Chương 4
ị một báng súng đánh mạnh vào lưng, Ngọc ngã sõng soài trên nền đá. Tối quá, Ngọc nghển dậy, mở mắt mà không nhìn thấy gì. Xa lắm, nghe vẳng lại tiếng người lảm nhảm nói mê, tiếng người ú ớ như bị bóp cổ và ai đó ngáy, tiếng ngáy cứ ọc ọc như nước tắc trong vòi. Suốt buổi tối qua Ngọc bị bọn hiến binh thẩm vấn, tra khảo; giờ người ê ẩm, đầu vô cùng căng nhức. Vì vậy, gục xuống chỉ lát sau Ngọc đã như bị nhận chìm xuống một vực sâu tối mò.
Ba giờ đồng hồ sau, Ngọc tỉnh dậy. Anh ngửi thấy mùi khai của nước tiểu. Và nhờ đôi mắt đã quen với bóng tối anh nhận ra bóng một ông lão gầy gò, đội cái mũ phớt rách chỏm đang ngồi cạnh mình.
— Anh mới bị chúng bắt à? — Thấy Ngọc mở mắt ông lão cúi xuống, lào thào hỏi.
Ngọc gượng nhổm dậy, lê người lại vách hầm. Vách hầm trát xi măng ráp rô ráp sì mà lạnh toát.
— Đây là đâu thế, cụ?
— Đây là hầm ngầm pháo đài ông ba Ra-ven đấy, anh ạ.
— Hầm ngầm pháo đài...
— Anh người đâu ta mà không biết? Ông phó sứ Lờ-pa-đờ, cả ông ba Ra-ven nữa đang ở sòng tài sửu, điện vẫn còn sáng trưng thì đùng một cái, Nhật lùn nó nổ súng. Các ngài mới cuống quýt hết cả lên, chui tọt xuống gầm bàn bi-a. Giặc lùn nó mới đem quân qua cầu đánh vào quận bốn Cốc Lếu. Thoạt kỳ thủy, ông quan hai La-doa còn nói cứng. Sau Nhật lùn nó a lô: “Không hàng sẽ băm chả hết”. Các ngài run như cầy sấy, thế là kéo cờ trắng lên. Trừ bọn các ông ở đồn lẻ bỏ chạy sang được Vân Nam, còn thì bị bỏ rọ cá trê tuốt. Úi chà, sau đó mít tinh đông ơi là đông. Ông Đường Tú An lên phiên dịch cho quan năm Ki-kư-chi, nói: “Bây giờ, Việt Nam được nước Nhật giúp đỡ độc lập rồi”. Thế là cử ra ông bố chính...
Ngọc nghĩ: “Ông lão này ngộ dại hay sao mà lảm nhảm chuyện gì thế?”. Mặc, ông cụ lại tiếp, giọng ráo hoảnh:
— Tôi là tôi chẳng có tin. Phải đến lúc Việt Minh lên kia. Úi cha, dạo đó anh ở đâu? Ông Lê Chính đặc phái viên Chính phủ lên. Cờ xí rợp trời. Giải tán chính quyền bố chính của Nhật. Lập ủy ban nhân dân. Lý tư lệnh quân đoàn 93 Tưởng Giới Thạch cứ là trơ mắt ếch ra. Anh có biết mặt ông Chính, đặc phái viên, không? Một hôm, cả phố làm vệ sinh. Ông ấy cũng cầm cái chổi ra quét. Thấy lạ quá, tôi mới giả đò quét rồi sán tới. Chà, con người thật là tráng kiện, quắc thước; hai mắt sáng như hai cái đèn, tinh anh mà lại hiền hậu. Lý tư lệnh hỏi: “Sao ông còn trẻ mà giữ chức chủ tịch tỉnh này kia à?”. Ông ấy đáp: “Nước có giặc thì không phân biệt già trẻ, ai cũng có bổn phận cứu nước”. Bọn các ông Quốc dân Đảng tập trung ở ngoài cửa hò: đả đảo Việt Minh. Ông Chính bước ra, chỉ lừ mắt một cái là tan cả lũ.
“Không phải ông cụ ngộ dại”. Ngọc nghĩ, sợ ông cụ quá đà, có kẻ theo dõi, liền ngắt lời ông cụ:
— Cụ bị bắt vào đây lâu chưa?
Không để ý đến câu hỏi của Ngọc, ông cụ tiếp:
— Cứ tưởng được thế mãi. Ai ngờ, đùng một cái, cái nhà ông Lộc này làm đảo chính. Nghe đâu như là chính ông chủ tịch Bằng giấu ông Chính ở trên gác đấy. Nếu không thì nó bắt, nó đưa ra cầu Giời ơi — là cái cầu Cốc Lếu ấy, nó đâm người ta ở đấy, cứ một tiếng “giời ơi” là có một người bị quẳng xuống sông, anh à.
