Và Rồi Núi Vọng epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 3
a
MÙA XUÂN NĂM 1949
Trước khi kéo chăn ra và nhìn thấy nó, Parwana đã ngửi thấy thứ mùi ấy rồi. Nó bê bết khắp mông Masooma, chảy xuống đùi, dính cả vào tấm trải giường lẫn chăn nệm. Masooma ngước nhìn cô qua vai với vẻ rụt rè cầu xin tha thứ, xen lẫn xấu hổ - vẫn nỗi xấu hổ ấy sau ngần ấy thời gian, ngần ấy năm.
“Chị xin lỗi,” Masooma thì thầm.
Parwana muốn gào lên nhưng cô nén lại thành một nụ cười yếu ớt. Những lúc như lúc này cô phải gồng mình để nhớ, để không lãng quên, một sự thật chẳng thể nào lay chuyển: Đây là tác phẩm của chính cô, cái mớ hỗn độn này. Chẳng có gì đổ xuống đầu cô là bất công hay vô lý. Đây là những gì cô đáng phải nhận. Cô thở dài, xem xét chỗ vải bẩn, ghê sợ công việc đang chờ đợi mình. “Em sẽ lau sạch cho chị,” cô nói.
Masooma bắt đầu khóc không thành tiếng, thậm chí không cả thay đổi nét mặt. Chỉ có nước mắt, trào lên, chảy dài.
Bên ngoài, trong hơi lạnh ban sớm, Parwana nhóm một ngọn lửa trong lò đất. Khi lửa bốc, cô đổ đầy nước lấy từ cái giếng chung ở Shadbagh vào xô rồi hơ nóng. Cô sưởi lòng bàn tay bên ngọn lửa. Từ đây cô có thể thấy chiếc cối xay gió và nhà thờ làng, nơi giáo sĩ Shekib dạy cô và Masooma đọc khi họ còn nhỏ, và cả nhà của ông, nằm dưới chân một sườn đồi thoai thoải. Lát nữa, khi mặt trời lên, mái nhà sẽ trở thành một hình vuông đỏ rực hoàn hảo trên làn bụi nhờ những quả cà chua mà vợ ông đem ra phơi khô dưới nắng. Parwana ngước nhìn những vì sao sớm mai, tàn dần, nhạt nhòa, thờ ơ nhấp nháy với mình. Cô trấn tĩnh lại.
Vào nhà, cô lật Masooma nằm sấp xuống. Cô nhúng khăn vào nước rồi lau sạch mông Masooma, chùi chất thải khỏi lưng và đôi chân nhũn nhẽo của chị gái.
“Sao phải dùng nước ấm?” Masooma nói vào gối. “Sao phải khổ thế làm gì? Em không cần làm vậy. Chị có phân biệt được đâu.”
“Có thể. Nhưng em thì phân biệt được,” Parwana nói, nhăn mặt trước mùi thối. “Thôi đừng nói nữa để em làm cho xong nào.”
Từ đây, một ngày của Parwana lại trải ra như bao ngày khác, như bốn năm nay từ khi cha mẹ họ mất. Cô cho gà ăn. Cô chẻ củi rồi quẩy thùng ra giếng gánh nước hết lượt này đến lượt khác. Cô nhào bột và nướng bánh mì trong tandoor bên ngoài căn nhà trát bùn. Cô quét nhà. Vào buổi chiều, cô ngồi xổm bên suối, cùng những người phụ nữ khác trong làng, giặt đồ bằng cách chà quần áo vào đá. Sau đó, vì hôm nay là thứ Sáu, cô ra nghĩa trang thăm mộ cha mẹ và nói lời cầu nguyện ngắn ngủi cho mỗi người. Và cả ngày, xen giữa việc nhà tất bật, cô lại dành thời gian đổi tư thế cho Masooma, từ bên này sang bên kia, nhét một cái gối vào một bên mông chị, rồi đến bên còn lại.
Hôm ấy, cô trông thấy Saboor hai lần.
Cô thấy anh ngồi xổm bên ngoài căn nhà nhỏ trát bùn, quạt lửa trong lò đất, mắt nheo lại vì khói, bên cạnh là cậu con trai Abdullah. Lát sau cô thấy anh nói chuyện với mấy người đàn ông khác, những người giống như Saboor, giờ đã có gia đình riêng nhưng một thời từng là đám trẻ làng đánh nhau với Saboor, cùng thả diều, đuổi chó, chơi trò trốn tìm. Thời gian này Saboor đang mang gánh nặng lớn, một tấn thảm kịch, vợ chết và hai đứa con mồ côi mẹ, trong đó một đứa mới chào đời. Giờ anh nói bằng thứ giọng mệt mỏi, rất khó nghe. Anh vác cái bộ dạng hốc hác tiều tụy đi lại trong làng.
Parwana nhìn anh từ xa với một niềm khao khát gần như đau đớn. Cô cố ngoảnh đi khi bước qua anh. Và nhỡ họ có vô tình chạm mắt nhau, anh chỉ gật đầu với cô thôi là máu đã dồn lên mặt cô.
Đêm ấy, khi Parwana đặt lưng xuống ngủ, cô hầu như không thể nhấc tay lên. Đầu cô mụ mị vì kiệt sức. Cô nằm trên giường, đợi chờ giấc ngủ tới.
Rồi, trong bóng tối:
“Parwana ơi?”
“Dạ.”
“Em có nhớ cái lần chúng ta đi xe đạp cùng nhau không?”
“Ừm.”
“Chúng ta đi nhanh thật! Lao vun vút xuống đồi. Lũ chó đuổi theo chúng ta.”
“Em nhớ.”
“Cả hai chúng ta đều hét. Và khi chúng ta va phải đá…” Parwana cơ hồ nghe thấy chị mình cười trong bóng tối. “Mẹ giận chúng ta ghê. Cả Nabi nữa. Chúng ta đã làm hỏng xe đạp của anh ấy.”
Parwana nhắm mắt lại.
“Parwana à?”
“Dạ.”
“Tối nay em ngủ với chị được không?”
Parwana đạp chăn ra, sang bên kia căn nhà tranh tới chỗ Masooma, và chui vào chăn nằm cạnh chị. Masooma gối má lên vai Parwana, một tay vắt ngang ngực em gái.
Masooma thì thầm, “Em xứng đáng có được nhiều thứ hơn là ở đây với chị nhiều.”
