Chương 4 - Người Du Khách Trở Về
ùa sao chứ!” bà Sutcliffe nói, giọng khó chịu, khi Ly bà nhìn ra cửa sổ khách sạn, “mẹ không hiểu tại sao khi trở về Anh thì trời lại mưa suốt như vậy. Nó khiến mọi thứ trở nên sầu não.”
“Con thì nghĩ thật vui vì được về nhà,” Jennifer nói. “Được nghe người ta nói tiếng Anh trên phố! Và lúc này chúng ta có thể thưởng một bữa trà ngon thực sự. Bánh mì và bơ và mứt cùng bánh nướng đúng nghĩa.”
“Mẹ ước gì con đừng thiển cận như thế, con yêu ạ,” bà Sutcliffe nói. “Mẹ đưa con đi nước ngoài, đến tận Vùng Vịnh, thế mà con lại bảo thà ở nhà còn hơn, thì thử hỏi việc mẹ làm còn ý nghĩa gì chứ?”
“Con có phiền gì chuyện đi nước ngoài một vài tháng đâu ạ,” Jennifer nói. “Con chỉ bảo là con thấy vui vì được về nhà thôi mà.”
“Thôi con tránh ra cho mẹ nhờ nào, để mẹ xem họ đã mang đủ hành lý lên hết chưa. Nói thực, mẹ cảm thấy - mẹ cảm thấy từ khi cuộc chiến bắt đầu, người ta đã trở nên dối trá. Mẹ dám chắc nếu mẹ không để mắt mọi thứ, thì lúc ở Tilbury, người đàn ông kia đã khoắng cái túi màu xanh có khóa kéo rồi. Lại còn một kẻ khác lảng vảng gần hành lý nữa chứ. Mẹ thấy hắn sau khi lên tàu. Con biết đấy, mẹ tin rằng bọn trộm cắp hợp với chốn tàu xe lắm, nếu người ta say sóng hoặc buồn nôn là chúng sẽ biến đi cùng với mấy chiếc va-li.”
“Ồ, mẹ toàn nghĩ như vậy thôi,” Jennifer nói. “Mẹ cứ nghĩ những người mẹ gặp toàn gian trá cả.”
“Hầu hết họ như thế mà,” bà Sutcliffe nói dứt khoát.
“Người Anh thì không,” Jennifer kiên định nói.
“Thế lại càng tệ,” mẹ cô bé nói. “Người Ả Rập và người nước ngoài thì chẳng trông đợi gì, nhưng ở Anh họ thiếu cảnh giác và điều đó lại càng tạo thuận lợi hơn cho những kẻ bất lương. Để mẹ đếm xem nào. Cái vali lớn màu xanh kia và cái màu đen, và hai cái nhỏ màu nâu, một cái túi khóa và gậy đánh golf, và vợt tennis, túi xách, túi vải - và cái túi xanh lá đâu nhỉ? Ô, đây rồi. Còn cái hộp thiếc chúng ta mua để đựng mấy thứ đâu nhỉ - à đây, một hai, ba, bốn, năm, sáu- được rồi, đủ hết. Tất cả ở đây có mười bốn món.”
“Chúng ta không thể uống trà bây giờ được sao?” Jennifer nói.
“Trà ư? Mới ba giờ thôi mà.”
“Con đói lắm rồi.”
“Được rồi, được rồi. Con xuống một mình đi và gọi trà nhé? Mẹ thực sự phải nghỉ ngơi, rồi sau đó còn phải mở những thứ cần dùng tối nay nữa. Thật tệ là cha con không thể gặp chúng ta được. Tại sao ông ấy lại có cuộc họp quan trọng của ban giám đốc ở Newcastle-on-Tyne vào hôm nay nhỉ, mẹ không tài nào tưởng tượng nổi. Đáng ra bố con phải nghĩ đến vợ và con gái là trên hết chứ. Nhất là ba tháng nay ông ấy không gặp chúng ta rồi còn gì. Con chắc là có thể tự xoay xở được chứ?”