Ngọc rùng mình, lại nhớ cái đêm giẫm phải vũng máu trên cầu. Như đã dứt mạch câu chuyện, ông cụ nhìn Ngọc chăm chăm:
— Thế anh bị bắt về tội tình gì?
— Cháu chả có tội tình gì cả.
— Ấy đấy, tôi cũng vậy. Ra bọn này nó làm ăn chẳng có phép tắc lệ luật gì hết. Anh hiểu không? Uống rượu thì có kẻ là tà tửu, có người là tiên tửu. Tiên tửu là càng uống càng tỉnh. Tà tửu là càng uống càng say. Tôi là loại tà tửu. Say thì còn kể gì. Tôi mới đi lông nhông ở phố. Bất đồ mới gặp các ngài sĩ quan. Tôi mới giơ nắm đấm lên chào. Hì hì... thế là bị bắt bỏ bót. Dưng mà theo số tử vi thì năm nay của tôi là năm vượng cơ. Anh có tin số tử vi không? Chết cha! Cái ông thày tử vi lấy lá số cho tôi cao tay lắm... Này nhé...
Ngọc ngồi nhổm dậy. Anh đã nhận ra, ông cụ chính là người say rượu cái đêm anh và Trọng từ quán Biên Thùy đi đến ô-ten Vi-ô.
— Cụ ơi, trong hầm này có nhiều người không?
— Có cả anh nữa là bốn. Nằm tít tịt trong kia là ông Trương Căm, tướng cướp, đầu trùm Ma-di khai sáng. À, hôm nọ bọn lâu la của ông này cướp thị trấn định đánh tháo cho thủ lĩnh mà không được đấy.
Vừa lúc ấy, có tiếng rên khe khẽ ở phía sau ông cụ. Ông cụ rời Ngọc bò vào phía trong, lát sau quay trở ra, chặc chặc lưỡi:
— Khổ quá, nam quốc nam nhân mà đối xử với nhau sao nỡ tàn tệ thế!
— Ai đấy, hả cụ!
— Nào biết!
— Thế cụ vào đây lâu chưa?
— Nhõn có năm ngày. Vào bót ba hôm, rồi bị giải ra đây, tôi đã thấy anh Cang đánh đàn ở nhà thờ bị giam ở hầm bên. Còn anh này thì mới vào đây tối qua. Nghe nói, hình như anh ta là hội kín, ở dưới xuôi mới lên làm thợ ở đề-pô.
Một vầng sáng chợt hiện trong óc Ngọc. Ngọc nhớ ra rồi. Cái đêm ở quán trà Biên Thùy. Buổi chiều ở nhà ga đề-pô Phố Mới.
Trời hửng dần. Qua lỗ thông hơi, rạng đông rót ánh sáng dè sẻn vào căn hầm. Mới có một đêm mà trông anh đã khang khác, đôi mắt thoảng vẻ ưu tư mơ màng đã đọng sâu thâm trầm, phảng phất nỗi ân hận và vẻ buồn thê thảm. Đối diện với anh là cặp mắt to, lòng đen tròn như hạt nhãn, vừa thật thà, vừa tinh quái của ông lão.
Người thợ ở đề-pô Phố Mới cũng tỉnh dậy lúc đó. Anh xoay người. Những khớp xương sưng tấy nhức đến tận óc.
— Anh để tôi lấy nước tiểu bóp cho nhé — Ông lão lê lại gần người thợ — Anh ạ, được ra, anh đến nhà tôi, tôi cho anh ít mật gấu mà bóp. Anh Pao, người H'Mông ở Pa Kha, anh ấy cho tôi, tôi vẫn để dành. Một lần, ông chủ sự Bằng bước hụt cầu thang, bị bong gân, tôi bóp cho nhõn có lần mà khỏi tiệt.
— Cảm ơn cụ, con không đau lắm đâu.
Người thợ ngồi dậy, tựa lưng vào tường. Cái săng đay cứng quèo những vệt máu khô. Một vệt máu đọng dài ở thái dương, qua má, xuống cằm. Máu bầm cả ở vầng trán cao. Và cặp mắt anh khép hờ, như bị đau, sợ tia sáng chói gắt của ban ngày.
— Khổ quá, nó tra điện, rồi nó đánh anh ấy bằng roi cá đuối đây mà. Chậc! Người mình với nhau mà...
Ông lão nói với Ngọc rồi quay sang người thợ:
— Anh à, tránh voi chẳng xấu mặt nào. Anh cứ nhận nhăng nhít vài câu, rồi nó thành án tù. Quá lắm vài tháng, rồi ta trốn sợ gì. Mà bọn này cái số nó đoản lắm, không trường được đâu. Hay là thế này, anh nhắn ra ngoài, bảo vợ con cố chạy lấy vài trăm đồng. Cái nhà ông Lộc này tiếng thế chỉ thích mỗi một chữ tiên huyền tiền thôi... hì hì...