“Đừng thế nữa,” Parwana thì thầm lại. Cô vuốt tóc Masooma thật lâu, thật kiên nhẫn, đúng kiểu Masooma thích.
Họ rì rầm tán gẫu vu vơ một lúc về những chuyện nhỏ nhặt, vặt vãnh, hơi thở người nọ tỏa ấm khuôn mặt người kia. Đây là những giây phút khá hạnh phúc với Parwana. Chúng gợi nhắc cô về thời thơ ấu của hai chị em, cuộn tròn dưới chăn, mũi chạm mũi, nhỏ to những bí mật và các câu chuyện phiếm, khúc khích cười không ra tiếng. Chẳng mấy chốc, Masooma đã thiu thiu ngủ, đánh lưỡi chóp chép trong một giấc mơ nào đó, còn Parwana đăm đăm nhìn ra bầu trời đen thẫm ngoài cửa sổ. Tâm trí cô thoắt chuyển từ suy nghĩ rời rạc này sang suy nghĩ rời rạc khác và cuối cùng trôi đến một bức ảnh cô từng nhìn thấy trong một tạp chí cũ, chụp hai anh em người Xiêm dính liền thân, khuôn mặt ảm đạm. Cả hai người dính chặt vào nhau, máu hình thành trong tủy sống người này chảy trong tĩnh mạch người kia, sự gắn kết của họ là vĩnh viễn. Parwana cảm thấy đau thắt, tuyệt vọng, như bị một bàn tay siết chặt bên trong lồng ngực. Cô lấy hơi. Cô cố lái suy nghĩ sang Saboor một lần nữa và thay vào đó cô thấy tâm trí mình dạt tới lời đồn mà cô nghe thấy trong làng: rằng anh đang tìm một người vợ mới. Cô xua hình ảnh khuôn mặt anh khỏi đầu mình. Cô gạt suy nghĩ ngốc nghếch ấy đi.
Parwana là một ngạc nhiên.
Masooma vừa lọt lòng, đang khẽ ngọ nguậy trong vòng tay bà đỡ thì mẹ họ hét lên và một chỏm đầu nữa ló ra. Masooma chào đời thật suôn sẻ. Con bé tự mình chui ra, một thiên thần, sau này bà đỡ đã nói vậy. Ca sinh Parwana thì kéo dài, khiến người mẹ quằn quại đau đớn, gây nguy hiểm cho cả đứa trẻ. Bà đỡ phải gỡ Parwana khỏi đám dây rốn quấn quanh cổ, như trong cơn lo sợ kinh hoàng vì phải phân ly. Trong những khoảnh khắc tồi tệ nhất của mình, khi vô phương tránh khỏi bị dòng xoáy căm ghét bản thân nuốt chửng, Parwana nghĩ rằng có lẽ cái dây rốn biết rõ nhất. Có lẽ nó biết nửa nào tốt hơn.
Masooma ăn đúng cữ, ngủ đúng giờ. Chị chỉ khóc nếu đói hoặc cần được lau rửa. Lúc thức, chị nghịch ngợm, tươi tỉnh, dễ vui, một bọc tã ngập tràn tiếng khúc khích và ré cười hạnh phúc. Chị thích ngậm cái lục lạc đồ chơi của mình.
Thật là một đứa bé ngoan, người ta nói thế.
Parwana thì khó nuôi. Nó mang hết mọi quyền lực ra hành mẹ. Cha họ, lúng túng trước sự ngang ngược của đứa con mới sinh, bèn mang con trai lớn trốn sang nhà anh trai ngủ. Ban đêm là khoảng thời gian vất vả tột cùng cho mẹ lũ trẻ, xen ngang vài phút nghỉ ngơi chập chờn. Đêm nào bà cũng vỗ về Parwana và bế nó đi rong cả đêm. Bà đu đưa và hát ru con. Bà nhăn nhó khi Parwana nghiến bầu ngực trầy xước, căng phồng của mình và ngậm chặt núm vú bà như muốn hút cạn sữa mẹ. Nhưng cho bú cũng không giải quyết được vấn đề: Kể cả với cái bụng no tròn, Parwana vẫn quẫy đạp và gào khóc, thờ ơ trước sự khẩn nài của mẹ.
Masooma từ trong góc nhà quan sát với nét mặt trầm ngâm, bất lực, như thể thương cho nỗi nhọc nhằn của mẹ.
Nabi đâu có như thế này, một hôm mẹ nói với cha.
Mỗi đứa mỗi khác mà.
Nó hành em chết mất, con bé đó.
Rồi sẽ qua thôi, ông nói. Như thời tiết xấu qua đi ấy.
Và rồi cũng qua đi thật. Có lẽ như một cơn đau bụng, hoặc một căn bệnh nhẹ. Nhưng quá muộn. Parwana đã ghi dấu ấn rồi.
Một chiều cuối hè, khi hai đứa trẻ sinh đôi được mười tháng tuổi, dân làng tụ họp tại Shadbagh sau một đám cưới. Cánh phụ nữ hết sức chăm chú bày biện những đĩa cơm trắng nở bung điểm nghệ tây hình kim tự tháp. Họ cắt bánh mì, cạo cơm cháy khỏi đáy nồi, chuyền nhau những đĩa cà tím chiên phủ sữa chua và lá bạc hà phơi khô. Nabi ra ngoài chơi với mấy cậu nhóc. Mẹ lũ trẻ ngồi cùng hàng xóm trên một tấm thảm trải dưới chân cây sồi khổng lồ của làng. Thi thoảng, bà lại liếc xuống nhìn hai cô con gái đang ngủ bên nhau dưới bóng râm.
Trong lúc mọi người thưởng trà sau bữa ăn thì lũ trẻ ngủ dậy, và gần như ngay lập tức, có người vồ lấy Masooma. Chị được hân hoan chuyền quanh, từ cô chị họ tới bà thím tới ông cậu. Được tưng trong lòng người này, được giữ yên trên đầu gối người kia. Nhiều bàn tay cù vào cái bụng mềm của chị. Nhiều chiếc mũi cọ vào mũi chị. Họ cười ngả nghiêng khi chị nghịch ngợm túm râu giáo sĩ Shekib. Họ ngạc nhiên trước vẻ thoải mái, dễ gần của chị. Họ nâng chị lên và trầm trồ ngắm bầu má hồng, cặp mắt màu xanh xa phia, đôi mày cong duyên dáng, những dấu hiệu của một nhan sắc tuyệt mỹ mà chỉ vài năm nữa thôi sẽ khiến chị nổi bật.