“Ôi trời đất ơi,” Jennifer nói, “mẹ nghĩ con mấy tuổi rồi nào? Mẹ cho con ít tiền được không? Con không còn đồng tiền Anh nào cả.”
Cô bé nhận lấy tờ mười si-ling từ tay mẹ, rồi cau có bước ra ngoài.
Điện thoại cạnh giường đổ chuông. Bà Sutcliffe bước đến nhấc ống nghe.
“A-lô… Vâng… Vâng, tôi là Sutcliffe đây…”
Có tiếng gõ cửa. Bà Sutcliffe nói vào ống nghe, “Đợi một lát,” rồi đặt ống nghe xuống và bước đến cửa. Một thanh niên đứng đó, mặc quần yếm màu xanh thẫm, tay cầm bộ dụng cụ nhỏ.
“Tôi là thợ điện,” anh ta nói luôn. “Đèn trong phòng không được tốt. Tôi được cử đến để kiểm tra.”
“Ô - được thôi…”
Bà lùi lại. Thợ điện đi vào.
“Phòng tắm ở đâu nhỉ?”
“Đằng kia - bên kia phòng ngủ.”
Bà quay lại nghe điện thoại.
“Tôi xin lỗi… Anh đang nói gì nhỉ?”
“Tôi là Derek O’Connor. Có lẽ tôi nên đến phòng bà, thưa bà Sutcliffe. Là về em trai bà.”
“Bob ư? Có - tin gì về nó sao?”
“Vâng - tôi e là vậy.”
“Ô… Ô, tôi hiểu rồi… Vâng, anh cứ đến đi. Ở tầng ba, phòng 310.”
Bà ngồi lên giường. Bà đã biết tin đấy là gì.
Ngay lúc đó, có tiếng gõ cửa và bà ra mở, một thanh niên bắt tay bà một cách nhã nhặn phù hợp.
“Anh ở Bộ ngoại giao phải không?”
“Tôi là Derek O’Connor. Cấp trên cử tôi đến đây, vì dường như không có ai khác có thể báo tin này cho bà.”
“Xin anh nói xem,” bà Sutcliffe nói. “Cậu ấy bị giết rồi. Phải không?”
“Đúng vậy, thưa bà Sutcliffe. Anh ấy chở Quốc vương Ali Yusuf rời Ramat, và máy bay đâm vào núi.”
“Sao tôi không nghe tin gì nhỉ - tại sao không ai đánh điện lên thuyền?”
“Mãi vài ngày gần đây mới có tin chính xác. Người ta chỉ biết máy bay mất tích, chỉ có vậy thôi. Trong hoàn cảnh này, vẫn còn hi vọng. Nhưng bây giờ, xác máy bay đã tìm thấy… tôi chắc bà sẽ vơi lòng khi biết rằng cái chết xảy ra ngay tức thì.”
“Quốc vương cũng bị chết sao?”
“Vâng.”
“Tôi cũng không ngạc nhiên lắm,” bà Sutcliffe nói. Giọng bà hơi run rẩy, nhưng bà hoàn toàn kiểm soát bản thân. “Tôi biết Bob sẽ chết trẻ. Cậu ấy bao giờ cũng táo bạo, anh biết đấy - luôn bay những chiếc máy bay mới, thử những trò mạo hiểm mới. Bốn năm qua tôi chẳng còn hi vọng gì về cậu ấy nữa. Ồ vâng, người ta đâu thể thay đổi người khác được, phải không?”
“Quả thế,” vị khách nói, “tôi e là vậy.”
“Henry luôn bảo cậu ấy sớm muộn cũng tự nghiền nát bản thân,” bà Sutcliffe nói. Dường như bà tìm thấy chút hài lòng buồn bã trước lời tiên đoán chính xác của chồng bà. Một giọt lệ đổ xuống gò má, bà tìm chiếc khăn tay. “Quả là một cú sốc,” bà nói.
