là, ai muốn ông ta chết, và sao lại phải làm ra vẻ tôi là kẻ ra tay?”
Solomon uống cạn cốc bia.
“Tại sao thì không biết,” anh ta nói. “Còn về ai, chúng tôi nghĩ có thể là CIA.”
Suốt đêm tôi trở mình trằn trọc, lật qua lật lại, dậy hai lần để thu băng những đoạn độc thoại ngu xuẩn về tình huống hiện tại với cái máy thu âm tiết kiệm tiền thuế của tôi. Trong toàn bộ chuyện này, có những cái làm tôi lo lắng, lại có những cái khiến tôi sợ hãi, nhưng Sarah Woolf thì cứ xuất hiện mãi trong đầu tôi và chẳng chịu rời đi.
Tôi không yêu cô ấy, anh hiểu chứ. Làm sao có thể thế được? Rốt cuộc thì tôi cũng chỉ có vài giờ cùng với cô và chẳng phải trong hoàn cảnh thoải mái gì. Không. Chắc chắn là tôi không yêu cô. Phải có gì nhiều hơn một cặp mắt sáng màu xám và một mớ tóc nâu sẫm bồng bềnh mới cuốn hút được tôi.
Vì Chúa.
Đúng chín giờ sáng hôm sau tôi thắt cà vạt Garrick, cài nốt cúc áo, và đúng chín rưỡi tôi nhấn chuông quầy hướng dẫn tại Ngân hàng Nhà nước Westminster ở Swiss Cottage. Tôi không có kế hoạch hành động rõ ràng trong đầu, nhưng tôi nghĩ biết đâu tới gặp trực tiếp ông giám đốc ngân hàng lần đầu tiên trong vòng mười năm lại giúp tôi phấn chấn hơn, cho dù số tiền trong tài khoản không phải của tôi.
Tôi được chỉ vào một phòng đợi bên ngoài văn phòng giám đốc, và người ta cho tôi một cốc cà phê bằng nhựa quá nóng để uống cho tới khi, chỉ trong khoảng một phần trăm giây, nó đột ngột trở nên quá nguội. Tôi đang cố đổ hết vào một cái cây nhựa ở đằng sau thì một cậu-trai-chín-tuổi với mái tóc màu nghệ thò đầu ra khỏi cửa, ra hiệu cho tôi vào, rồi tự giới thiệu mình là Graham Halkerston, Giám đốc chi nhánh.
“Tôi có thể làm gì cho ông, ông Lang?” Anh ta nói, yên vị sau chiếc bàn trẻ trung, sơn màu nghệ.
Tôi tạo cái tư thế mà tôi nghĩ là ra điều mình có việc rất ư quan trọng trên chiếc ghế đối diện anh ta, đoạn vuốt thẳng cà vạt.
“À, thưa ông Halkerston,” tôi nói, “tôi muốn tìm hiểu về sốtiền gần đây được chuyển vào tài khoản của tôi.”
Anh ta liếc xuống tờ giấy mới được in ra trên bàn. “Có phải là số tiền được gửi hôm mồng 7 tháng Tư?”
“Mồng 7 tháng Tư,” tôi nhắc lại một cách cẩn trọng, cố không để nó lẫn lộn với những khoản thanh toán ba mươi ngàn bảng khác mà tôi nhận được tháng đó. “Vâng,” tôi nói. “Có vẻ là cái đó.”
Anh ta gật đầu.
“Hai mươi chín ngàn, bốn trăm mười một bảng và bảy mươi sáu xu. Ông có định chuyển tài khoản không, ông Lang? Bởi vì chúng tôi có rất nhiều tài khoản với mức lãi suất cao hơn có thể phù hợp với nhu cầu của ông.”
“Nhu cầu của tôi?”
“Vâng. Dễ dàng truy cập, lãi suất cao, sáu mươi ngày điểm thưởng, tùy ông chọn.”
Nghe một người nói những cụm từ đó cứ thấy lạ lạ kiểu gì ấy. Cho tới giờ phút ấy trong đời, tôi mới chỉ thấy những thứ như thế trên các biển quảng cáo.
“Tuyệt,” tôi nói. “Tuyệt. Ông Halkerston, hiện thời nhu cầu của tôi chỉ đơn giản là nhờ ông giữ số tiền đó trong một căn phòng với một chiếc khóa ra trò trên cửa.” Anh ta bần thần nhìn tôi. “Tôi muốn biết nguồn gốc số tiền được chuyển.” Mặt anh ta chuyển từ bần thần sang ngay đơ ra. “Ai chuyển cho tôi số tiền đó, ông Halkerston?”
Tôi nhận ra rằng những khoản giúp đỡ hảo tâm không phải là chuyện thường gặp trong giao dịch ngân hàng, và mất một lúc thẫn người, rồi sau đó giấy tờ sột soạt một chút, rồi Halkerston mới trở lại bình thường.
“Việc thanh toán thực hiện bằng tiền mặt,” anh ta nói, “bởi vậy tôi không có thông tin về nơi chuyển. Nếu ông có thể đợi một chút, tôi sẽ sao cho ông phiếu thanh toán.” Anh ta nhấn nút thoại nội bộ và gọi Ginny, người này hối hả mang một tập tài liệu vào. Trong khi Halkerston lật giở, tôi phải tự hỏi làm sao Ginny có thể giữ được đầu ngẩng lên dưới sức nặng của các thứ mỹ phẩm quét trên mặt như vậy. Có thể sâu bên dưới chúng cô ta cũng khá xinh đẹp. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết được.
“Đây rồi,” Halkerston nói. “Tên của người thanh toán không được điền vào, nhưng có chữ ký. Offer. Hoặc có thể là Offee. T Offee, đúng thế.”
Phòng xử án của Paulie nằm ở Middle Temple, mà tôi nhớ rằng anh ta nói ở đâu đó gần đường Fleet, và cuối cùng tôi đã tới được đó nhờ sự trợ giúp của một chiếc taxi màu đen. Đó không phải là phương tiện đi lại thường xuyên của tôi, nhưng trong lúc ở ngân hàng tôi đã quyết định rút vài trăm bảng trong số tiền trả bằng máu của mình để chi tiêu thì cũng chẳng hại gì.
Paulie đang trong phiên tòa xử một vụ tông-xe-rồi-chạy, đóng vai trò má-phanh-người trong cái bánh xe công lý, bởi vậy tôi không được vào phòng xử án của Milton Crowley Spencer. Thay vào đó tôi phải trả lời những cật vấn của người thư ký về “vấn đề” của tôi và tới khi ông ta kết thúc chuyện đó tôi thấy còn chán thậm tệ hơn bất kỳ lần nào tôi phải đi khám hoa liễu.
Thế không có nghĩa là tôi đã đi khám hoa liễu nhiều lần đâu.
Vượt qua bài kiểm tra sơ bộ, tôi được phép ngồi cho hạ nhiệt tại một phòng chờ để đầy các số cũ của tờ Expressions, tập san dành cho người dùng thẻ tín dụng của American Express. Bởi vậy tôi cứ ngồi đó đọc về những nhà tạo mẫu quần có tiếng ở phố Jermyn, những người dệt tất ở Northampton, những người làm mũ ở Panama, và khả năng Kerry Packer sẽ giành giải Vô địch Polo Veuve Cliquot ở câu lạc bộ Smith’s Lawn năm nay thế nào, và hầu như đọc qua tất cả những tin nổi bật, cho tới khi người thư ký quay lại và nhướng mắt vẻ sỗ sàng vài lần với tôi.
Tôi được dẫn vào một căn phòng rộng lát gỗ sồi có những giá treo tranh “Nữ hoàng và phần còn lại của thế giới” trên ba mặt tường, và một dãy tủ gỗ dọc theo bức tường thứ tư. Có một bức ảnh trên bàn chụp ba thiếu niên, trông như được cắt ra từ một cuốn catalogue, cạnh đó là một bức ảnh ký tên Denis Thatcher. Tôi đang nghiền ngẫm cái sự thật kỳ quặc rằng cả hai bức ảnh đều hướng ra ngoài cái bàn đó thì một cánh cửa phụ mở ra và Spencer đột ngột xuất hiện.
Và đó là một sự xuất hiện ấn tượng. Ông ta là một phiên bản của Rex Harrison nhưng cao hơn, với mái tóc màu xám, kính bán nguyệt và một cái áo trắng lôm lốp chắc hẳn là tốn nhiều điện nước lắm. Quả thực tôi không nhìn thấy ông ta hẹn giờ đồng hồ khi ngồi xuống.
“Ông Fincham, xin lỗi làm ông phải chờ, mời ông ngồi.”
Ông ta ra hiệu quanh phòng, như bảo tôi chọn, nhưng ở đó chỉ có duy nhất một chiếc ghế. Tôi vừa ngồi xuống thì đã phải đứng phắt lên bởi vì cái ghế kêu kẽo kẹt như thể gỗ đang bị nứt ra. Tiếng kêu rất to, nghe quằn quại khổ sở đến nỗi tôi tưởng như người đi ngoài phố thảy đều dừng lại, đang ngóng lên cửa sổ, phân vân không biết có nên gọi cảnh sát không. Spencer thì dường như không để ý điều đó.