Parwana bị bỏ lại trong lòng mẹ. Khi Masooma biểu diễn, Parwana lặng lẽ quan sát như có chút hoang mang, một thành viên của đám khán giả nồng nhiệt theo kiểu khác hẳn, kẻ không hiểu sao lại nhặng xị thế này. Thi thoảng, mẹ nhìn xuống nó, nhẹ nhàng siết bàn chân nhỏ xíu, gần như xin lỗi. Khi có người nhận xét Masooma mới nhú hai chiếc răng, mẹ yếu ớt bảo rằng Parwana đã có ba cái rồi. Nhưng chẳng ai để ý.
Năm hai cô bé chín tuổi, nhà họ quây quần tại nhà Saboor dùng bữa iftar* đầu buổi tối để chấm dứt thời gian ăn chay sau lễ Ramadan. Người lớn ngồi trên nệm quanh phòng, nói chuyện ồn ào. Trà, những lời chúc tốt đẹp, và những câu chuyện gẫu được chuyền quanh với tần suất ngang nhau. Các cụ già lần tràng hạt. Parwana ngồi lặng lẽ, hạnh phúc được thở chung bầu không khí với Saboor, được ở trong tầm nhìn của cặp mắt đen tựa mắt cú. Suốt buổi tối ấy, nó nhiều lần đánh liều đưa mắt nhìn về phía anh. Nó bắt gặp anh đang cắn dở một cục đường, hay xoa đường nghiêng mềm mại của vầng trán, hay cười sảng khoái trước điều mà một ông bác vừa nói. Và nếu bị anh phát hiện, đâu như một hai lần, nó vội ngoảnh mặt đi, đờ người vì xấu hổ. Đầu gối nó bắt đầu bủn rủn. Miệng nó khô đến nỗi cơ hồ không nói được.
Còn gọi là bữa “xả chay”.
Rồi Parwana nghĩ đến cuốn sổ giấu dưới đống đồ của nó ở nhà. Saboor lúc nào cũng sáng tác truyện, những câu chuyện đầy ắp jinn và các nàng tiên và yêu quái và div; lũ trẻ làng thường vây quanh anh mà phăng phắc lắng nghe trong khi anh sáng tác những câu chuyện ngụ ngôn cho chúng. Chừng sáu tháng trước, Parwana tình cờ nghe thấy Saboor bảo với Nabi rằng một ngày nào đó anh hy vọng được viết ra những câu chuyện của mình. Chẳng bao lâu sau thì Parwana, cùng mẹ, thấy mình ở một khu chợ nơi thị trấn khác, và ở đó, tại một quầy bán sách cũ, nó trông thấy một quyển sổ xinh xắn với những trang giấy kẻ ngang mới cứng và bìa da dày màu nâu sẫm được rập nổi theo viền. Cầm quyển sổ trong tay, nó biết rằng mẹ không đủ tiền mua cho nó. Thế là nhân lúc người bán hàng không để ý, Parwana bèn nhanh tay thó quyển sổ nhét vào dưới áo len.
Nhưng đã sáu tháng trôi qua kể từ ngày ấy, Parwana vẫn không dám tặng quyển sổ cho Saboor. Nó sợ anh cười hoặc anh xem qua rồi trả lại cho nó. Thay vào đó, hằng đêm nó nằm trên giường, quyển sổ giấu chặt trong tay bên dưới lớp chăn, đầu ngón tay lướt qua những nét khắc trên bìa da. Ngày mai, đêm nào nó cũng tự hứa với mình. Ngày mai mình sẽ mang nó đến chỗ anh.
Cuối buổi tối hôm ấy, sau bữa iftar, lũ trẻ chạy ra ngoài chơi hết. Parwana, Masooma và Saboor thay nhau chơi trên chiếc xích đu mà cha của Saboor đã treo lên một cành vững chắc của cây sồi khổng lồ. Đến lượt Parwana, nhưng Saboor cứ quên đẩy xích đu cho nó vì anh còn mải kể một câu chuyện khác. Lần này về chính cây sồi khổng lồ mà theo lời anh là có phép thuật. Nếu em có một điều ước, anh nói, thì em phải quỳ trước cây và thì thầm điều ước ấy. Và nếu cây đồng ý ban tặng, nó sẽ rụng đúng mười chiếc lá xuống đầu em.
Khi xích đu chậm lại rồi gần dừng hẳn, Parwana quay sang toan bảo Saboor đẩy tiếp đi nhưng những lời ấy nghẹn lại trong cổ họng nó. Saboor và Masooma đang cười với nhau, và Parwana nhìn thấy quyển sổ nằm ngay trong tay Saboor. Quyển sổ của nó.
Chị tìm thấy trong nhà, lát sau Masooma nói. Của em à? Chị sẽ đền cho em bằng cách nào đó, chị hứa đấy. Em không bực chứ? Chị chỉ nghĩ là nó thật hợp với Saboor. Cho những câu chuyện của anh ấy. Em có thấy vẻ mặt anh ấy không? Em có thấy phải không, Parwana?
Parwana bảo không, nó không bực, nhưng lòng nó thì tan nát. Nó mường tượng đi mường tượng lại chị nó và Saboor đã mỉm cười với nhau ra sao, vẻ mặt họ chia sẻ cùng nhau thế nào. Parwana cứ như đã tan biến vào không khí như một vị thần trong câu chuyện nọ của Saboor, họ không hề biết đến sự hiện diện của nó. Điều đó làm nó đau xé lòng. Đêm ấy, trên chiếc giường nhỏ, nó đã khóc thầm lặng lẽ.