“Tôi biết - tôi rất lấy làm tiếc.”
“Bob không thể chạy trốn, dĩ nhiên rồi,” bà Sutcliffe nói, “Ý tôi là, cậu ấy đã chọn công việc làm phi công cho Quốc vươưg. Tôi hẳn sẽ không muốn cậu ấy từ bỏ. Cậu ấy là một phi công giỏi nữa. Tôi dám chắc nếu máy bay đâm vào núi, đó không phải lỗi cậu ấy.”
“Đúng vậy,” O’Connor nói, “đấy chắc chắn không phải lỗi của anh ấy. Để đưa Quốc vương ra khỏi biên giới, hi vọng duy nhất là bằng đường không, bất kể trong hoàn cảnh nào. Đó là một chuyện rất mạo hiểm, và sự cố đã xảy ra.”
Bà Sutcliffe gật đầu.
“Tôi hiểu lắm,” bà nói. “Cảm ơn anh đã đến báo cho tôi hay.”
“Còn một điều nữa,” O’Connor nói, “có điều này tôi phải hỏi bà. Em trai bà có gửi lại cho bà thứ gì để mang về nước Anh không?”
“Gửi gì cho tôi à?” bà Sutcliffe nói. “Ý anh là sao?”
“Anh ấy có đưa cho bà - một gói đồ - một gói nhỏ để mang về và chuyển lại cho ai đó ở Anh không?”
Bà lắc đầu băn khoăn. “Không. Sao anh nghĩ cậu ấy làm vậy?”
“Có một gói đồ khá quan trọng mà chúng tôi nghĩ em trai bà hẳn đã đưa cho ai đó để chuyển về nước. Anh ấy đến thăm bà tại khách sạn vào hôm đó - ngày xảy ra cuộc Cách mạng, ý tôi là vậy.”
“Tôi biết. Cậu ấy có để lại một bức thư. Nhưng trong thư không nói gì - chỉ nói vớ vẩn về việc hôm sau chơi tennis hay chơi golf thôi. Tôi cho rằng khi viết giấy nhắn, cậu ấy không biết mình sẽ phải chở Quốc vương đi ngay chiều hôm đấy.”
“Chỉ có vậy thôi sao?”
“Trong tờ giấy nhắn ư? Vâng.”
“Bà còn giữ không, bà Sutcliffe?”
“Giữ tấm giấy đó à? Dĩ nhiên là không. Chẳng có gì quan trọng. Tôi xé vứt đi rồi. Có việc gì cần sao?”
“Không lý do gì đâu,” O’Connor nói. “Tôi chỉ có phần băn khoăn thôi.”
“Băn khoăn gì cơ?” bà Sutcliffe gắt.
“Liệu trong thư còn thông điệp gì khác ẩn giấu không. Dẫu gì…” anh ta mỉm cười, “Có thứ gọi là mực tàng hình, bà biết đấy.”
“Mực tàng hình!” bà Sutcliffe nói, với vẻ hết sức khó chịu, “Ý anh là cái thứ mà người ta dùng trong những câu chuyện gián điệp sao?”
“Vâng, tôi xin lỗi, nhưng tôi quả có ý như vậy,” O’Connor nói, vẻ hối lỗi.
“Thật vớ vẩn,” bà Sutcliffe nói. “Tôi chắc Bob sẽ không bao giờ dùng bất kỳ cái gì như mực tàng hình. Tại sao cậu ấy phải dùng? Cậu ấy là người thực tế và biết phải trái.” Một giọt lệ lại rỏ xuống gò má bà. “Ô trời, túi của tôi đâu nhỉ? Tôi phải lấy chiếc khăn tay. Có lẽ tôi để ở phòng kia.”
“Tôi sẽ đi lấy cho bà,” O’Connor nói.
