Chương 4 - Quán Rượu Hốc Tường
rong khi Jenna ngồi đọc chương Mười ba thì Septimus Heap, Học Trò của Pháp sư Tối thượng cũng bất chợt nảy ra ý muốn đọc cái thứ mà nó không hề định đọc. Bà Marcia Overstrand, Pháp sư Tối thượng của Lâu Đài tạm thời đành rút lui khỏi trận cãi vã trong bếp giữa bình cà phê và bếp lò. Bực điên người, bà bỏ mặc chúng đó để đi kiểm tra cậu Học Trò của mình. Bà tìm thấy thằng nhỏ trong thư viện Kim Tự Tháp, đang lặn hụp trong một chồng sách giáo khoa cũ rách tơi tả.
“Chính xác là con đang làm gì thế?” Bà Marcia tra hỏi.
Septimus giật thót mình tẽn tò đứng lên, vội đẩy tập giấy xuống dưới quyển sách mà đáng lý ra nó phải đang đọc. “Không làm gì ạ,” nó láp váp.
“Đó chính xác là điều ta nghĩ con đang làm,” bà nghiêm khắc. Bà dò xét thằng Học Trò, cố gắng, nhưng xem ra không thành công, giữ vẻ nghiêm nghị. Trong ánh mắt xanh lá cây thông minh của Septimus thoáng có nét hoảng hốt và mái tóc quăn màu rơm của nó rối bù, theo kiểu bà Marcia biết là tại nó xoắn vặn tóc trong khi tập trung. “Để phòng trường hợp nó đã thoát khỏi trí nhớ của con rồi, ta nhắc là con phải ôn tập để kiểm tra Thực hành Tiên tri vào sáng mai đấy. Đừng phí phạm thời gian đọc cái đống cũ rích năm trăm năm đó nữa.”
“Không phí phạm đâu ạ,” Septimus phản bác. “Nó…”
“Ta biết nó rõ mười mươi nó là cái gì. Ta đã dặn con hoài. Giả Kim Thuật(3) là đồ nhảm nhí và hoàn toàn mất thời gian. Thà con đi luộc vớ của con rồi chờ chúng biến thành vàng còn hơn.”
(3) Giả Kim thuật có lịch sử hàng mấy nghìn năm, ảnh hưởng sâu sắc đến khoa học kỹ thuật cũng như đời sống loài người thời cổ. Theo đó, người Hy Lạp và người Ả Rập cổ thì cố công luyện kim loại thường thành vàng, trong khi người Trung Quốc lại cố luyện đan, tìm kiếm thuốc trường sinh bất lão –ND.
“Nhưng con không đọc về Giả Kim thuật,” Septimus phản đối. “Con đọc về Y thuật.”
“Có khác gì nhau,” bà Marcia nói. “Là Marcellus Pye chứ gì?”
“Dạ phải. Ông ấy giỏi lắm.”
“Lão ấy chẳng ích lợi gì hết, Septimus.” Bà Marcia lần xuống dưới quyển Những Nguyên lý Tthực hành Tiên tri Cơ bản mà Septimus vừa luýnh quýnh đặt lên trên cùng, và rút ra một thếp giấy vàng vọt, bở bùng bục đầy những dòng chữ cụt lủn, mờ mịt. “Ái chà chà. Đây chỉ là những ghi chú của lão ấy thôi.”
“Con biết. Tiếc là quyển sách của ông ấy đã biến mất.”
“Hừmm. Đến giờ con phải đi ngủ rồi. Ngày mai còn dậy sớm nữa. Đúng bảy giờ bảy phút, không chậm một giây. HIểu chứ?”
Septimus gật đầu.
“Ừ, thế thì đi đi.”
“Nhưng, thưa bà Marcia…”
“Hả?”
“Con thật sự mê thích Y thuật. Mà Marcellus lại kiệt xuất nhất về nó. Ông ấy biết tất cả các loại thuốc và những phương pháp trị bệnh hữu dụng, ông ấy cũn ghiểu rõ tại sao con người mắc bệnh. Bà nghĩ con có thể học về nó được không?”
“Không,” bà Marcia thẳng thừng. “Con không cần nó, Septimus. Pháp thuật có thể làm được tất cả những gì Y thuật làm.”
“Nhưng nó không chữa được dịch bệnh,” Septimus bướng bỉnh.
Bà Marcia dẩu môi. Septimus không phải là người đầu tiên chỉ ra điều này. “Được chứ,” bà khăng khăng. “Chữa được mà. Ta chỉ phải nghiên cứu thôi… Cái gì thế?” Một tiếng xoảng chói tai vọng tới từ nhà bếp cách hai tầng lầu bên dưới và bà Marcia vọt biến đi.
Septimus thở dài. Nó cất xấp giấy của Marcellus trở vào chiếc hộp cũ nó đã tìm thấy trong xó bụi, thổi tắt nến và xuống lầu đi ngủ.
Septimus ngủ chập chờn. Cả tuần nay đêm nào nó cũng mơ đúng cơn ác mộng về kỳ kiểm tra đó, và đêm nay cũng không ngoại lệ. Nó mơ thấy mình thi trượt, bị bà Marcia đuổi bắt, và ngã vào một ống khói, rơi xuống, rơi, rơi mãi… Nó cố tóm víu vách tường để ngừng rơi nhưng vẫn cứ rơi… rơi… rơi… vô tận.
“Vật nhau với chăn mền hả, Septimus?” Một giọng quen thuộc cất vang vang từ ống khói. “Trông như con đánh mất cái gì vậy,” vẫn giọng nói đó kèm theo tiếng cười khà. “Đắp tới hai cái mền là chẳng thông ming đâu, chàng trai. Một còn được, chứ hai thì thảo nào chúng kéo bè ăn hiếp con. Cái lũ chăn mền ác ôn.”
Septimus cố bứt mình ra khỏi giấc mơ và ngồi dậy, thở dốc trong luồng không khímua2 thu lạnh ngắt đã theo ngài Alther Mella vào phòng qua đường cửa sổ.
“Con ổn chứ?” Ngài Alther lo lắng hỏi. Con ma ngồi thoải mái xuống giường Septimus.
“É… é… gì ạ?” Septimus lúng búng, khó nhọc tập trung vào hình hài hơi trong suốt, nhẹ bâng của ngài Alther Mella, cựu Pháp sư Tối thượng, vị khách quen của tháp Pháp sư. Không khó nhìn thấy ngài Alther như mấy con ma già trong Lâu Đài, nhưng đêm đến, lớp áo thụng màu tía đã phai của ngài rất dễ nhòa tan vào cảnh vật, và ánh sáng lù mù càng khiến ta khó thấy vệt máu màu nâu sậm nơi tim của ngài, cái vệt máu mà Septimus luôn bị hút mắt vào, bất chấp nó có cố cưỡng lại thế nào đi chăng nữa. Đôi mắt xám xanh lá cây già nua của ngài Alther nhìn đứa Học Trò cưng của mình với vẻ điềm tĩnh và hiền từ.
“Lại ác mộng đó à?” Ngài Alther hỏi thăm.
“Ừm. Dạ phải,” Septimus thú nhận.
“Lần này con có nhớ dùng bùa Khinh Công không?”
“Không ạ. Có lẽ lần sau con sẽ nhớ. Có điều con hy vọng đừng có lần sau nữa.. Thật là một giấc mơ khủng khiếp.” Septimus rùng mình kéo một trong những tấm mền khó bảo lên tận cằm.
“À… àm. Giấc mơ đến với chúng ta đều có lý do cả. Có khi thì nó báo cho ta về điều ta cần biết,” ngài Alther đăm chiêu, trôi lều phều lên khỏi gối và duỗi thẳng người ra cùng với tiếng rên rẩm của ma. “Nào, ta nghĩ có lẽ con sẽ thích một chuyến đi ngắn xuống nơi mà ta biết là không xa đây lắm.”
Septimus ngáp. “Nhưng còn bà Marcia thì sao?” Nó hỏi với giọng ngái ngủ.
“Bà Marcia lại tái phát cơn nhức đầu nữa rồi,” ngài Alther bảo. “Ta cả hiểu sao cô ấy mất công đi nổi tam bành với cái bình cà phê ngang ngược đó. Phải ta thì ta vứt quách nó đi từ lâu rồi. Cô ấy ngủ rồi nên không cần quấy rầy cô ấy. Vả lại, chúng ta sẽ trở về trước khi cô ấy biết chúng ta đã đi.”
Septimus không muốn ngủ tiếp, sợ lại mơ nữa. Nó lảo đảo ra khỏi giường và khoác chiếc áo chẽn Học Trò bằng len- được xếp ngay ngắn ở thành giường đúng cách như nó để đồng phục Thiếu sinh quân hàng đêm trong suốt mười năm đầu đời của nó- và thắt đai lưng bạc của Học Trò vào.
“Sẵn sàng chưa?” Ngài Alther hỏi.
“Sẵn sàng,” Septimus đáp. Nó hướng ra cửa sổ mà ngài Alther đã khiến cho mở lúc ngài tới. Leo lên bậu cửa sổ thông thổng bằng gỗ và đứng hẳn trong khung cửa sổ mở, nhìn xuống kkhoảng không dựng đứng hai mươi mốt tầng, một việc mà cách đây vài tháng trong mơ nó cũng không dám làm, bởi vì nó vốn sợ độ cao. Nhưng bây giờ Septimus không còn sợ nữa, căn nguyên là nhờ cái vật mà nó nắm chắc trong bàn tay trái của mình- bùa Khinh Công.
Septimus cẩn thận cầm lấy mũi tên nhỏ bằng vàng có chùm đuôi bạc tinh tế ra cầm giữa ngón trỏ với ngón cái. “Chúng ta sẽ đi đâu?” Nó hỏi ngài Alther- ngài đang lượn lờ trước mặt nó, mải lo hoàn thiện cú nhảy giật lùi.
“Hốc Tường,” ngài Alther đáp, lộn ngược đầu xuống đất. “Một nơi tuyệt vời. Đáng lẽ ta phải nói cho con biết về nó rồi.”
“Nhưng đó là quán rượu,” Septimus phản đối. “Con còn quá nhỏ để vào quán rượu. Bà Marcia bảo nơi đó toàn…”
“Dào, con để ý những điều Marcia rủa xả về quán rượu làm gì,” ngài Alther bảo nó. “marcia cómo65t học thuyết rất lạ đời rằng thiên hạ tới quán rượu chỉ để nói xấu sau lưng cô ấy. Ta đã bảo cô ấy là người ta còn thiếu gì thứ thú vị hơn cô ấy nhiều để mà thảo luận- như giá cá tép chẳng hạn- nhưng cô ấy không tin ta.”
Ngài Alther lộn lên trở lại và giữ thăng bằng tại chỗ ngay trước mặt Septimus. Con ma ngắm cái thân hình mảnh khảnh trên bậu cửa sổ, mái tóc xoăn thổi tốc trong gió rít quanh đỉnh tháp Pháp sư, đôi mắt xanh lá cây lóa lên ánh sáng Pháp thuật khi bùa Khinh Công ấm lên trong tay nó. Dẫu đích thân ngài Alther đã hướng dẫn Septimus thực hành Khinh Công suốt ba tháng qua- kể từ khi thằng bé tìm thấy bùa Khinh Công- nhưng ngài vẫn thấy chờn chợn khi nhìn thằng bé đứng trên độ cao chết người này.
“Ngài bay trước đi ạ,” Septimus nói, giọng nói bị gió đánh bạt.
“Hả?”
“Ngài bay trước được chứ, thưa ngài Alther?”
“Được. Nhưng trước tiên ta phải nhìn con xuất phát đã. Để bảo đảm con làm đúng và giữ được thăng bằng.”
Septimus không phản đối. Nó thích bay cùng với ngài Alther, và hồi đầu mới tập Khinh Công, nó đã một hay hai lần mừng húm vì có lời khuyên của con ma, trong đó đáng nhớ nhất là cú đáp kinh hoàng suýt đâm sầm xuống mái Văn phòng Sao lục. Lần ấy Septimus định bụng sẽ khoe tài với anh bạn Beetle, nhưng hên nhờ ngài Alther tạo một làn khí dâng lên đột ngột, đỡ lấy Septimus và đưa nó an toàn xuống sân sau. Thoát nạn, Septimus không hó hé gì đến chuyện tạo ấn tượng nữa.