Đến năm hai chị em mười một tuổi, Parwana đã sớm nhận thức được những hành vi kỳ lạ của tụi con trai quanh những cô bé mà chúng thầm thích. Nó thấy điều này rõ nhất khi nó và Masooma tan trường về nhà. Trường thực chất là căn phòng trong cùng của nhà thờ làng, nơi ngoài việc giảng kinh Koran, giáo sĩ Shekib còn dạy mỗi đứa trẻ trong làng đọc viết, học thuộc các bài thơ. Shadbagh thật may mắn khi có một con người thông tuệ nhường ấy làm malik*, cha hai cô bé bảo vậy. Trên đường đi học về, hai cô bé sinh đôi thường đụng phải một nhóm con trai ngồi trên một bờ tường. Khi hai chị em đi qua, có lúc chúng buông lời cợt nhả, có lúc chúng ném sỏi. Parwana thường hét lại và ném đá đáp trả mấy viên sỏi, trong khi Masooma luôn kéo khuỷu tay nó và bảo nó với giọng hiểu biết rằng hãy đi nhanh lên, đừng để chúng chọc giận. Nhưng chị đã nhầm. Parwana giận không phải vì chúng ném sỏi mà bởi chúng chỉ ném vào Masooma. Parwana biết: chúng ra vẻ chòng ghẹo, và càng ra vẻ thì chứng tỏ chúng càng thích chị. Nó để ý thấy mắt chúng lướt qua nó rồi dán vào Masooma, đau khổ vì ngây ngất, chẳng thể nào rời đi. Nó biết rằng đằng sau lời trêu ghẹo thô thiển và điệu cười nhăn nhở sỗ sàng kia, chúng sợ Masooma.
Thầy, tôn sư.
Rồi đến một hôm, một đứa trong bọn ném đá chứ không phải sỏi. Nó lăn lông lốc đến chân hai chị em. Khi Masooma nhặt lên, tụi con trai cười hinh hích và huých nhau. Một sợi dây thun buộc một mẩu giấy quấn quanh cục đá. Khi đã cách một khoảng an toàn, Masooma mở giấy ra. Cả hai cùng đọc.
Tôi thề rằng, từ khi nhìn thấy khuôn mặt Em,
cả thế giới huyền hoặc, mộng mơ.
Khu vườn bối rối đâu lá đâu hoa.
Lũ chim sao nhãng không phân biệt nổi hạt với bẫy.
Một bài thơ của Rumi, một trong những bài mà giáo sĩ Shekib đã dạy.
Chúng tinh tế hơn rồi đấy, Masooma khúc khích nói.
Bên dưới bài thơ, cậu ta viết Tôi muốn cưới em. Và, dưới câu đó, cậu ta nguệch ngoạc thêm một dòng: Tôi có một thằng em họ cho em gái em. Hợp lắm. Hai đứa nó có thể cùng nhau gặm cỏ trên cánh đồng của chú tôi.
Masooma xé mẩu giấy làm đôi. Đừng bận tâm đến chúng, Parwana, chị nói. Lũ đần.
Bọn ngu xuẩn, Parwana đồng tình.
Nó gắng gượng lắm mới rặn ra được một nụ cười tươi. Mẩu giấy đã tồi tệ lắm rồi, nhưng điều thực sự làm Parwana đau lòng là phản ứng của Masooma. Thằng nhóc kia không đề cụ thể là gửi cho ai trong hai chị em, nhưng Masooma đã mặc nhiên cho rằng cậu ta dành bài thơ cho chị còn thằng em họ cho Parwana*. Lần đầu tiên, Masooma thấy bản thân mình qua đôi mắt chị gái. Nó thấy chị nhìn nhận mình thế nào. Cũng hệt như cách nhìn của những người khác. Những điều Masooma nói để lại trong lòng nó nỗi thất vọng tràn trề. Khiến nó suy sụp.
Lá thư dùng từ sister, có thể hiểu là chị hoặc em gái.
Với cả, Masooma nhún vai và toét miệng nói thêm, chị đã có người thương rồi.
Nabi về thăm nhà như hằng tháng. Anh là câu chuyện thành công của gia đình, có lẽ là của cả làng nữa, vì anh làm việc ở Kabul, anh lái chiếc ô tô màu xanh dương to oành bóng lộn của ông chủ với hình trang trí đầu con đại bàng sáng loáng trên nắp ca pô, ai nấy đều xúm xít lại xem anh về, đám trẻ làng hò la chạy theo xe.
“Mọi chuyện thế nào?” anh hỏi.
Ba người họ ngồi trong nhà uống trà và nhấm nháp hạnh nhân. Nabi thật điển trai, Parwana nghĩ, với xương gò má được đẽo tạc hoàn hảo, cặp mắt màu gỗ phỉ, hàm râu quai nón, và mớ tóc dày vuốt ngược ra sau. Nabi vận bộ com lê màu ô liu quen thuộc nom rộng hơn khoảng một cỡ so với anh. Nabi tự hào về bộ com lê lắm, Parwana biết, lúc nào cũng kéo tay áo, vuốt thẳng ve áo, gập nếp quần, dù anh chưa bao giờ khử được mùi hành cháy vương vất.
“À, hôm qua hoàng hậu Homaira đến dùng trà và bánh quy với bọn em,” Masooma nói. “Bà ấy khen nhà ta bài trí rất trang nhã.” Chị mỉm cười nhã nhặn với anh, để lộ hàm răng ngả vàng, Nabi bèn cười, nhìn xuống chiếc tách. Trước khi tìm được việc ở Kabul, Nabi đã giúp Parwana chăm sóc em gái. Hay anh cũng từng cố gắng một thời gian. Nhưng anh không làm được. Việc đó vượt quá sức chịu đựng của anh. Kabul là lối thoát của Nabi. Parwana ghen tị với anh trai, nhưng cô không hoàn toàn so bì kể cả nếu anh có suy nghĩ ấy - cô biết rằng trong khoản tiền hằng tháng anh đem về cho cô ẩn chứa không ít ăn năn.
Masooma đã chải tóc và viền mờ phấn côn quanh mắt như chị vẫn làm mỗi khi Nabi về thăm. Parwana biết chị làm thế chỉ có một phần vì anh, còn chủ yếu bởi anh là sợi dây nối chị với Kabul. Trong tâm trí Masooma, anh kết nối chị với sự xa hoa lộng lẫy, tới thành phố của ô tô và ánh đèn, những nhà hàng thời thượng và cung điện hoàng gia, bất kể mối liên kết ấy có xa xôi tới mức nào. Parwana nhớ, đã lâu lắm rồi, Masooma từng nói chị là một cô gái thành thị bị giam hãm ở chốn làng quê.
“Thế còn anh? Anh đã tìm được cho mình cô vợ nào chưa?” Masooma hỏi đùa.
Nabi phẩy tay và cười gạt đi, như anh từng làm khi bị cha mẹ hỏi câu tương tự.
“Thế khi nào anh định cho em thăm thú Kabul lần nữa đây, anh trai?” Masooma nói.
Nabi từng đưa họ tới Kabul một lần, vào năm ngoái. Anh đón họ từ Shadbagh và chở họ đến Kabul, ngược xuôi những con đường của thành phố. Anh cho họ xem tất cả các thánh đường, các khu mua sắm, rạp chiếu bóng, nhà hàng. Anh chỉ cho Masooma thấy cung điện mái vòm Bagh-e-Bala nằm trên một ngọn đồi nhìn xuống thành phố. Ở vườn Babur, anh nhấc Masooma từ ghế trước lên và bế chị tới nơi đặt ngôi mộ của hoàng đế Mughal. Họ đã cầu nguyện ở đó, ba người bọn họ, tại thánh đường Shah Jahan, và rồi, bên rìa một bể nước lát đá xanh dương, họ xơi ngon lành chỗ đồ ăn mà Nabi đã gói ghém cho họ. Đó có lẽ là ngày hạnh phúc nhất trong đời Masooma kể từ sau vụ tai nạn, và vì lẽ đó Parwana cảm thấy biết ơn anh trai mình.
“Sớm thôi, Inshallah*,” Nabi nói, gõ tay vào chiếc tách.
Cầu trời phù hộ.
“Anh giúp em chỉnh cái nệm dưới đầu gối em được không, Nabi? À, thoải mái hơn nhiều rồi đấy. Cảm ơn anh.” Masooma thở dài. “Em yêu Kabul. Nếu có thể, ngay sáng mai em sẽ cuốc bộ cả quãng đường đến đó.”
“Có lẽ một ngày nào đấy,” Nabi nói.
“Gì cơ, em đi lại được á?”
“Không,” anh lắp bắp, “Ý anh là…” Và rồi anh toét miệng khi Masooma phá lên cười.
Lát sau ra ngoài, Nabi đưa tiền cho Parwana. Anh dựa một bên vai vào tường và châm một điếu thuốc. Masooma nằm trong nhà ngủ trưa.
“Nãy anh có gặp Saboor,” anh nói, búng ngón tay. “Chuyện kinh khủng quá. Cậu ta cho anh biết tên đứa trẻ. Anh quên mất rồi.”
“Pari,” Parwana nói.
Anh gật đầu. “Anh không hỏi, nhưng cậu ta bảo là đang tính tái hôn.”
Parwana quay đi, cố giả vờ không quan tâm, nhưng tim cô đập thình thình trong tai. Cô cảm thấy da dấp dính mồ hôi.
“Như anh vừa nói đấy, anh không hỏi. Chính Saboor tự nói ra. Cậu ta kéo anh sang bên. Cậu ta kéo anh sang bên và nói cho anh biết.”
Parwana ngờ rằng Nabi biết tình cảm cô dành cho Saboor bấy lâu nay. Masooma là chị gái sinh đôi của cô, nhưng Nabi mới chính là người luôn thấu hiểu cô. Nhưng Parwana không hiểu sao anh trai lại cho cô biết tin này. Làm thế thì có gì hay? Cái Saboor cần là một người đàn bà không bị trói buộc, một người đàn bà không bị kìm hãm, một người tự nguyện dâng hiến bản thân cho anh, cho con trai anh, cho đứa con gái mới chào đời của anh. Thời gian của Parwana bị tiêu tốn hết rồi. Bị ngốn sạch. Cả cuộc đời cô.
“Em chắc là anh ấy sẽ tìm được ai đó thôi,” Parwana nói.
Nabi gật đầu. “Tháng sau anh lại về.” Anh di điếu thuốc dưới chân rồi rời đi.
Khi Parwana vào nhà, cô ngạc nhiên thấy Masooma đã thức. “Em tưởng chị đang ngủ.”
Masooma lờ đờ nhìn ra cửa sổ, chầm chậm chớp mắt, mỏi mệt.
Năm mười ba tuổi, hai cô bé thi thoảng ra những khu chợ đông đúc ở mấy thị trấn gần đó mua đồ giúp mẹ. Mùi hoa hồng mới tưới thoang thoảng nơi con đường không rải nhựa. Hai chị em thong thả men theo đường, đi qua những sạp điếu, khăn lụa, nồi đồng, đồng hồ cũ. Mấy con gà đã sơ chế bị treo ngược, khua những vòng tròn chậm chạp phía trên những khúc thịt cừu và bò.
Đâu đâu Parwana cũng thấy những ánh mắt đàn ông bừng lên chú ý khi Masooma đi qua. Nó thấy họ cố ra vẻ thản nhiên, nhưng ánh nhìn cứ quyến luyến, chẳng thể xa rời. Nếu Masooma liếc về phía họ thì họ khoác cái vẻ được ban ân đầy ngu ngốc. Họ tưởng tượng mình chia sẻ một khoảnh khắc chung với chị. Chị khiến cuộc nói chuyện ngưng giữa chừng, khiến những người hút thuốc nhả khói dở dang. Chị là nguyên nhân của những cặp đầu gối run rẩy, của những chén trà tràn đổ.
Có những hôm, mọi việc vượt quá sức chịu đựng của Masooma, tuồng như chị xấu hổ, và chị bảo với Parwana rằng chị muốn ru rú ở nhà cả ngày, không muốn bị nhìn ngó. Vào những ngày ấy, Parwana nghĩ rằng cứ như thể, đâu đó sâu thẳm trong lòng, chị nó lờ mờ hiểu sắc đẹp của mình là một thứ vũ khí. Một khẩu súng nạp đầy đạn, nòng chĩa thẳng vào đầu chị. Tuy nhiên phần lớn thời gian sự chú ý lại có vẻ khiến Masooma hài lòng. Phần lớn thời gian, chị tận hưởng thứ sức mạnh có thể làm sao nhãng tâm tư một người đàn ông chỉ bằng nụ cười thoáng qua mà khôn khéo, khiến họ ấp úng chẳng thành lời.
Vẻ đẹp mà chị sở hữu thiêu đốt những ánh nhìn.
Còn đây là Parwana, lệt sệt bên chị, với bộ ngực phẳng và làn da nhợt nhạt. Mớ tóc rối, khuôn mặt nặng nề ủ ê, lại còn đôi cổ tay thô kệch và bờ vai u nữa chứ. Một cái bóng đáng thương, bị giằng xé giữa lòng ghen tị và nỗi xung động khi bị nhìn ngó cùng Masooma, khi cùng nằm trong tầm ngắm, chỉ có điều như một loài cỏ dại, khi uống thứ nước dành cho bông hoa súng đầu dòng.