Anh ta đi qua cửa thông phòng, và dừng lại khi thấy một thanh niên mặc quần yếm đang cúi người trước một chiếc vali, người này đứng lên nhìn anh, tỏ vẻ giật mình.
“Thợ điện,” người thanh niên vội nói. “Bóng đèn ở đây có vấn đề.”
O’Connor bật thử một công tắc.
“Tôi thấy chúng có vẻ ổn,” anh ta vui vẻ nói.
“Chắc người ta báo nhầm số phòng cho tôi,” thợ điện nói.
Anh ta thu dọn túi dụng cụ và nhanh chóng lẻn ra cửa nối ra hành lang.
O’Connor nhíu mày, cầm chiếc túi ở bàn trang điểm và đưa cho bà Sutcliffe.
“Xin thứ lỗi,” anh ta nói, rồi nhấc điện thoại. “Phòng 310 đây. Các anh có gọi thợ điện lên kiểm tra bóng đèn ở phòng này không? Vâng… Vâng, tôi sẽ chờ máy.”
Anh ta đợi.
“Không ư? Không, tôi nghĩ là không. Không, không có gì đâu.”
Anh ta đặt điện thoại xuống và quay sang bà Sutcliffe.
“Bóng đèn ở phòng này không làm sao cả,” anh ta nói. “Và văn phòng cũng không gọi thợ điện lên đây.”
“Vậy người kia làm gì? Anh ta là trộm ư?”
“Có thể là vậy.”
Bà Sutcliffe nhìn vội vào túi. “Anh ta không lấy gì trong túi của tôi cả. Tiền vẫn còn.”
“Thưa bà Sutcliffe, bà có chắc, tuyệt đối chắc chắn là em trai bà không gửi gì để bà mang về nước chứ, để trong đồ đạc của bà chẳng hạn?”
“Tôi tuyệt đối chắc chắn,” bà Sutcliffe nói.
“Hay con gái bà - bà có cô con gái phải không?”
“Đúng. Con bé đang dùng trà ở dưới nhà.”
“Em trai bà có thể đưa cho cô bé không?”
“Không, tôi chắc là cậu ấy không thể.”
“Còn một khả năng khác,” O’Connor nói. “Hẳn trong khi ngồi chờ trong phòng bà hôm ấy, anh ta giấu gì đó trong hành lý của bà.”
“Nhưng sao Bob lại làm như vậy? Nghe lố bịch quá thể.”
“Không hẳn đâu. Có vẻ như Quốc vương Ali Yusuf đã trao gì đó cho em trai bà nhờ giữ, rồi em trai bà nghĩ để trong đồ đạc của bà sẽ an toàn hơn là giữ lại.”
“Tôi lại thấy điều đó rất khó xảy ra,” bà Sutcliffe nói. “Bà có phiền nếu chúng ta tìm thử không?”
“Tìm trong hành lý của tôi à, ý anh là thế ư? Tháo đồ ra?” Bà Sutcliffe dài giọng nhấn mạnh chữ tháo đồ.
“Tôi biết,” O’Connornói. “Đề nghị bà làm như vậy thật bất nhã. Nhưng điều đó rất quan trọng. Tôi có thể giúp bà,” anh ta nói, giọng thuyết phục. “Tôi quen với việc đóng đồ cho mẹ tôi. Bà ấy bảo tôi là chuyên gia đóng đồ đây.”
Anh ta dùng hết vẻ quyến rũ vốn được Đại tá Pikeaway coi là một tài sản.
“Ồ thế thì,” bà Sutcliffe nói, giọng nhượng bộ, “tôi cho là - nếu anh đã nói vậy - ý tôi là, nếu điều đó thực sự quan trọng…”
“Có thể là rất quan trọng,” Derek O’Connor nói.
“Vâng, bây giờ,” anh ta mỉm cười với bà. “Chúng ta bắt đầu thôi nhỉ.”