Người thợ cùng cười với ông lão, rồi nắm tay ông lão, hơi nhổm dậy:
— Cụ nói đúng! Số bọn này không trường được đâu.
Mắt người thợ lấp lánh sáng như có lửa cháy. Vẻ linh hoạt của nó rất phù hợp với giọng nói vang, khỏe như được nhân lên trong căn hầm rỗng của anh.
Ngọc đã nhận ra nét quen thuộc trên gương mặt người thợ. Lòng tự trọng khiến anh không dám nhìn người thợ nọ. Và khi người thợ nhận ra Ngọc, ngạc nhiên kêu: “Ô! Anh giáo, sao anh lại ở đây!” thì Ngọc quay mặt đi, rân rân nước mắt.
Bấy giờ căn hầm bỗng hưng hửng như có ánh trăng. Có lẽ ngoài kia nắng. Ông cụ chợt nhận ra Ngọc, reo to:
— Ơ! Cậu nhạc sĩ! Cậu vẫn chơi đàn ở ô-ten Tứ Xuyên, ô-ten Vi-ô chứ gì? Hóa ra cậu còn đi dạy học nữa kia à. Tôi vẫn bán phá xa ở trước cửa ô-ten đấy. Tôi là tôi nhẵn mặt các ông tai to mặt lớn ở tỉnh này. Hai cậu này, nghe nói Tây nó lại xâm lăng nước ta đấy!
— Nó là thằng thực dân; đế quốc vô cùng ngoan cố, nó chưa chịu công nhận nền độc lập của nước ta đâu, cụ ạ. Thế nào cũng phải đánh nó thì mới giữ gìn được nền độc lập.
— Các ông Quốc dân Đảng khoe cũng đánh Tây đấy, anh ạ!
— Bọn họ là một lũ phản động, cụ ạ. Thời gian đối với ta lúc này rất quý. Chính phủ ta chủ trương điều đình với giặc Pháp để có thời gian chuẩn bị lực lượng kháng chiến. Bọn họ thì lại chống chủ trương của Chính phủ, hô hào đánh chác, nhưng thật ra là phá hoại, làm rối ren tình hình ra thôi.
Ngoài cửa hầm có tiếng giày đinh nện. Dây xích kéo loảng xoảng. Cánh cửa sắt rít kít kít. Một khung cửa trắng sáng hiện ra, cùng với hơi gió tươi lành nhẹ nhàng tràn vào.
Một tên lính xách ấm nước, đặt phịch xuống cạnh cánh cửa, gắt thật vô cớ:
— Nước đây, uống đi rồi khai cho kỹ nhé, các bố?
Ngọc đứng dậy, chập choạng:
— Anh ơi! Anh có biết anh Trọng, anh nhắn hộ tôi. Tôi là Ngọc bạn thân của anh ấy.
— Trịnh trọng gì? Đang bận bỏ cha đây này!
Tên lính gắt. Có tiếng gọi ở ngoài cửa, nó quay ra, hét:
— Ê! Hầm đàn bà đấy! Mày định mò vào làm gì, thằng kia?
— Có mấy đứa mày?
— Một. Người đẹp của tỉnh trưởng đấy.
— Con bé bán hoa tươi, hả?
— Phải, muốn sờ dái ngựa thì chạm vào?
Ngọc thót người. Anh ngồi xuống, chân tay run lẩy bẩy, đầu óc quay đảo, mặt tối sầm “Trời ơi! Dung bị nó bắt rồi!”.
Cửa hầm lại mở. Một cái mặt đen sì ló vào:
— Nguyễn Văn Tâm là thằng nào? Đi!
Ông lão bán phá xa bóp bóp cánh tay Ngọc, rền rĩ:
— Cậu ơi! Cậu làm sao thế? Họ lại bắt anh ấy đi đánh đấy.
Hai tên hiến binh quần áo đen như hai con quạ, xộc vào hầm, xốc người thợ dậy, kéo anh ra cửa.
Ngọc bất thần chồm dậy, lao ra, như người mất trí, đập thình thình cánh cửa sắt, gào lạc tiếng:
— Anh gác ơi! Anh bảo hộ anh Trọng họa sĩ ở ban tuyên truyền, tôi là Ngọc... bạn anh ấy... anh gác ơi...