Cả đời mình, Parwana đã làm mọi cách để tránh đứng trước gương với chị gái. Nhìn thấy khuôn mặt mình bên khuôn mặt Masooma, thấy rõ rành những gì mình bị từ chối, là tước mất hy vọng của nó. Nhưng ở chốn công cộng, mỗi con mắt của người lạ là một tấm gương. Không cách nào tránh né.
Cô bế Masooma ra ngoài. Hai người ngồi trên chiếc charpoy* mà Parwana đã kê sẵn. Cô cẩn thận xếp mấy tấm nệm để Masooma được thoải mái dựa lưng vào tường. Đêm thanh tĩnh có độc tiếng dế nỉ non, và bóng tối nữa, chỉ được thắp sáng bởi vài ngọn đèn vẫn lờ mờ trong cửa sổ và ánh sáng trắng mỏng manh của vầng trăng trương huyền.
Kiểu giường truyền thống của các nước Nam Á, mặt giường được đan bện bằng dây thừng.
Parwana đổ đầy nước vào bình của chiếc điếu. Cô lấy hai phần bột thuốc phiện cỡ đầu diêm cùng với một nhúm thuốc lá rồi cho hỗn hợp vào bát. Cô nhóm than trên khay đốt kim loại rồi đưa điếu cho chị. Masooma hút một hơi sâu từ cái ống, đoạn lại tựa lưng vào nệm, hỏi xem chị gác chân lên lòng Parwana có được không. Parwana cúi xuống nâng đôi chân tật nguyền của chị vắt ngang lòng mình.
Khi hút, khuôn mặt Masooma dãn ra. Mí mắt chị trĩu xuống. Đầu chị ngật ngưỡng ngả sang bên còn giọng nói thì uể oải, xa xăm. Một nụ cười mờ nhạt nở trên khóe môi chị, nom lạ lùng, trễ nải, tự mãn hơn là hài lòng. Những lúc Masooma thế này họ nói chuyện rất ít với nhau. Parwana lắng nghe tiếng gió, tiếng nước ùng ục trong điếu. Cô ngắm sao và làn khói bảng lảng trên đầu. Bầu im lặng thật dễ chịu, và cả cô lẫn Masooma đều cảm thấy chẳng cần phải lấp đầy không khí đó bằng những lời thừa thãi.
Cho đến khi Masooma lên tiếng, “Em giúp chị việc này được không?”
Parwana nhìn chị.
“Chị muốn em đưa chị tới Kabul.” Masooma chầm chậm thở ra, khói quyện lại, cuộn bay, cứ mỗi cái chớp mắt lại thấy nó biến thành những hình thù khác nhau.
“Chị nói nghiêm túc đấy chứ?”
“Chị muốn xem cung điện Darulaman. Lần trước chúng ta chưa có dịp tới thăm. Có khi ghé lại cả lăng mộ Babur nữa.”
Parwana nhoài người dò đoán vẻ mặt Masooma. Cô tìm xem có nét đùa giỡn nào không, nhưng dưới ánh trăng cô chỉ thấy ánh mắt bình thản, lấp lánh không chớp của chị.
“Ít nhất cũng mất hai ngày đi bộ đấy. Không chừng là ba.”
“Tưởng tượng xem mặt Nabi sẽ thế nào khi chúng ta làm anh ấy ngạc nhiên trước cửa nhà.”
“Chúng ta còn chả biết anh ấy sống ở đâu nữa là.”
Masooma uể oải phẩy tay. “Anh ấy cho chúng ta biết khu dân cư đó rồi mà. Chúng ta sẽ gõ cửa vài nhà hỏi thăm. Không khó đến thế đâu.”
“Làm sao chúng ta tới đó được, trong khi chị thì như thế này?”
Masooma rút ống hút ra khỏi môi. “Hôm nay lúc em ra ngoài làm việc, giáo sĩ Shekib ghé qua, và chị đã nói chuyện rất lâu với ông ấy. Chị bảo với ông ấy là chúng ta sẽ đi Kabul vài ngày. Chỉ hai chị em mình thôi. Cuối cùng ông ấy chúc chị may mắn. Cho chị cả con la nữa. Em thấy đấy, tất cả được sắp xếp đâu vào đó rồi.”
“Chị mất trí rồi,” Parwana nói.
“Ừm, đó là điều chị muốn. Ước mơ của chị.”
Parwana ngả lưng vào tường, lắc đầu. Ánh mắt cô lãng đãng ngước nhìn bóng tối loang lổ những vệt khói.
“Chị chán tới mức mòn mỏi, Parwana à.”
Parwana thở dài sườn sượt đoạn nhìn chị gái.
Masooma đưa ống hút lên môi. “Đi mà. Đừng từ chối chị.”
Một sớm mai, năm hai chị em mười bảy tuổi, họ ngồi trên một cành sồi cao tít, chân đung đưa. Saboor sắp hỏi cưới chị! Masooma vút giọng thì thầm.
Hỏi cưới chị? Parwana nói, cảm thấy không hiểu, ít nhất không phải ngay lập tức.
Ừm, không phải anh ấy, tất nhiên. Masooma úp tay vào miệng mà cười. Tất nhiên là không. Cha anh ấy sẽ làm việc đó.
Giờ thì Parwana đã hiểu. Lòng nó chùng xuống não nề. Sao chị biết? nó nói qua đôi môi tê dại.
Masooma bắt đầu nói, từ ngữ ào ào tuôn khỏi miệng chị, nhưng Parwana hầu như không nghe thấy lời nào. Thay vào đó nó hình dung ra đám cưới của chị nó với Saboor. Trẻ con diện quần áo mới, xách những chiếc giỏ đựng lá móng ngập tràn hoa, theo sau là những nhạc công kèn shahnai và trống dohol. Saboor, mở bàn tay đang nắm lại của Masooma, đặt bột lá móng vào lòng bàn tay chị, thắt lại bằng dải ruy băng trắng. Người ta nói lời cầu nguyện và chúc phúc cho lễ thành thân. Rồi trao quà. Hai người họ nhìn nhau bên dưới tấm mạng thêu chỉ vàng, cho nhau ăn một muỗng nước quả ngọt và malida*.
Món bánh truyền thống của Afghanistan, được làm từ hạt lúa mì cứng, bơ và sữa.
Còn nó, Parwana, thì ở giữa các quan khách, chứng kiến sự việc diễn ra. Nó sẽ phải mỉm cười, vỗ tay, tỏ ra hạnh phúc, ngay cả khi trái tim vụn vỡ nát tan.