Bốn lăm phút sau, Jennifer uống trà trở về. Cô bé nhìn quanh phòng và há hốc miệng vì ngạc nhiên.
“Mẹ ơi, mẹ vừa làm gì thế?”
“Mẹ và chú đây đã dỡ đồ ra,” bà Sutcliffe gắt gỏng nói. “Giờ đóng gói các thứ lại. Đây là chú O’Connor. Con gái tôi, Jennifer.”
“Nhưng tại sao mẹ lại đóng gói rồi lại dỡ ra?”
“Đừng hỏi mẹ tại sao,” bà mẹ cáu kỉnh. “Có người cho là cậu Bob của con đã bỏ gì đó trong hành lý của mẹ để mang về nước. Cậu không đưa gì cho con chứ, Jennifer?”
“Cậu Bob có đưa cho con gì để mang về không à? Không. Mẹ đã dỡ đồ của con chưa?”
“Chúng tôi đã dỡ tất cả rồi,” Derek O’Connor hớn hở nói, “và chúng tôi không tìm thấy gì cả, giờ chúng tôi lại đóng gói lại. Tôi nghĩ bà nên uống chút trà hay gì đó, bà Sutcliffe ạ. Tôi gọi gì đó cho bà dùng nhé? Rượu brandy hoặc soda chẳng hạn?” Anh ta đến bên điện thoại.
“Tôi uống trà cũng được,” bà Sutcliffe.
“Con dùng bữa trà thỏa thích,” Jennifer nói. “Bánh mì và bơ, bánh mì kẹp, bánh ngọt, rồi phục vụ còn mang thêm bánh mì kẹp cho con nữa khi con hỏi xin thêm. Dễ thương quá.”
O’Connor gọi trà, rồi anh ta làm nốt việc đóng gói đồ đạc của bà Sutcliffe với sự gọn gàng và khéo léo buộc bà phải khâm phục dù không muốn.
“Mẹ của anh huấn luyện anh đóng đồ rất giỏi,” bà nói.
“Ồ, tôi có đủ thứ tài lẻ,” O’Connor mỉm cười nói.
Mẹ anh ta đã mất từ lâu, và kĩ năng đóng gói và dỡ đồ đạc anh ta học được hoàn toàn trong thời gian phục vụ Đại tá Pikeaway.
“Một điều nữa, bà Sutcliffe. Tôi mong bà hết sức thận trọng.”
“Thận trọng ư? Như thế nào?”
“À,” O’Connor bỏ lửng, mơ hồ. “Mấy chuyện cách mạng phức tạp lắm. Chúng để lại rất nhiều hệ quả. Bà ở London có lâu không?”
“Ngày mai chúng tôi sẽ về quê. Chồng tôi sẽ lái xe đưa đi.”
“Vậy thì không sao. Nhưng - đừng làm điều gì mạo hiểm. Nếu có chuyện gì bất thường, xin gọi ngay đến 999.”
“Ô ồ!” Jennifer nói, giọng thích thú. “Gọi 999. Con vẫn muốn làm thế.”
“Đừng ngớ ngẩn thế, Jennifer,” mẹ cô bé nói.
Trích bài tường thuật của một tờ báo địa phương.
Hôm qua một người đã phải ra tòa tiểu hình, bị cáo buộc về hành vi xâm nhập vào nơi ở của ông Henry Sutcliffe với ý định ăn trộm. Phòng ngủ của bà Sutcliffe bị lục lọi bừa bộn khi mọi người trong gia đình đang đi nhà thờ vào sáng Chủ nhật. Nhân viên làm bếp lúc đó đang chuẩn bị bữa ăn trưa, không nghe thấy gì. Cảnh sát đã bắt được người đàn ông này khi anh ta đang trốn khỏi ngôi nhà. Rõ ràng anh ta bị giật mình vì chuyện gì đó nên bỏ ra ngoài mà không lấy được gì.