Bùa Khinh Công bắt đầu nóng ran trong tay Septimus. Giờ xuất phát điểm rồi. Hít vào một hơi thật sâu, Septimus quăng mình vào màn đêm. Trong khoảnh khắc, nó cảm thấy trọng lực nặng như chì lôi tuột thân mình về phía mặt đất, và rồi điều nó yêu thích xảy ra: lực kéo xuống biến mất và nó tự do, tự do như chim bay vút lên, nhào lộn và xoáy tít trên bầu trời đêm, được bùa Khinh Công nâng đỡ an toàn. Ngay lúc bùa Khinh Công kích hoạt, ngài Alther thả lỏng người, bay vượt lên trước Septimus, cánh tay dang rộng như đôi cánh chim ưng lướt gió, trong khi Septimus theo sau loạng choạng hơn, cố thử những chiêu mới- vượt chướng ngại vật hình dích dắc.
Họ lao đến quán Hốc tường một cái bùm- hay đúng hơn chỉ có Septimus rớt cái bùm. Ngài Alther xuyên thẳng qua bức tường, bỏ lại Septimus áp dụng kỹ thuật vượt chướng ngại vật hình dích dắc và đáp phịch vô đám bụi rậm mọc kín lối vào xiêu vẹo của quán rượu.
Vài phút sau ngài Alther quay trở ra thì thấy septimus lồm cồm chui khỏi bụi rậm. “Xin lỗi, Septimus,” ngài Alther áy náy. “Ta vừa gặp Olaf Snorrelssen xong. Một tay dẽ mến đó. Một lái buôn phương Bắc, không bao giờ về được nhà đẻ nhìn mặt đứa con mới sinh của mình. Buồn thảm thiết. u sầu khôn nguôi, nhưng hắn là người tốt. Ta luôn bảo hắn hãy bứt khỏi đây mà đi thăm thú Lâu Đài đi, nhưng hắn chả đi đâu được ngoài khu Chợ Phiên và quán Cá Bơn. Cho nên đành ngồi tịt ở đây ngó vại bia của mình.”
Septimus phủi mấy chiếc lá dính vào áo chẽn, nhét bùa Khinh Công trở lại đai lưng Học Trò và khảo sát lối vào Hốc Tường. Nó thấy nơi này chả có chút gì giống quán rượu. Trông như một đống đá đắp vào chân tường Lâu Đài hơn. Không thấy vết tích cửa ra vào đâu. Mà thực ra cũng không có cửa, không có cả những cửa sổ sáng choang, mời gọi mà Septimus quen thấy ở các quán rượu, bởi vì, làm gì có cửa sổ. Trong khi Septimus đang bán tín bán nghi ngài Alther chơi khăm mình, thì một con ma nữ tu bay sượt qua.
“Chào ngài Alther,” nữ tu cất giọng du dương.
“Chào xơ Bernadette,” ngài Alther cười tươi đáp lại. Bà xơ vẫy ngài một cái tình tứ rồi biến vụt vào đống đá. Có một hiệp sĩ đeo băng treo cánh tay bám theo bà, ông này cẩn thận cột con ngựa khập khiễng của mình vào một cây cột vô hình rồi lết vào bụi rậm nơi Septimus vừa cố thoát ra. “Xem ra đêm nay là một đêm bận rộn đây, chúng ta có vài vị khách mới,” ngài Alther tư lự, gật đầu kiểu cách chào ông hiệp sĩ.
“Nhưng… họ la ma mà,” Septimus bảo.
“Phải, dĩ nhiên họ là ma. Đó là bản chất của quán rượu này. Mọi con ma đều được đón tiếp nồng hậu ở đây; nhưng người sống phải có lời mời mới vào được. Không dẽ gì nhận được lời mời đâu đấy, ta cam đoan với con thế. Ít nhất phải có hai con ma mời một lúc. Đương nhiên, bao năm rồi cũng có một vài kẻ hấp hơi chuồn vào, nhưng nơi này vẫn là nơi tuyệt mật.”
Có ba vị Pháp sư Tối thượng Cổ Nhân mờ nhạt vừa tới, đang bít lối vào vì bận lưỡng lự xem ai sẽ qua trước. Septimus lễ phép gật đầu chào họ và hỏi ngài Alther, “Thế con ma kia mời con là ai vậy?”
Ngài Alther, mải nhìn ba vị Pháp sư Tối thượng cười khề khà quyết định đi vào chung một lượt, nên không trả lời. “Đi, theo ta nào cưng,” ngài nói rồi tan biến qua bức tường. Một lát sau ngài Alther trở lại và giục giã, “Mau lên, Septimus, không nên để N hoàng Etheldredda chờ.”
“Nhưng con…”
“Cứ lách qua bụi rậm rồi vòng ra sau đống đá. Con sẽ tìm thấy lối vào.”
Septimus ép mìnhchui qua bụi rậm, mò mẫm đi trong ánh sáng trợ giúp từ chiếc Nhẫn Rồng nó đeo ở ngón trỏ tay phải; nó thấy một lối đi chật hẹp đằng sau đống đá, dẫn nó tuồn sâu vào một không gian rộng, thấp, khuất bên trong bức tường thành Lâu Đài- quán rượu Hốc Tường.
Septimus bàng hoàng sửng sốt- chưa bao giờ trong đời nó thấy nhiều ma tụ tập lại một chỗ đến thế. Septimus đã quen thấy ma quanh Lâu Đài, bởi nó vốn dĩ là típ bé trai nhạy cảm mà ma rất thích HIện Hình với nó; kể từ khi khoác bộ áo thụng xanh lá cây của Học Trò Pháp sư Tối thượng, Septimus để ý thấy thậm chí còn nhiều ma muốn Hiện Hình với mình hơn. Thế nhưng trong bầu không khí xuề xòa của quán Hốc Tường- cộng với việc nó đi cùng với ngài Alther, một trong những khách quen nổi tiếng nhất nơi này- có điều gì đó hàm ý rằng hầu hết ma đều muốn để cho Septimus trông thấy họ. Quả là một khung cảnh choáng sốc: những con ma Pháp sư Tối thượng mang phong thái bình dân, tất cà đều diện áo thụng màu tía nhưng đủ kiểu khác nhau, phản ánh mốt thời trang qua nhiều thời đại- Septimus thường thấy những kiểu áo này đi loanh quanh Cung Điện và tháp Pháp sư. Lại còn một số lượng công chúa và nữ hoàng đông đến kinh ngạc. Tuy nhiên cũng có nhiều con ma mà Septimus chưa từng thấy bao giờ: những hiệp sĩ đi cùng tiểu đồng, những nông dân dắt theo vợ, rồi thủy thủ và nhà buôn, thợ chép và học giả, kẻ lang thang và thợ hàn nồi, và tất tật các tầng lớp cư dân của Lâu Đài trong suốt mấy ngàn năm qua, ai nấy đều đang bưng đúng chiếc cốc vại mà quán Hốc Tường đã phục vụ họ trong lần đầu tiên đến quán và không bao giờ cần phải rót đầy lại.
Tiếng nói chuyện âm âm u u kiểu ma chiếm lĩnh bầu không khí, tiếp nối những cuộc đàm đạo bắt đầu từ nhiều thiên niên kỷ trước theo một cung cách lờ lững, uể oải. Nhưng ở một góc xa tít kia, có một hình ma vương giả nghe thấy tiếng bước chân ngập ngừng của một thằng bé còn sống len lỏi qua đám đông. Mụ liền đứng dậy khỏi chiếc ghế bên cạnh đống lửa và lướt ào ào qua biển ma, và biển ma ấy kính cẩn rẽ đường cho mụ đi.
“Septimus Heap,” Nữ hoàng Etheldredda nghiến ngấu. “Trễ năm phút rưỡi, nhưng không sao. Ta đã đợi năm trăm năm rồi. Theo ta.”
Septimus Heap Tập 3 - Y Thuật Septimus Heap Tập 3 - Y Thuật - Angie Sage Septimus Heap Tập 3 - Y Thuật