Gió thổi qua cây, khiến đám cành nhánh xung quanh rung lắc còn lá thì xào xạc. Parwana phải cố ngồi cho vững.
Masooma đã ngừng nói. Chị toét miệng cười, cắn môi dưới. Em thắc mắc sao chị biết anh ấy sắp hỏi cưới chị à. Chị sẽ nói em nghe. À không. Chị sẽ cho em xem.
Chị quay khỏi Parwana và thò tay vào túi.
Và đây là phần mà Masooma không biết. Trong khi chị quay mặt đi, lục tìm trong túi, Parwana tì cườm tay lên cành cây, nhấc mông lên, rồi ngồi phịch xuống. Cành cây lắc lư. Masooma há hốc miệng kinh ngạc và mất thăng bằng. Tay chị vung loạn xạ. Chị chúi ra trước. Parwana thấy đôi bàn tay của chính mình chuyển động. Việc nó làm không hẳn là đẩy, nhưng mặt trong đầu ngón tay của Parwana đã chạm vào lưng Masooma và một cú đẩy nhẹ diễn ra trong khoảnh khắc ngắn ngủi. Nhưng việc đó chỉ kéo dài trong giây lát là Parwana đã vươn tay ra tóm mép áo chị, trước khi Masooma hoảng loạn gọi tên nó và Parwana hoảng loạn gọi tên chị. Parwana túm chiếc áo, và trong một thoáng, có vẻ như nó đã cứu được Masooma. Nhưng rồi miếng vải rách toạc, tuột khỏi tay nó.
Masooma ngã từ trên cây xuống. Chừng như kéo dài vô tận, cú ngã ấy. Thân mình chị đập vào bao cành nhánh trên đường rơi, làm lũ chim hoảng hốt và lá cây rơi rụng, người chị lộn nhào, văng mạnh, đập vào những cành nhánh nhỏ hơn, cho đến khi một cành thấp chắc khỏe, chính là cành treo chiếc xích đu, đỡ lấy lưng dưới của chị bằng một tiếng rắc đáng sợ, nghe rõ mồn một. Chị gập người ra sau, gần như làm đôi.
Vài phút sau, mọi người vây tròn quanh chị. Nabi và cha khóc thương Masooma, cố lay chị dậy. Những khuôn mặt chăm chú cúi xuống nhìn chị. Ai đó nắm tay chị. Nó vẫn siết chặt thành nắm đấm. Khi người ta duỗi ngón tay chị ra, họ tìm thấy đúng mười chiếc lá nhỏ nát tươm trong lòng bàn tay chị.
Masooma nói, giọng thoáng run rẩy. “Giờ em phải làm thôi. Nếu đợi đến sáng, em sẽ không đủ can đảm đâu.”
Bao quanh họ, xa xa sau ánh sáng mờ của ngọn lửa mà Parwana đã nhóm lên từ cây bụi và đám cỏ dại nom khô giòn, là những dải cát và núi non hoang vu bất tận bị bóng tối nuốt chửng. Trong gần hai ngày, họ đã đi qua vùng đất cằn cỗi này, hướng đến Kabul, Parwana bước bên con la, Masooma được buộc vào yên, Parwana nắm tay chị. Họ đã cuốc bộ theo những con dốc khúc khuỷu, nghiêng ngả, quanh co, và vượt qua các mỏm đá lởm chởm, mặt đất dưới chân họ lấm chấm cây dại màu hoàng thổ và gỉ sắt, hằn in những kẽ nứt ngoằn ngoèo bò khắp hướng.
Parwana đứng cạnh đống lửa nhìn Masooma, một ụ chăn nằm thu lu bên kia ánh vàng.
“Chuyện về Kabul là sao?” Parwana hỏi.
“Ôi chao, hẳn em đoán ra rồi.”
Parwana nói, “Chị không thể bắt em làm việc đó đâu.”
“Chị mệt rồi, Parwana à. Đấy không phải sống, những gì chị đang có ấy. Sự tồn tại của chị là sự trừng phạt đối với cả hai chúng ta.”
“Quay về thôi,” Parwana nói, cổ họng cô bắt đầu thắt lại. “Em không thể làm thế đâu. Em không thể để chị đi được.”
“Em không làm thế.” Giờ Masooma khóc. “Là chị để em đi. Chị buông tha cho em.”
Parwana nghĩ về một đêm xa xôi, Masooma ngồi trên xích đu, còn cô đẩy chị. Cô nhìn Masooma duỗi thẳng chân và ngật đầu ra sau mỗi lần xích đu lên cao nhất, đuôi tóc dài thướt của chị bay phần phật như những tấm vải trên dây phơi quần áo. Cô nhớ tất cả đám búp bê nhỏ mà hai chị em cùng nhau làm từ lá ngô, mặc cho chúng bộ váy cưới khâu từ những mẩu vải cũ.
“Nói gì với em đi, chị ơi.”
Parwana chớp mắt ghìm những giọt lệ đang làm nhòa mờ tầm nhìn của cô và lấy mu bàn tay chùi mũi.
“Con trai anh ấy, Abdullah. Và đứa bé gái, Pari. Em nghĩ mình có thể yêu thương chúng như con đẻ không?”
“Masooma.”
“Em có thể không?”
“Em sẽ cố,” Parwana nói.
“Tốt. Thế thì lấy Saboor đi. Chăm sóc các con anh ấy. Sinh đứa con của riêng mình.”
“Anh ấy từng yêu chị. Anh ấy không yêu em.”
“Anh ấy sẽ yêu em, chỉ cần có thời gian.”
“Do em làm hết,” Parwana nói. “Lỗi của em. Tất cả.”
“Chị không biết điều đó có nghĩa gì và chị cũng không muốn biết. Vào lúc này, đây là tâm nguyện duy nhất của chị. Mọi người sẽ hiểu thôi, Parwana à. Giáo sĩ Shekib sẽ giãi bày với họ. Ông ấy sẽ bảo họ rằng ông ấy đã chúc chị thỏa nguyện.”
Parwana ngửa mặt lên bầu trời tối đen.
“Vui lên nào, Parwana, hãy vui lên. Làm vì chị đi.”