Người đàn ông này tên Andrew Ball, không có chỗ ở cố định, bị tuyên có tội. Anh ta khai bị thất nghiệp và thiếu tiền. Trang sức của bà Sutcliffe, ngoài những món bà mang trên người, đều gửi ở ngân hàng.
“Anh đã dặn em phải khóa cửa sổ phòng khách rồi mà,” ông Sutcliffe nói.
“Henry thân yêu,” bà Sutcliffe nói, “dường như anh không nhận thấy là ba tháng qua em ở nước ngoài. Và dù sao, em dám chắc đọc đâu đó rằng, nếu bọn trộm đã muốn đột nhập thì thể nào chúng cũng vào được thôi.”
Bà nói thêm, vẻ đăm chiêu, khi bà liếc nhìn lại tờ báo địa phương:
“Cái chữ ‘nhân viên nhà bếp’ nghe mới đẹp đẽ làm sao. Thật khác xa với thực tế, bà cụ Ellis thì điếc đặc, và hầu như không đứng thẳng được, và cái đứa đầu đất con gái nhà Bardwells đến giúp việc vào những sáng Chủ nhật nữa chứ.”
“Điều con không hiểu,” Jennifer nói, “là làm sao cảnh sát phát hiện ra ngôi nhà có kẻ xâm nhập và đến đúng lúc để bắt hắn?”
“Thật khác thường rằng hắn không lấy gì cả,” mẹ cô bé nhận xét.
“Em có chắc không, Joan?” chồng bà hỏi. “Ban đầu em còn không chắc mà.”
Bà Sutcliffe cất tiếng thở dài khó chịu.
“Việc như thế thật không thể nào nói thẳng ngay ra được. Đống hỗn loạn trong phòng em - mọi thứ bị vứt khắp nơi, ngăn bàn bị kéo ra rồi lật ngược. Em đã xem kỹ càng mọi thứ mới dám chắc - dù bây giờ nghĩ lại, em nhớ là không thấy chiếc khăn Jacqmar đẹp nhất đâu cả.”
“Con xin lỗi mẹ. Lỗi ở con. Nó bị thổi bay xuống Địa Trung Hải lúc còn ở tàu. Con đã mượn nó. Con định nói với mẹ, nhưng quên mất.”
“Thật ư, Jennifer, mẹ đã nhắc con bao nhiêu lần là muốn mượn gì phải hỏi mẹ trước cơ mà?”
“Con ăn thêm bánh pudding được không?” Jennifer nói lảng.
“Ừ, được. Thật sự, bà Ellis quả là có bàn tay tinh tế tuyệt vời. Cũng đáng tiền thuê, dù cứ phải lớn giọng bà ấy mới nghe ra được. Nhưng mẹ hi vọng rằng ở trường người ta sẽ không nghĩ con là kẻ háu ăn. Meadowbank không phải trường thường đâu, con nhớ đấy.”
“Con không chắc có thích trường ấy không,” Jennifer nói. “Con biết một bạn có họ hàng học ở đó, và bạn ấy bảo trường đấy kinh khủng lắm. Suốt ngày người ta dạy cách lên xuống xe Rolls-Royces ra sao, lại còn phải cư xử thế nào nếu được đi ăn trưa với Nữ Hoàng.”
“Thôi đủ rồi đấy, Jennifer,” bà Sutcliffe nói. “Phải may mắn lắm mới được nhận vào trường Meadowbank, thế mà con chẳng biết trân trọng gì cả. Không phải ai bà Bulstrode cũng nhận vào đâu, mẹ nói con biết. Việc này hoàn toàn nhờ vào địa vị quan trọng của bố con và ảnh hưởng của dì Rosamond của con đấy. Con cực kỳ may mắn. Và nếu,” bà Sutcliffe nói thêm, “con được đi ăn trưa với Nữ Hoàng, thì việc con biết xử sự thế nào ấy cũng là điều tốt chứ.”
“Ô vâng,” Jennifer nói. “Con cứ nghĩ là Nữ Hoàng thường phải đi ăn trưa với những người không biết cách cư xử chứ, kiểu như tù trưởng các bộ lạc châu Phi, tuyển thủ môn jockey và các tiểu vương.”
“Thái độ của các tù trưởng châu Phi là lịch sự nhất đấy,” bố cô bé nói, ông vừa mới công tác ngắn ngày ở Ghana về.
“Các tiểu vương Ả Rập cũng vậy,” bà Sutcliffe nói. “Thật sự lịch lãm.”
“Mẹ có nhớ bữa tiệc của tiểu vương mà chúng ta dự không,” Jennifer nói. “Và cách ông móc mắt cừu tặng mẹ, và cậu Bob huých khuỷu tay bảo mẹ đừng làm ầm lên, mà ăn con mắt ấy đi? Ý con là, nếu ở điện Buckingham mà một tiểu vương làm như vậy với con cừu nướng, điều đó sẽ khiến nữ Hoàng giật bắn người nhỉ, chẳng phải ư?”
“Thôi đủ rồi, Jennifer,” bà mẹ khép chủ đề.
Khi gã Andrew Ball vô gia cư bị kết án ba tháng tù vì tội phá cửa và đột nhập, thì Derek O’Connor, người đang chiếm một vị trí khiêm tốn ở phía cuối phòng xử của tòa Tiểu hình, gọi điện thoại đến một số máy của Bảo tàng.
“Khi bị tóm, trên người hắn không giấu gì cả,” anh ta nói. “Chúng ta đã cho hắn khá nhiều thời gian.”
“Hắn là ai? Có phải người chúng ta biết không?”
“Một người trong nhóm Gecko, tôi nghĩ vậy. Cũng không quan trọng. Bọn họ thuê hắn làm những việc kiểu như này. Không sáng dạ lắm, nhưng hắn được cho là người cẩn thận.”
“Và hắn ngoan ngoãn nhận bản án như một con cừu thế à?” Đại tá Pikeaway nhếch mép ở đầu dây bên kia.
“Vâng. Hình ảnh hoàn hảo của một gã ngốc từ cuộc đời lương thiện bị đẩy vào vòng sa ngã. Không thể tìm được mối liên hệ giữa hắn với những vụ nghiêm trọng. Tất nhiên, giá trị của hắn là ở chỗ đó.”
“Hắn không tìm thấy gì,” Đại tá Pikeaway đăm chiêu. “Cậu cũng không tìm thấy gì cả. Có vẻ như chẳng có gì phải tìm cả, đúng không? Chúng ta cứ nghĩ Rawlinson gài món này vào đồ đạc của chị gái hóa ra lại sai.”
“Những người khác cũng nghĩ thế.”
“Hiển nhiên là vậy… Có lẽ chúng ta mắc mưu rồi.”
“Có lẽ vậy. Còn khả năng nào khác không?”
“Nhiều lắm. Vật đó có thể vẫn còn ở Ramat. Được giấu đâu đó trong khách sạn Ritz Savoy, có lẽ vậy. Hoặc Rawlinson đã chuyển cho ai đó trên đường anh ta đến bãi đáp. Có chút manh mối trong lời khai của ông Robinson. Một phụ nữ đang giữ nó. Hoặc có lẽ bà Sutcliffe đã giữ nó ngay từ đầu mà bà ta không biết, và quẳng nó xuống Biển Đỏ cùng với thứ mà bà ta không còn dùng nữa.
“Và như vậy,” ông ta nói vẻ trầm ngâm, “có lẽ là điều tốt nhất.”
“Ô, thôi nào, thứ đó giá trị hàng đống tiền đấy, thưa sếp.”
“Mạng người cũng đáng giá lắm,” Đại tá Pikeaway nói.
Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu - Agatha Christie Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu