Kiếp Đi Ở epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 5
8 tháng Chín
Mẹ tôi chết. Tôi nhận được tin sáng nay qua một bức thư gửi từ quê nhà. Tuy rằng lúc bé tôi bị mẹ đánh đòn nhiều, nhưng nhận được tin này tôi buồn lắm, tôi cứ khóc suốt đi. Thấy tôi khóc, bà chủ hỏi:
- Sao lại khóc?
Tôi trả lời:
- Mẹ tôi chết.
Với vẻ thản nhiên, bà nói:
- Buồn đấy... Nhưng tôi cũng chẳng thể làm gì được. Dù sao cũng đừng để ảnh hưởng đến công việc.
Thế đấy! Không biết lòng nhân từ của bà ấy để đâu cả! Tắt ngấm rồi chăng?
Điều làm tôi đau khổ là sự trùng hợp giữa cái chết của mẹ tôi và việc giết hại con chồn. Tôi cứ nghĩ đấy là sự trừng phạt của Trời, nếu tôi không ép ông đại uý giết con chồn thì mẹ tôi đã không chết. Tôi cũng đã cố ý cho rằng mẹ tôi chết trước khi con chồn bị ông Manger quật chết. Song ý nghĩ về sự quả báo vẫn theo đuổi tôi suốt cả ngày, làm tôi ân hận vô cùng...
Tôi muốn về ngay... Nhưng quê tôi, Audierne xa lắm, mãi cùng trời kia, tôi lại không có tiền... Hễ lĩnh lương tháng đầu tiên, tôi còn phải trả tiền giới thiệu chỗ làm cho sở xếp việc; rồi lại còn phải trả mấy món nợ vay tạm các nơi trong thời gian tôi thất nghiệp...
Mà về quê cũng chẳng có ích gì... Anh tôi thì đi làm ở con tàu của nhà nước, tận bên Trung Quốc, đã lâu lắm không có tin tức... Còn chị Louise của tôi bây giờ ở đâu tôi cũng không biết. Từ ngày chị ấy bỏ nhà đi theo Jean le Duff đến giờ chẳng nghe ai nói về chị ấy cả... Không biết bây giờ chị ấy lưu lạc ở đâu... Có thể chị ấy đang ở nhà... Mà cũng có thể chị ấy chết rồi... Cả anh tôi cũng vậy...
Vậy thì sao lại về đây? Về đấy có ích gì? Ở đấy còn có ai đâu?... Mẹ tôi chắc cũng chả có gì mà để lại... Một ít quần áo cũ và mấy cái đồ đạc của mẹ cũng không đủ trả nợ tiền rượu rồi...
Kể cũng lạ... Lúc mẹ còn sống, tôi chẳng bao giờ nghĩ đến mẹ, chẳng mấy khi muốn về thăm. Thư thì chỉ khi nào tôi đổi chỗ làm mới viết về để báo địa chỉ... Mẹ tôi cũng hay đánh tôi vì mẹ luôn say rượu... Vậy mà khi nghe tin mẹ chết tôi thấy lòng buồn rượi, thấy mình cô đơn quá...
Rồi tôi hồi tưởng lại thời thơ ấu... Tôi nhớ đến mọi người, mọi đồ vật thuở tôi chập chững vào đời... Nghĩ đến lúc bấy giờ tôi thấy sao mà hạnh phúc thế! Còn bây giờ thì sao mà khổ cực thế! Đời thật bất công!...
Tôi nhớ ngày còn bé, một đêm đang nằm ngủ thì có tiếng còi tàu cứu nạn làm thức dậy. Chao ôi! Tiếng còi cứu nạn nổi lên giữa ban đêm mới buồn làm sao! Ngay từ hôm trước giờ bão đã nổi lên, sóng bạc đầu cồn lên trắng xoá cảng biển, chỉ có một số ít tàu vào được bến, còn đa số khó tránh khỏi gặp nạn.
Biết rằng bố tôi đánh cá ở vùng biển Ile de Saint mẹ tôi không lo lắm... Mẹ tôi hy vọng rằng bố trú ẩn được vào cảng như nhiều lần trước đây. Nhưng khi nghe tiếng còi tàu báo nạn thì mẹ tôi cảm thấy lo sợ, chân tay run bần bật, mặt tái nhợt, vội tung chăn ngồi dậy... Mẹ quấn tôi vào một khăn len to rồi bê tôi chạy lên đập chắn sóng... Chị Louis và anh tôi chạy theo mẹ. Hai người vừa chạy vừa cầu Chúa Jésus và Đức mẹ đồng trinh... Cả mẹ tôi cũng cầu.
Phố nào cũng đông nghịt người: người già, phụ nữ, trẻ em. Trên bến cảng nhiều bóng đen đang hối hả... Nhưng mẹ tôi không trụ lại đập chắn sóng vì gió to, sóng lớn ào vào quét tất cả những gì ở trên mặt đê. Mẹ tôi phải đi theo con đường hẻm để chạy ra cửa sông đến mãi cột đèn biển. Trời tối đen như mực, chẳng nhìn thấy gì. Thỉnh thoảng từ phía biển xa, một con sóng bạc đầu sáng lên dưới ánh đèn biển. Tuy sóng gió ầm ầm, nằm trong tay mẹ, tôi run bần bật nhưng tôi vẫn thiếp đi... Mãi lúc lâu tôi mới thức dậy và thấy mình đang ở trong một căn phòng thấp. Giữa những bóng đen, những khuôn mặt rầu rĩ, những cánh tay vung vẩy, tôi nhìn ở trên tấm phản một xác người, có hai đèn nến rọi sáng... một xác người dài đuỗn đuột và trần truồng, cứng đờ, mặt nát ra, chân tay sây sát những vết thương. Đấy là bố tôi...
Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ. Tóc bố tôi dán chặt vào sọ, rêu rong bám đầy mặt. Mấy người đang cúi xuống bố tôi cầm những miếng dạ sát vào người cho nóng lên, hà hơi vào mồm... Tôi thấy trong đám đông có cả ông xã trưởng, có cả ông lục sự, ông đại uý hải quan, và ông cảnh sát biển... Tôi sợ quá, tôi tụt chiếc khăn quàng trên người, chạy đến đứng lọt vào háng những người ấy và tôi gào lên "bố ơi... bố ơi..." rồi một bà hàng xóm bế vội tôi đi chỗ khác...
Từ ngày ấy trở đi mẹ tôi uống rượu, lâu rồi thành nghiện... Mẹ uống nhiều lắm, nhiều phát khiếp được... Thời gian đầu mẹ tôi đi làm ở xí nghiệp cá hộp, nhưng mẹ say rượu luôn nên người ta không mướn nữa. Không đi làm ở nhà mẹ tôi lại càng có điều kiện rượu chè, ủ rũ, rồi đánh chúng tôi.
Sợ quá, tôi bỏ nhà đi lang thang, suốt ngày ở ngoài bến tàu, không thì lại vào các vườn ăn trộm hay lội hàng giờ ở ngoài bờ biển lúc triều xuông. Cũng nhiều lúc tôi đi dong trên đường Plogoff, đến một trảng cỏ, chung quanh cây cối rậm rạp, kín gió, để đùa nghịch với bọn con trai... Có một hôm đi chơi về, tôi thấy mẹ tôi nằm vật trên nền nhà ngay ở ngưỡng cửa, nôn mửa nhầy nhụa, trong tay đang cầm một cái chai vỡ... Tôi phải bước qua mẹ mà vào, không dám làm mẹ thức. dậy; mẹ tôi mà thức dậy thì sợ lắm.... đập phá lung tung, rồi lôi tôi ra khỏi giường, đuổi đánh, đấm đá, dập đầu tôi vào tường, rồi quát:
- Tao phải giết mày mới được! Tao phải giết mày.
Tôi đã tưởng chết mất.
Rồi mẹ tôi bê tha, truy lạc, để có tiền rượu chè... Đêm nào cũng có tiếng gõ cửa... Một thuỷ thủ vào, đem theo mùi cá, mùi mắm tanh tưởi... Ngủ lại một tiếng rồi đi... Người ấy đi, một người khác lại đến, lại ngủ một tiếng rồi lại đi... Cũng có lần thấy có tiếng người cãi nhau, đánh nhau, lục đục trong đêm tối, nhiều lần cảnh sát phải đến can thiệp...
Nhiều năm trôi qua như thế... chẳng ai muốn cưu mang tôi, cả anh tôi, chị tôi cũng vậy... Thấy chúng tôi đi ngoài đường mọi người tránh xa... Thấy chúng tôi lân la vào vườn ăn trộm hay đến nhà xin ăn, họ lấy đá ném chúng tôi... Một hôm chị Louise tôi chẳng chớ với một anh lính thuỷ rồi bỏ nhà đi... Tiếp theo là anh trai tôi vào lính rồi cũng biệt tăm... Thế là còn lại mình tôi với mẹ. Hơn mười tuổi, tôi đã mất trinh.... theo gương xấu của mẹ, tôi cũng sa vào con đường tình ái với bọn trẻ con con trai... người tôi đẫy đà ra... Tuy đói ăn, lại bị đòn vọt luôn, nhưng sống giữa nơi thoáng đãng của vùng biển, được tự do thoải mái, tôi lớn như thổi, mới mười một tuổi, tôi đã dậy thì, trông tôi đã ra vẻ một phụ nữ tuy vẫn còn là một thiếu niên.
Đến mười hai tuổi, tôi đã thành một phụ nữ hẳn hoi, đồng thời cũng không còn trinh trắng... Có phải tôi bị cưỡng dâm không?... Không hoàn toàn như thế... Hay là thông dâm?... Gần như thế. Một ngày chủ nhật, sau buổi lễ, ông đốc công già của nhà máy cá hộp, người đầy lông lá, râu tóc lồm xồm như một bụi rậm, mùi hăng như mùi dê đực, kéo tôi ra bãi biển Saint Jean, dẫn tôi vào một cái hốc đá tối om, nơi cho chim cú làm tổ và thuỷ thủ giấu những vật vớt được ở ngoài biên. Đến đấy, ông đặt tôi nằm trên một cái ổ bằng rong biển đã thối rửa. Ông cho tôi một quả cam và chiếm lấy tôi... Tôi chẳng chống cự, cũng chẳng quẫy đạp... Ông đôc công già ấy có cái tên kỳ cục là Cléophas Biscouille...
Thật là một điều khó hiểu tôi chưa từng đọc ở các tiểu thuyết. Ông Biscouille vừa già vừa xấu lại có vẻ tàn bạo rất ghê tởm. Bốn năm lần ông đưa tôi vào hang đá tối om nằm trên ổ rong biển thối, chẳng có chút gì gọi là thích thú, trái lại rất tởm lợm. Vậy mà sao cứ mỗi lần nghĩ đến ông - mà tôi nghĩ đến luôn - tôi không bao giờ có ý nghĩ khinh ghét và nguyền rủa. Trái lại tôi chỉ thấy biết ơn ông và tiếc rằng chẳng bao giờ còn gặp lại ông, con người ghê tởm ấy nữa...
Nhân dịp, xin cho phép tôi được đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào tiểu sử các vĩ nhân. Ông Paul Bourget là bạn thân đồng thời là người hướng dẫn của bà bá tước Fardin, bà chủ cũ của tôi năm ngoái. Tôi có nghe nói ông là người duy nhất biết được thấu, đáo tâm hồn phức tạp của phụ nữ. Đã nhiều lần tôi muốn viết thư hỏi ông về trạng thái tâm lý này. Nhưng rồi tôi không dám... Các bạn đừng ngạc nhiên thấy tôi quá bận tâm như thế. Tôi cũng biết rằng đối với những kẻ làm đầy tớ như vậy là không hợp. Nhưng ở thính phòng của bà bá tước, người ta chỉ rặt thảo luận về mỗi vấn đề tâm lý... Nên trí lực của bọn tôi cũng rập khuôn trí lực của chủ, ở thính phòng thảo luận cái gì thì ở sau nhà cũng thảo luận cái ấy. Chỉ buồn một điều ở nhà chúng tôi không có một người như ông Paul Bourget có khả năng làm sáng tỏ những vấn đề về tâm lý phụ nữ mà chúng tôi bàn bạc... Ngay cả những lời giải đáp của anh Jean cũng không làm chúng tôi thoả mãn...
Một hôm bà chủ tôi bảo tôi mang một bức thư khẩn cho ông thầy trứ danh của bà. Tôi củng được giao nhận thư ông trả lời... Tôi nhân dịp mạnh dạn nêu vấn đề đã từng làm tôi băn khoăn để hỏi ông. Tôi cũng nói thác đi đây là của một cô bạn tôi... Ông Paul Bourget hỏi tôi:
- Bạn cô làm gì? Một dân thường hay một người nghèo?
- Một người hầu phòng cũng như tôi, thưa ông.
Ông Bourget nhăn mặt, bĩu môi, vẻ tự cao, khinh người. Ông ghét người nghèo mà!
- Tôi không quan tâm đến những người ấy. Họ không phải, không đáng, là người để môn tâm lý học của tôi nghiên cứu.
Tôi hiểu rằng trong giới khoa học của ông chỉ nghiên cứu những người, có từ một trăm nghìn francs lợi tức trở lên.
Khác hẳn với ông, ông Jules Lemaitre, một bạn quen, tính xuề xoà của gia đình. Cũng được hỏi về vấn đề ấy, ông bẹo tôi và vui vẻ trả lời:
- Cô Célestine ạ, bạn cô là một người tốt bụng. Nếu cô cũng giống như cô bạn ấy thì tôi chỉ trả lời hai tiếng: Hay! Hay!
Người ông xấu xí, lưng gù, mặt choắt, nhưng giản dị, chẳng làm bộ làm tịch gì, trông y như một đứa trẻ... Tiếc rằng ông lại rơi vào hàng ngũ những linh mục...
Nếu các bà xơ ở Ponteroix thấy tôi thông minh và kháu khỉnh lại nhặt tôi về thì không biết tôi sẽ thế nào ở cái địa ngục Audierne ấy!
Tôi đã gặp mấy đứa cũng bằng tuổi tôi, cũng nghèo túng, nhưng trong trắng, nhân hậu. Chúng không chịu ngửa tay đi xin ở dọc đường hay đến các nhà. Chúng tìm cách này hay cách khác để sống lương thiện. Mặc dầu hoàn cảnh khó khăn nhưng chúng vẫn vui vẻ vẫn hát như những con hoạ mi.
Bọn chúng dạy tôi học đọc, học viết, học khâu vá, làm nội trợ, rồi đưa tôi vào làm con sen tại nhà một ông đại tá về hưu. Mùa hè nào ông cũng đưa vợ và hai con gái đến nghỉ ở một lâu đài cũ kỹ gần thị trấn Confort... Họ là những người tốt nhưng lúc nào cũng thấy buồn rười rượi... và bị ám ảnh. Không bao giờ thấy họ cười... Quần áo toàn một màu đen. Ông đại tá suốt ngày ngồi ở phòng sát nóc, loay hoay một mình vói những quân cờ và bàn cờ. Bà thì hết vá cái nọ lại khíu cái kia, nhiều lúc khâu vào rồi lại tháo ra. Còn hai cô con gái có một luống đất nhưng cào chả có, cuốc thì không, muốn tưới cũng không có nước. Tôi làm với ông bà được vừa vặn tám tháng rồi thôi...
o O o
Sau bữa ăn tối, thấy tôi buồn, chị bếp Marianne lại gần an ủi. Chị vào tủ buýtphê lấy ra một chai nước quả, hai cái cốc, rót đưa tôi một cốc. Nhắp một ngụm rồi đặt cốc xuống giường, chị chậm rải nói:
- Đừng buồn chị Célestine. Cố gắng nén chịu. Đời là thế đấy. Nhiều nỗi gian truân, chẳng mấy ai tránh khỏi.
Suốt trong gần tiếng đồng hồ, vừa uống vừa trò chuyện, chị Marianne đã kể cho tôi nghe nhiều nỗi buồn phiền của đời chị: ốm đau bệnh tật, sinh con đẻ cái, bố mẹ chết, các em chết... Giọng chị mỗi lúc buồn thêm, vừa nói vừa khóc.
- Đừng buồn chị Célestine ạ, - chị Marianne lau nước mắt bảo tôi, - mẹ chị mất là một tổn thất lớn... nhưng biết làm thế nào... Người ta ai cũng phải chết... Gắng chịu đựng...
Rồi tự nhiên chị khóc nức lên, vừa khóc vừa rên rỉ.
- Đừng buồn.... đừng buồn...
Trước chị rên rỉ se sẽ, sau rống lên thảm thiết. Cái bụng to kềnh của chị, cái ngực đồ sộ của chị, cái cằm ba ngấn của chị, rung lên bần bật, nổi thành từng cục...
- Khẽ chứ chị Marianne, - tôi khuyên, - không bà chủ nghe thấy lại đến...
Nhưng chị Marianne không thôi, chị vẫn rên rỉ vẫn kêu gào to hơn...
- Ôi chao đau xót quá! Đau xót quá!...
Thế là tôi xúc động trước những tiếng than vãn của chị bếp, tôi cũng nức nở lên...
Tôi buồn quá. Những muốn chuyển đi làm chỗ khác để may ra có khuây khoả được chăng.
Kiếp Đi Ở Kiếp Đi Ở - Octave Mirbeau Kiếp Đi Ở