“Tôi không nghĩ là đã gặp ông ở câu lạc bộ,” ông ta nói, nở nụ cười đắt giá.
Tôi lại ngồi xuống, mặc chiếc ghế gào thét lần nữa, loay hoay tìm thế ngồi khả dĩ giúp cuộc nói chuyện của chúng tôi ít nhiều to hơn tiếng gỗ kêu.
“Câu lạc bộ?” Tôi hỏi, rồi nhìn xuống khi ông ta ra dấu về cái cà vạt của tôi.
“À, ý ông là câu lạc bộ Garrick hả?”
Ông ta gật đầu, vẫn cười cười.
“Ồ, không,” tôi nói, “tôi không thường xuyên lên phố như ý muốn.” Tôi phẩy tay ra vẻ ngụ ý về khoảng vài ngàn mẫu Anh ở Wiltshire cùng vô số chó săn. Ông ta gật đầu, như thể hình dung được chính xác chỗ đó, và có thể sẽ ghé vào ăn trưa nếu lần sau đi ngang qua.
“Giờ thì,” ông ta nói, “tôi có thể giúp gì cho ông nào?”
“À, chuyện này khá tế nhị...” Tôi bắt đầu.
“Ông Fincham,” ông ta nhẹ nhàng ngắt lời, “nếu như có một ngày các thân chủ tới gặp tôi mà nói rằng cái chuyện khiến ông ta hoặc bà ta cần đến lời khuyên của tôi là không tế nhị, thì lúc đó tốt nhất là tôi nên cởi áo xin về vườn.” Từ vẻ mặt ông ta, tôi có thể thấy là ông ta trông chờ tôi tiếp thu điều ấy như một lời nhận xét dí dỏm. Tất cả những gì tôi nghĩ được là câu ấy có lẽ đã làm tôi tốn mất ba mươi bảng.
“Ồ, thật thú vị,” tôi nói, để ra vẻ mình đã cảm được câu đùa. Chúng tôi cười thoải mái với nhau. “Vấn đề là,” tôi tiếp tục, “một người bạn của tôi gần đây có nói với tôi rằng ông đã hết sức nhiệt tình khi tiến cử cho ông ta vài người có những kỹ năng đặc biệt.”
Có một khoảng lặng, như tôi đã dự đoán trước. “Tôi hiểu rồi,” Spencer nói. Nụ cười của ông ta từ từ tắt dần, cặp kính được tháo xuống, và cái cằm vênh lên năm độ. “Liệu tôi có hân hạnh được biết tên người bạn của ông không?”
“Tôi không nên nói ra vào lúc này. Ông ta bảo tôi rằng ông ta cần... kiểu như là vệ sĩ, một người có thể được dùng cho một số nhiệm vụ bất thường, và ông đã cho ông ta vài cái tên.”
Spencer ngả người ra sau ghế dò xét tôi. Từ đầu tới chân. Tôi có thể nói rằng cuộc phỏng vấn đã kết thúc và giờ là lúc ông ta quyết định nói với tôi theo cách nhã nhặn nhất. Một lúc sau, ông ta từ từ hít một hơi qua cái mũi được chế tác khá đẹp của mình.
“Có thể là,” ông ta nói, “ông đã hiểu lầm những dịch vụ mà chúng tôi phục vụ tại đây, thưa ông Fincham. Chúng tôi là một công ty luật. Luật sư. Chúng tôi tranh tụng trước tòa. Đó là chức năng của chúng tôi. Và tôi nghĩ đây chính là chỗ khởi đầu những rối rắm, chúng tôi không phải trung tâm giới thiệu việc làm. Nếu như bạn của ông hài lòng với sự phục vụ ở đây thì tôi rất vui. Nhưng tôi hy vọng và tin tưởng rằng đó là việc liên quan đến tư vấn luật nhiều hơn là giới thiệu người làm.” Từ miệng ông ta chữ “người làm” nghe đầy vẻ khó chịu. “Xem chừng tốt hơn là ông hãy liên lạc với bạn của mình để bảo đảm cho chắc về những thông tin ông muốn có?”
“Đó chính là vấn đề đấy,” tôi nói. “Bạn tôi đã đi xa rồi.” Ngừng một chút rồi Spencer chầm chậm chớp mắt. Có cái gì đó là lạ, xấc xược trong cái chớp mắt từ từ đó. Tôi biết thế, bởi vì bản thân tôi cũng từng làm thế.
“Ông cứ tự nhiên sử dụng điện thoại trong phòng thư ký.”
“Ông ấy không để lại số.”
“Chúa ơi, ông Fincham, thế thì khó cho ông rồi. Giờ nếu ông thứ lỗi...” Ông ta đưa cặp kính lại lên mũi rồi chăm chú đọc những giấy tờ trên bàn.
“Bạn tôi muốn có một ai đó sẵn sàng giết người,” tôi nói.
Cặp kính lại được gỡ ra, cái cằm lại hất lên. “Vậy đó.”
Một khoảng lặng dài.
“Vậy đó,” ông ta lại nói. “Đó là một hành vi phạm pháp, và chắc chắn ông ta không thể nhận được bất kỳ trợ giúp nào từ nhân viên của hãng này, thưa ông Fincham...”
“Ông ta đảm bảo với tôi rằng ông đã giúp đỡ...”
“Ông Fincham, tôi nói thẳng nhé.” Giọng nói đã trở nên đanh thép đáng kể, và tôi chợt nhận ra rằng sẽ rất thú vị khi được xem ông Spencer trước tòa. “Trong đầu tôi chợt dấy lên hoài nghi rằng có thể ông đang đóng kịch ở đây để nhử người khác sập bẫy.” Ông ta phát âm từ đó, “agent provocateur” với ngữ điệu Pháp rất tự tin, không chê vào đâu được. Ông ta có một căn biệt thự ở Provence mà. “V ì động cơ gì thì tôi không rõ,” ông ta tiếp tục. “Tôi cũng không hứng thú lắm. Tuy thế, tôi từ chối nói thêm bất cứ điều gì nữa với ông.”
“Trừ phi ông tới cùng với một luật sư.”
“Chúc ông một ngày tốt lành, ông Fincham.” Ông ta lại đeo kính lên.
“Bạn tôi nói rằng ông đã thực hiện việc thanh toán cho nhân viên mới của ông ấy.”
Không có câu trả lời. Dẫu biết rằng sẽ không lấy thêm được câu trả lời nào nữa từ Spencer, nhưng tôi nghĩ cứ tiếp tục gia tăng sức ép xem sao. “Bạn tôi nói rằng tự ông ký cuống séc,” tôi nói. “Tự tay ông.”
“Ông làm tôi chóng mệt với những thông tin về ông bạn của ông quá, thưa ông Fincham. Tôi xin lặp lại, chúc ông một ngày tốt lành.”
Tôi đứng dậy đi về phía cửa. Cái ghế gào lên vì được giải thoát.
“Thế lời đề nghị về vụ gọi điện thoại vẫn còn giá trị đấy chứ?”
Ông ta vẫn không ngẩng lên.
“Chi phí cuộc gọi sẽ được tính vào hóa đơn của ông.”
“Hóa đơn gì?” Tôi nói. “Ông chẳng cho tôi cái gì cả.”
“Tôi đã cho ông thời gian của tôi, ông Fincham. Còn nếu ông không muốn sử dụng nó, đó hoàn toàn là vấn đề của ông.”
Tôi mở cửa.
“Dù sao cũng cảm ơn ông, ông Spencer. Mà này...” Tôi chờ cho tới khi ông ta ngẩng lên. “Có một số kẻ ở Garrick nói xấu là ông chơi bài brít ăn gian. Tôi đã nói với những người ở đó rằng đấy chỉ là những chuyện rác rưởi vô lý, nhưng ông biết những chuyện kiểu đó mà. Bọn họ đã có sẵn những ý nghĩ như thế trong đầu. Tôi nghĩ là ông nên biết chuyện ấy.”
Thảm hại. Nhưng tất cả những gì tôi nghĩ được lúc đó chỉ có thế.
Cảm thấy tôi không phải là một người quá đỗi tử tế, gã thư ký đã cảnh báo tôi, một cách cáu cẳn, rằng hãy chờ hóa đơn thanh toán dịch vụ gửi tới nhà trong vài ngày tới.
Tôi cảm ơn sự tốt bụng của ông ta và quay về phía cầu thang. Trong lúc làm thế, tôi thấy có ai đó nữa đang bước cùng lối với tôi qua những số cũ của tờ Expressions, tập san của những người dùng thẻ American Express.
Những người đàn ông béo lùn mặc vest xám: phạm trù này rất rộng.
Những người đàn ông béo lùn mặc vest xám mà tôi đã từng nắm bìu dái tại quầy rượu một khách sạn ở Amsterdam: phạm trù này rất hẹp.
Nhỏ xíu, đúng ra là thế.
Tay Lái Súng Đa Cảm Tay Lái Súng Đa Cảm - Hugh Laurie Tay Lái Súng Đa Cảm