Parwana cảm thấy mình toan nói với chị mọi thứ, nói với Masooma rằng chị đã nhầm thế nào, rằng chị biết quá ít về đứa em gái nằm chung một tử cung với chị, rằng bao năm nay cuộc đời của Parwana là một lời xin lỗi dài không thể thốt thành lời. Nhưng để làm gì? Masooma lại phải gánh chịu đau khổ để đổi lấy sự thanh thản của riêng cô một lần nữa sao? Cô nuốt những lời đó vào lòng. Cô đã gây ra đủ nỗi đau cho chị mình rồi.
“Giờ chị muốn hút thuốc,” Masooma nói.
Parwana định ngăn lại, nhưng Masooma đã cắt ngang. “Đến lúc rồi,” chị nói, giọng cứng cỏi hơn, đầy dứt khoát.
Parwana lấy ống điếu từ chiếc túi lủng lẳng bên yên con la ra. Với đôi bàn tay run rẩy, cô bắt đầu pha thứ hỗn hợp quen thuộc trong bát.
“Nữa đi,” Masooma nói. “Cho nhiều nữa vào.”
Sụt sịt, má ươn ướt, Parwana cho thêm một nhúm nữa, một nhúm nữa, rồi lại thêm nữa. Cô đốt than rồi đặt điếu cạnh chị.
“Nào,” ánh lửa vàng cam tỏa lung linh trên má chị, trong mắt chị, “nếu em từng yêu thương chị, Parwana à, nếu em từng là em gái đích thực của chị, thì hãy đi đi. Không hôn. Không tạm biệt. Đừng bắt chị phải van nài.”
Parwana toan mở miệng, nhưng Masooma đã thốt ra một tiếng đau đớn, nghẹn ngào và quay đầu đi.
Parwana chầm chậm đứng lên. Cô tới chỗ con la thắng yên. Cô túm sợi dây cương điều khiển con vật. Cô bỗng nhận ra có lẽ cô không biết phải sống thế nào nếu thiếu Masooma. Cô không biết liệu mình có thể chăng. Làm sao cô chịu đựng nổi những ngày mà nỗi thiếu vắng Masooma như một gánh nặng còn oằn trĩu hơn sự hiện diện của chị từng đè lên vai cô? Làm sao cô học được cách bước qua những miệng hố rộng ngoác nơi từng in bóng dáng Masooma?
Can đảm lên, cô cơ hồ nghe thấy Masooma nói.
Parwana kéo dây cương, vòng con la lại, rồi khởi bước.
Cô bước đi, cắt xuyên bóng tối, giữa cơn gió đêm mát lạnh tạt qua mặt. Cô cứ cúi đầu xuống. Cô chỉ quay lại một lần duy nhất, một lát sau đó. Qua hơi ẩm trong mắt thì đống lửa chỉ còn là một đốm vàng mờ nhòa, nhỏ xíu, xa xăm. Cô hình dung chị gái sinh đôi của mình nằm bên đống lửa, đơn độc trong bóng tối. Chẳng mấy chốc, lửa sẽ tàn, và Masooma sẽ lạnh cóng. Bản năng thôi thúc cô quay lại, đắp chăn cho chị rồi chui vào nằm bên chị.
Parwana ép mình quay đi và một lần nữa lại bước tiếp.
Và chính lúc ấy cô nghe thấy gì đó. Một âm thanh xa xôi, nghèn nghẹt, tựa hồ tiếng than van. Parwana dừng bước. Cô nghiêng đầu nghe lại cho rõ. Tim cô bắt đầu đập loạn trong lồng ngực. Cô tự hỏi, lòng bất an, liệu có phải Masooma đã chuyển ý mà gọi cô quay lại. Hoặc có thể chỉ là một con chó rừng hoặc cáo sa mạc tru đâu đó trong bóng tối. Parwana không chắc lắm. Biết đâu là gió.
Đừng bỏ chị, em ơi. Quay lại đi.
Cách duy nhất để biết chắc là quay lại con đường cũ và Parwana bắt đầu làm vậy thật; cô quay bước về phía Masooma. Rồi cô dừng lại. Masooma nói đúng. Giờ nếu cô quay lại, cô sẽ không có can đảm làm chuyện đó khi mặt trời lên. Cô sẽ nhụt chí và rốt cuộc sẽ ở lại. Cô sẽ ở lại mãi. Đây là cơ hội duy nhất của cô.
Parwana nhắm mắt. Gió thổi khăn bay phần phật vào mặt cô.
Không ai cần biết. Sẽ không ai biết. Đây là bí mật của cô, cái bí mật mà cô chỉ chia sẻ với những ngọn núi. Câu hỏi là liệu cô có thể sống với bí mật này không, và Parwana nghĩ rằng mình biết đáp án. Cả đời này cô đã sống với các bí mật rồi.
Cô lại nghe văng vẳng tiếng than van.
Ai cũng yêu chị, Masooma à.
Chẳng ai yêu em.
Mà tại sao, chị ơi? Em đã làm gì chứ?
Parwana đứng bất động trong bóng tối hồi lâu.
Cuối cùng, cô quyết định. Cô vòng lại, gục đầu xuống, và đi về phía chân trời mà cô không nhìn thấy. Sau đó, cô không nhìn lại lần nào nữa. Cô biết rằng nếu làm vậy, cô sẽ do dự. Cô sẽ mất hết quyết tâm vì cô sẽ hình dung ra một chiếc xe đạp cũ lao xuống đồi, nẩy tưng tưng trên đá sỏi, lớp kim loại đập vào mông họ, mỗi lần phanh gấp là bụi tung mù mịt. Cô ngồi trên khung xe, Masooma ngồi trên yên, chị là người vào cua hết tốc lực, khiến chiếc xe nghiêng mạnh. Nhưng Parwana không sợ. Cô biết rằng chị sẽ không để cô bay qua ghi đông, rằng chị sẽ không làm cô bị thương. Thế giới tan chảy thành niềm phấn khích nhòe nhoẹt quay cuồng, gió vun vút bên tai, Parwana ngoái nhìn chị qua vai và chị nhìn lại, cả hai cùng cười vang như lũ chó lạc đuổi bắt nhau.
Parwana tiếp tục tiến về phía cuộc đời mới. Cô tiếp tục bước đi, bóng tối vây quanh cô như tử cung người mẹ, và khi nó hé mở, khi cô ngước nhìn làn sương mai và đón dải ánh sáng nhạt nhòa đầu tiên từ phương Đông rọi xuống mé một tảng đá, cô có cảm giác như được chào đời.
Và Rồi Núi Vọng Và Rồi Núi Vọng - Khaled Hosseini Và Rồi Núi Vọng