Tâm nhận ngay ra sự khác biệt của gian phòng. Lần trước anh bị tra khảo ở một căn hầm ngầm kia. Căn hầm ấy với những roi điện, quả đấm, búa đinh, kìm sắt, gậy xích lòng thòng, thùng nước xà phòng, sặc mùi tanh máu, có cái lò than cháy rừng rực và bọn đao phủ cởi trần béo ú, răng trắng ởn, mặt mũi nanh ác, như quỷ sứ dưới âm ti địa ngục. Ở đó, anh chịu đủ những cực hình, những ngón tra tấn cổ điển và mới phát minh của chúng, cũng đủ cả “lộn mề gà”, đi “tàu bay”, đi “tàu thủy”, “tàu ngầm”, “khiêu vũ” và “xin âm dương”.
Nhưng hôm nay, nơi anh được chúng dẫn tới lại là một căn phòng ở gác hai tòa sứ. Phòng rộng, hình vuông, lát đá hoa hoa văn màu mận chín. Đứng ở bốn góc phòng là bốn tên cao lớn, mặc soóc, tên nào cũng đeo kính râm, chân tay cuồn cuộn như thừng vặn, đang khoanh tay trước ngực, phì phèo đốt thuốc, giả tảng như không có chuyện gì.
Ngồi cạnh cái lò sưởi xây cạnh tường, Lộc đang hút xì gà, chân bắt chữ ngũ, lọt thỏm trong cái ghế bành bọc da mềm. Trước mặt Lộc là ông Bằng mặc com-lê xám, nét mặt đăm chiêu, trán nhíu, nét nhăn sâu như vết dao cắt.
Vẻ như không để ý đến Tâm, khi Tâm bước vào phòng, Lộc gỡ kính, nhìn ông Bằng, lên giọng:
— Ông chủ sự à, ông để tôi phải nói nhiều quá rồi đấy. Ông nên hiểu rằng đảng chúng tôi rất coi trọng anh em trí thức. Chúng tôi đâu phải là bọn phàm phu tục tử, vai u thịt bắp, mồ hôi dầu. Vì thế, hiện thời giới hữu sản, anh em trí thức đã có không ít người ủng hộ chúng tôi.
— Thưa ngài. Tôi nghĩ rằng, tôi tài hèn sức mọn...
Ngồi trên chiếc ghế đẩu, ông Bằng nói khe khẽ. Nhưng ông chưa nói hết câu Lộc đã vỗ bộp vào tay ghế ngắt lời ông:
— Không! Ông đừng giấu chúng tôi. Tôi biết, ông vốn bất mãn với chế độ cai trị của người Pháp.
— Thưa ngài, hiện tình sức khỏe của tôi...
— Không!
— Thưa ngài...
— Ông chủ sự, tôi tuy không được theo đòi văn sách đến đầu đến đũa, nhưng cũng thông hiểu chuyện cổ và phép đối nhân xử thế. Ông là người có nho hạnh trong dòng máu. Gia đình ông vốn dòng nho gia. Vậy là người trí thức thì nên thức thời. Hàn Tín xưa kia chưa làm nên còn chịu nhục chui qua đũng quần người. Việt Vương Câu Tiễn còn dám nếm phân. Người xưa họ khôn ngoan hiểu thời thế lắm, họ còn có câu này thật là hay: “Sỉ tính cương, thiệt tính nhu. Cương tính bất như, nhu tính cửu” nghĩa là lưỡi thì mềm, răng thì cứng. Nhưng răng cứng mà chẳng bền, chứng cớ là răng thì gãy, còn lưỡi thì đến già vẫn còn. Khà... khà...
Khoái trá vì chợt vận được câu chuyện cổ đúng chỗ, Lộc chống hai tay đứng dậy, miệng hà hà:
— Đấy ông nghĩ xem, chuyện của người xưa nghĩa lý lắm. Tôi không ép ông mà chỉ có lời khuyên ông thôi. Ông cứ nghĩ đi. Mươi phút nhé.
Ông Bằng ngồi lặng, không động đậy. Không động đậy mà cân não ông đang căng nhức. Không phải là ông bị lung lạc. Lộc vô học, dẫn chuyện sai, lại hớ. Ờ, răng lưỡi là thế đấy, nhưng Nguyễn Hòe danh sĩ chẳng đã đối lại rành rành: “Mi sinh tiên, tu sinh hậu. Tiên sinh bất nhược, hậu sinh trường”, lông mi có trước, râu có sau, nhưng râu lại dài hơn mi, đó thôi. Nhưng đây không phải là chuyện văn sách, đối đáp chữ nghĩa. Đây là chuyện cuộc đời, chuyện cuộc sống.
Đỗ tú tài nho, ông nội ông Bằng theo cụ Tán Thuật làm nghĩa quân. Khi cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy bị dìm trong máu lửa, buồn rầu, phẫn chí, ông cụ dắt díu cả gia đình vợ con lên thượng du ở ẩn. Ông cụ có sức vóc hơn người. Gánh hai bó lúa, mỗi bó to vừa một sợi lạt dài cả cây tre non. Nắm sừng hai con trâu, kéo ra can đám trâu húc nhau được. Lên núi, phẫn chí, ông chỉ đóng khố, suốt ngày lang thang trong rừng, coi con hổ con báo như bạn bè. Đột ngột nằm xuống, ông bảo người nhà sờ chân xem lạnh chưa, rồi gật đầu, nhắm mắt, ra đi. Theo gương cha, bố ông cũng dạy bảo con cái một lòng noi giữ đạo tu, tề, bình, trị, giữ vững khí tiết nhà nho, nhất quyết không hợp tác với bọn cường quyền. Tài học cao mà ông cụ chỉ được làm hương sư, lương tháng sáu đồng bạc, với điều kiện mỗi tháng lĩnh lương là một lần phải trình diện nhà chức trách địa phương. Cái gia đình nhà nho đông đúc ấy — hai bố mẹ già, một bầy con mười một đứa, không một thước đất — sống vất vưởng cả khi ông — người con cả — thi đậu vào chân thư kí sở dây thép tỉnh thượng du Yên Bái. Đời ông Bằng không hơn đời cha ông. Có chí tiến thủ, lại là người có tài, ông thăng lên được chức chủ sự thì vừa lúc xảy ra sự biến Yên Bái. Quẩn quanh thế nào mà ông lại bị chính quyền thực dân khép vào tội làm chậm trễ việc chuyển tin tức cuộc khởi nghĩa về Hà Nội, gây khó khăn cho việc điều quân đối phó của quân đội Pháp, nên bị đổi lên tỉnh Lào Cai xa xôi này. Thuộc lớp công chức cao cấp ở tỉnh này đấy, nhưng ông sống cũng phải tằn tiện lắm mới đủ tiền nuôi vợ, một đàn con năm đứa và giúp mẹ già, em nhỏ nơi quê hương. Cả đến môn tennit thời thượng cũng có dám chơi đâu. Mười tám đồng, một phần ba lương tháng, một cái vợt, lại còn tiền bia, nước chanh, tiền thuê người nhặt ban, đào đâu ra tiền mà chơi! Ông sống tằn tiện, chắt bóp, nhưng thẳng thắn, nghĩa hiệp, thấy sự ngang trái ngược ngạo là không có chịu. Người ta còn nhắc mãi chuyện ông xô xát với viên chánh văn phòng tòa sứ. Chiều đó, còn năm phút nữa mới tới giờ làm việc, dạo đó chưa có chế độ trực, viên chánh văn phòng người Pháp gọi điện, ông không trả lời. Y bực tức, đi sang sở, chửi rủa, mắng mỏ ông. Ông cự lại. Đôi bên đập bàn đập ghế, cãi nhau. Sự việc qua, ông phát đơn kiện viên chánh văn phòng nọ lên tòa thượng thẩm. Ông không thắng kiện. Nhưng anh em công chức mến phục ông. Chao ôi! Lẽ phải bị vùi dập! Nay ông bị khiển trách, mai họ dọa dẫm ông. Đời là thế ư? Làm ở Sở Dây thép, ông đã chứng kiến bao nhiêu việc bất công, vô lý trớ trêu. Những bức điện tín, những tờ ngân phiếu của những kẻ cầm quyền, của các chủ mỏ, chủ Sở tới tấp gửi đi, đánh đi làm tối tăm mặt mũi người nhân viên ngành bưu điện, nhưng lại làm sáng bừng trong tâm trí ông sự hiểu biết ngày càng sâu xa; đất nước bị đô hộ, mọi quyền lợi đều rơi vào tay bọn nước ngoài, và ông, ông thật sự chỉ là một kẻ làm thuê cho chúng mà thôi. Kẻ có học càng biết lắm mối buồn càng nặng. Cái mầm tuyệt vọng vả chăng đã nằm trong huyết thống gia đình ông rồi?
Giờ đây, sau khi nghe Lộc khuyến dụ, ông không lao lung sợ hãi, nhưng lại thấy thấm thía một nỗi buồn thương thê thiết. Bao giờ, bao giờ mới tới lúc khổ tận cam lai, mới tới lúc những bất công bị san bằng, người chính trực khỏi gặp cơn bĩ cực, phải ngậm đắng nuốt cay trước bọn bần tiện gặp thời thế làm nên khanh tướng?
Vào lúc những tủi buồn, cay chua đang dâng lên nghẹn ngào và hai cánh mũi cay nhức lên, ông Bằng bỗng ngẩng lên. Lộc đã bước tới cạnh Tâm. Tâm vẫn đứng, hai chân giữ thế, hai tay buông xuôi thoải mái, nhưng những ngón tay co co lại, toàn thân toát lên một sự bền vững và hơi ngạo nghễ.
— Nào, bây giờ tôi nói chuyện với ông, ông Tâm — Lộc ngồi xuống ghế, hếch cằm, châm xì gà — Có phải ông từ Yên Bái lên?
— Không phải!
— Vậy ông làm thợ ở đề-pô Phố Mới?
— Tôi làm thợ ở đó.
— Nhưng ông được giao nhiệm vụ gây bạo loạn để cướp chính quyền?
— Không phải là gây bạo loạn.
Soạt! Lộc kéo chân, đứng dậy. Ông Bằng thót mình. Lộc nổi khùng rồi? Không! Lộc nén. Mặt y đỏ bầm. Y thở một hơi dài, rồi chợt cất tiếng cười lấp:
— Ông Tâm, ông nên thức thời hơn. Tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn, gặp lúc hoạn nạn phải xử theo hoạn nạn. Ông nên hiểu, hiện ông đang ở trong tay chúng tôi. Hà! Sỉ tính cương thiệt tích nhu... Lưỡi mềm thì còn mãi, có phải không, ông chủ sự?
Ông Bằng giật khẽ người một cái, rồi ngồi lặng. Nhưng lo âu chưa kịp hiện trên nét mặt ông thì Tâm đã quay đầu lại, nhìn Lộc, thật tự nhiên:
— Ông Tỉnh đảng trưởng. Theo chỗ tôi biết, ở những ngôi mộ cổ mấy nghìn năm người ta đào được, thì lưỡi đã thành đất, và chỉ có răng là còn. Răng cứng vẫn còn!
Trời! Câu trả lời đanh thép, sâu sắc mà giản dị xiết bao! Người ông Bằng bừng nở trong bàng hoàng.
Lộc chồm ngay tới sát Tâm khi Tâm vừa nói xong câu ấy. Y tẽn. Y kiễng chân lên, nắm hai vai Tâm lắc và gào:
— Mày bướng! Mày bướng! Tao sẽ giết chết mày! Thằng cộng sản Tâm!
Mặc dù đã chuẩn bị, Tâm hiểu rằng bọn đao phủ còn muốn dùng việc tra tấn anh để áp đảo ông chủ sự Bằng, nhưng cú đánh đầu tiên cũng vẫn là bất ngờ. Bốp! Khi Lộc tung mẩu xì gà vào cửa lò sưởi, một cú đấm từ phía sau đã giáng trúng gáy Tâm. Anh ngã dập mặt ngay xuống nền đá hoa.
— Kéo nó đứng lên!
Cổ áo săng đay của Tâm bị giật mạnh. Mặt Tâm tối sẫm. Hai bên mép Tâm rỉ hai dòng máu đỏ.
— Tao sẽ đánh chết mày.
— Tao sẽ bắt mày phải khai!
— Đừng hòng! Tao là hòn đá cuội!
Bốp! Một cú đấm nặng như một quả búa tạ bổ trúng đầu Tâm. Tâm loạng choạng. Anh chưa kịp ngã, một quả đấm khác đã móc ngược lên, hất ngửa người anh ra sau. Đầu đập mạnh vào tường, nghe bẹp một tiếng, óc anh tưởng như vỡ nát.
— Đánh chết nó đi, nó biết ngậm cúc áo khi tra điện. Nó là cộng sản nòi!
— Khoan! Khoan! Để tao hỏi. Thế nào con: con có nhận là đã cầm đầu bọn thợ ở đề-pô không?
Tâm ngẩng đầu:
— Mày cần phải học lấy phép lịch sự!
— Hố hố hố...
Bốn tên võ sĩ xúm quanh anh cùng cất tiếng cười. Nhưng chúng tắt ngay tiếng cười như tắt máy. Mặt chúng trở lại hầm hầm y như lúc chúng lên đài muốn ăn tươi nuốt sống địch thủ. Tâm không còn nhận biết được những quả đấm bay tới từ hướng nào nữa.
Người anh như một cái bao cát, khi bắn sang góc này, lúc bật lại góc kia. Những cú đấm thẳng. Những cú đấm xốc. Chặt. Chém. Bổ. Những cú đấm nhà nghề của bọn võ sĩ. Ức anh hực lên, nghẹt thở. Cằm, cổ, quai hàm, thái dương anh ê nhức, tưởng như đã giập gãy tan tành. Ngực, bụng anh quặn thắt. Gan phổi dạ dày bị xới đảo, lộn tung.
— Thôi, ngừng tay, khéo nó chết. Để tao hỏi: Tâm, ai giao nhiệm vụ cho mày tổ chức đội tự vệ công nhân?
Mở mắt, Tâm chỉ thấy một màng nước đặc như đóng băng ở phía trước.
— Ai giao nhiệm vụ cho mày?
— Không ai giao cho tao cả.
— Mày đã ở tù Sơn La?
— Phải.
— Chi bộ đề-pô của mày có những ai?
— Tao không biết.
— Khẩu mil-tay-ét tước của lính Nhật mày giấu ở đâu?
— Không biết!
— Này thì không biết! Này thì hòn đá cuội!
Tâm rên lên một tiếng. Cú đấm xốc, trúng xương mỏ ác, hất ngược lên, hiểm ác quá. Ngực Tâm tắc nghẹt. Mặc! Những trái đấm võ sĩ nhà nghề cứ bằm bập nện khắp người anh. Những cú đấm vừa nặng vừa xoáy. Anh rũ xuống lại bị tung dậy. Anh ngã xuống rồi lại bị dựng lên. Cho tới lúc như một nhành lá héo quắt, anh nằm lịm dưới sàn nhà.
— Thưa, Tỉnh đảng trưởng... có lẽ nó chết mất ạ.
Lộc nhón từng bước giày đi tới cái xác người thợ. Y lé mắt nhìn ông Bằng. Lạ chưa! Ông Bằng không cúi đầu, không che mắt. Ông như một pho tượng. Mồ hôi đầm đìa trên mặt, môi mím chặt, xương quai hàm nổi vệt. Ông đang đối mặt với kẻ thù hay chính ông đang chịu cực hình tra khảo?
Lộc uất, tiếng khê đặc:
— Đ. mẹ! Tối nay cho nó trôi sông! Đừng bướng? Hòn đá cuội! Đập không vỡ thì cho mẹ nó xuống nước! Nhớ chưa!
Nói câu cuối cùng, Lộc quay về phía ông Bằng.
Mở choàng mắt. Tâm nhổm ngay dậy khi vừa bắt phải một cảm giác lạ. Trước mặt anh có tiếng cười. Anh dụi mắt. Tiếng cười tắt. Mặt gã đàn ông hiện ra trong màn tối căn hầm.
— Mày chưa chết, hả? Tội gì thế?
Tâm ngồi dịch vào vách hầm. Mặt gã đàn ông đã lộ rõ: to phệnh, nhẵn lì, ria mép xoắn vểnh, ngang ngạnh. Gã cởi trần, cổ ụ, ngực bụ xăm hình hai con rồng vờn mặt trời.
Tâm nghiêm mặt:
— Ăn nói cho tử tế! Ta còn sống. Sống mãi. "Tội" gì hả? Tội làm Việt Minh, tội cờ đỏ sao vàng!
Gã đàn ông ngẩn mặt. Nhưng ngay lập tức, gã phục xuống, chắp hai tay, vái Tâm liền ba vái.
— Làm cái gì thế! — Tâm gắt.
— Thưa anh! Tôi là Trương Căm, vốn là hiệp sĩ cầm đầu Man di khai sáng. Không may, tôi sa cơ, bị họ bắt. Tôi biết anh là hòn đá cuội Cộng sản. Tôi xin bái phục anh.
Cửa lò thông hơi như vừa bị bịt kín. Căn hầm lại tối âm âm. Bóng hình gã Trương Căm chìm đi đâu mất.
Tâm nghe thấy tiếng chân người xê dịch và tiếng ông lão reo:
— A! Anh ấy tỉnh rồi.
Thực ra, Tâm lại bị ngất. Trận đòn thù ác hiểm quá. Anh khỏe, chứ không thì đã chết rồi. Lát sau, ngửi thấy mùi nước tiểu khai khai, anh tỉnh lại thì thấy đầu mình gối trên đùi ông lão.
— Anh ơi?
Tâm hé mắt, Ngọc vừa cúi xuống nhìn anh. Giọng ông lão như một hồi chuông đồng:
— Anh ơi? Mẹ cha quân Cướp dân đểu. Nó đấm anh thâm tím cả mình mẩy đây này. Thằng võ sĩ Vận có lần còn đấm chết một tay bốc-xơ đấy. Anh ơi! Giá mà có ít mật gấu. Mật gấu thật, để trong lòng bàn tay ê cả mu bàn tay kia, thì bóp nhõn lần là anh khỏi ngay thôi. Trời, anh ho nữa kia. Anh ơi! Tối nay chúng định giết anh đấy, anh ơi...
Ngọc đỡ lưng người thợ sau cơn ho của anh rồi ngồi lặng. Mắt Ngọc, lệ từ đâu đang dồn về. Anh đang chứng kiến những giây phút cuối cùng của một con người, một người thợ gang thép. Cái khía cạnh ấy ở con người, với Ngọc giờ đối với anh như một sự phát hiện. Xưa nay, anh chỉ quen và yêu những giai điệu êm đềm trong tĩnh tại. Giữa Ngọc và con người nọ, Ngọc đã nhìn ra một khoảng cách rộng, Ngọc đứng ở bên này, nhỏ nhoi, yếu hèn; phía bên kia, người thợ cường tráng, mạnh mẽ, ngạo nghễ.
Ông lão lại cúi xuống nhìn Tâm, khẽ nấc trong cổ họng:
— Anh ơi! Quê anh ở đâu? Chúng nó sắp giết anh rồi đấy. Anh có nhắn gì cho ai không?
Tâm mở to mắt. Vầng trán không nét nhăn, thanh thản. Và Tâm từ từ ngồi dậy, nhìn ông lão, nhìn Ngọc.
Tâm sẽ bị chúng giết ư? Nếu chúng có thể giết được thì chúng chỉ có thể giết được một mình Tâm thôi. Còn giai cấp của Tâm, còn những lực lượng tiên phong dồi dào sinh lực của cả đất nước này, chúng làm sao có thể tiêu diệt được? Từ buổi dấn thân vào cuộc tranh đấu, Tâm đã hiểu ra điều đó. Tâm không biết sợ. Sức Tâm lại khỏe. Gánh vã đi cả ngày không mỏi. Bơi sông nước cả buổi không mệt. Phải chăng là cả cuộc đời lam lũ cực nhọc, luôn phải xông pha, đương đầu với bất trắc, va chạm với đủ loại người mà tính Tâm thế, mà sức Tâm được nên thế?
Chao ôi! Chẳng phải chỉ có mình Tâm sống lam lũ vất vả. Cả bốn anh em Tâm đều thế cả. Bà mẹ chia những viên cám cuối cùng cho bốn con buổi ấy xong, là mỗi người một ngả. Anh cả Tâm đi Nam Kỳ, Tâm và ba em ra Hà Nội. Gánh nước, kéo xe. Đi ở, làm bếp. Rồi đi khai khẩn đất hoang cho nhà chung ở mạn sông Chảy. Hết việc lại đi làm phu lục lộ. Phu lục lộ khổ lắm. "Một ngày hai bữa cơm bô. Ăn rồi lại đẩy hồ lô dọc đường". Dọc đường đây là dọc đường số bốn. Tây năm ấy đang mở đường biên giới. Cái hồ lô bánh to bằng cái nia, phải hai mươi người kéo, đẩy. Đã thế còn bị Cai Tu đánh đập. Một lần, uất quá anh em trói Cai Tu giữa rừng, đánh trả thù. Vào tù, bọn cai ngục hỏi: "Ai xui mày? Cộng sản hả?". A! Nếu thế thì tao làm Cộng sản cho chúng mày biết tay. Thoạt đầu, chỉ có nỗi căm uất. Ở tù Sơn La gặp những chiến sĩ Cộng sản, những tia sáng mới rọi vào tâm trí u uất, bùng lên thành ngọn lửa trong Tâm. Vượt ngục, về mỏ phốt phát Cam Đường vận động lập Hội Ái hữu, rồi đoàn thể lại điều về đề-pô Phố Mới. Dạo đó, đang cần liên lạc thông suốt con đường ra hải ngoại. Con tàu nối liền các ga. Con tàu làm giao thông cho xứ ủy. Tâm ngồi trong cái tăng-đe than bánh xếp cao chất ngất bốn bề. Lần này Tâm phải giấu mình, thằng địch đã một lần bắt hụt Tâm ở thị trấn. Tàu đang qua cột tín hiệu. Gió lộng quẩn trong tăng-đe. Trí óc Tâm phơi phới: Thời cơ tới rồi! Trung ương quyết định giải phóng Lào Cai. Cán bộ, bộ đội đang lên. Đề-pô Phố Mới phải là một mũi!
Tâm khép mắt. Tâm mệt quá. Ảo ảnh chập chờn.
Ông lão vội ôm chặt Tâm. Đầu Tâm vừa đập mạnh xuống đất. Ông lão thất thanh: Anh Tâm! Anh Tâm! Gã Trương Căm lê sền sệt lại cạnh người thợ. Ông lão xua tay. Tâm mở bừng mắt, bên tai loáng thoáng những tiếng nói run rẩy:
— Anh ơi! Tôi có thể giúp anh...
— Giúp cái gì!
Ông lão xẵng với Trương Căm. Gã tướng cướp cúi xuống, cái cổ đầy ụ thịt:
— Tôi... có thể... vượt ngục...
Tâm ngồi dậy, mắt chớp chớp:
— Ông Trương Căm? Ra tù ông sẽ làm gì? Dân ta đã khốn khổ lắm rồi...
Phía Phố Mới có tiếng còi tàu hú lanh lảnh.
Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe - Ma Văn Kháng Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe