Chương 1
ILAN NĂM 1796
Ngày 15 tháng 5 năm 1796, tướng Bonaparte 7 vào thành Milan, cầm đầu đạo quân non trẻ vừa vượt cầu Lodi và báo cho thế giới biết rằng César và Alexandre 8 đã có người kế thừa sau bao nhiêu thế kỷ. Những chiến công kỳ diệu lập nên nhờ lòng quả cảm và thiên tài, mà nước Ý được chứng kiến trong mấy tháng, đã đánh thức một dân tộc mê ngủ. Chỉ tám hôm trước khi quân Pháp đến, người Milan còn cho đó là một đám quân ô hợp, gồm những tên kẻ cướp quen chạy dài trước quân đội hoàng gia 9. Dù không phải thế thì ít ra, đó là điều mà một tờ báo lớn bằng bàn tay, in trên giấy bản, nhai đi nhai lại mỗi tuần ba bận.
Thời Trung cổ, những người cộng hòa Lombards 10 cũng dũng cảm như người Pháp, cho nên kinh thành của họ hân hạnh được các hoàng đế Đức san bằng. Từ khi họ trở thành những thần dân trung thành thì công việc quan trọng nhất của họ là in thơ chúc tụng trên những chiếc khăn tay nhỏ nhắn bằng lụa hồng, mỗi khi có một tiểu thư con quý tộc hoặc hào phú sắp lấy chồng. Vài ba năm sau cái ngày trọng đại trong đời con gái đó, cô ả tìm một chàng trai hộ vệ đôi khi chàng trai hộ vệ do gia đình bên chồng chọn đó được ghi tên tuổi ở một vị trí tôn quý trong hôn ước. Những tục lệ ủy mị ấy khác xa những xúc động sâu sắc mà quân đội Pháp bất ngờ kéo đến đã gây nên. Chẳng mấy chốc đă nảy sinh những tập quán mới cháy bỏng.
Ngày 15 tháng 5 năm 1796 ấy, cả một dân tộc nhận thấy rằng tất cả những gì lâu nay họ tôn kính thực ra đều hết sức lố lăng và đôi khi còn bỉ ổi nữa. Trung đoàn Áo cuối cùng rút đi đánh dấu sự sụp đổ của những ý niệm xưa cũ. Xông pha vào chỗ hiểm nguy chết chóc từ nay trở thành điều thời thượng, sau hàng mấy thế kỷ sống với những cảm giác nhạt nhẽo, người ta thấy rằng muốn có hạnh phúc, phải yêu tổ quốc một cách chân thành và phải có những hành động anh dũng. Trước đây người ta chìm đắm trong đêm tối vì chế độ chuyên chế chặt chẽ thời Charles đệ ngũ và Philippe đệ nhị vẫn tiếp diễn, bây giờ người ta lật đổ tượng hai ông vua đó và ánh sáng bỗng chốc tỏa ra tràn trề. Năm mươi năm qua, Tư tưởng bách khoa 11 và tư tưởng Voltaire 12 càng nẩy nở ở Pháp thì bọn tu sĩ càng thét vào tai nhân dân Milan đôn hậu rằng học chữ nghĩa hay học hỏi bất cứ cái gì cũng đều vô ích, cứ nạp tô đầy đủ cho cha xứ và thật thà kể cho cha nghe tất cả những tội lỗi nhỏ của mình, thì hầu như chắc chắn đã giành được một chỗ tốt chờ sẵn trên thiên đường. Để làm chùn hoàn toàn gân cốt của một dân tộc ngày xưa đến ghê gớm và ưa lý sự, nước Áo đã cho họ mua, với giá rẻ, cái đặc quyền miễn đi lính bổ sung cho quân đội Áo choàng.
Năm 1796 quân đội Milan gồm hai mươi bốn tiểu tốt mặc quân phục đỏ. Hai mươi bốn tên này hiệp đồng bảo vệ kinh thành cùng với bốn trung đoàn thủ pháo oai vệ người kinh Hungari 13. Phong tục thì hết sức lỏng lẻo bê tha, mà tình cảm đắm say lại hiếm thấy, vả chăng ngoài sự khó chịu phải kể hết nỗi niềm cho cha xứ, nếu không, phải sợ cảnh khánh kiệt ở ngay từ cõi đời này! Nhân dân Milan còn mắc vào một số ràng buộc phong kiến không phải là không nhục nhã. Chẳng hạn vị thượng công tước, em họ hoàng đế và khâm mạng ngài cai trị tại Milan đã có sáng kiến làm lợi là buôn lúa mì. Do đó nông dân không được bán lúa trước khi Điện hạ đổ đầy kho vựa của ngài. Tháng 5 năm 1796, khi quân Pháp vào thành, có một họa sĩ trẻ tuổi đi theo. Họa sĩ ấy tên là Gros 14 tự bấy giờ nổi tiếng. Ông chuyên vẽ tiểu phẩm. Tính ông hơi hâm hấp. Ba hôm sau, ngồi ở đại tửu quán Servi hồi ấy được ưa chuộng và nghe kể những thành tích của ngài thượng công tước 15, ngài cũng còn là đại tá nữa, ông bóc tờ giấy vàng xấu xí liệt kê các thức kem lạnh dán trên tường, lật mặt sau vẽ chân dung ngài thượng công tước to béo cùng với một người lính Pháp đang xọc lê vào bụng ngài. Tuy nhiên máu không chảy ra mà thấy chảy ra không biết cơ man nào là lúa mì, một khối lượng lúa mì khó có thể tin được. Ở cái xứ chuyên chế giảo quyệt ấy, người ta không hề biết khôi hài biếm cợt, cho nên bức tranh mà Gros để lại trên bàn cà phê được xem như một vật mầu nhiệm từ trên trời ban xuống, người ta lấy khắc bản ngay trong đêm đó và ngày hôm sau bán được hai vạn bản in.
Cùng ngày đó, có bảng yết yêu cầu một món đàm phụ chiến tranh sáu triệu, để cung ứng cho những nhu cầu của đạo quân Pháp vừa đánh thắng sáu trận lớn, thu phục hai mươi tỉnh, chỉ thiếu giầy, quần áo, mũ mà thôi.
Một khối lượng lớn thú vui và hạnh phúc đã tràn vào đất Lombards cùng với những người Pháp nghèo xơ nghèo xác đó, một khối lượng lớn đến nỗi chỉ có các cha cố và một số ít quý tộc nhận thấy khoản đảm phụ kia nặng và sau nó còn có tiếp những đóng góp khác. Những người lính Pháp ấy cười hát suốt ngày, tuổi họ dưới hăm lăm và tướng tổng chỉ huy của họ, mới hăm bảy, được coi là người cao tuổi nhất trong quân. Tính trẻ trung, vui vẻ, vô tư của họ giải đáp một cách khôi hài những lời tiên báo cuồng điên của bọn tu sĩ, sáu tháng nay, từ trên lễ đàn thiêng liêng, chúng không ngớt loan báo bọn Pháp là "những tên quỷ dữ bị bắt buộc phải chặt đầu tất cả mọi người nếu không thì bị xử tử, bởi thế cho nên mỗi trung đoàn hành quân đều chở máy chém đi đầu".
Ở nông thôn, người ta thường thấy qua các cửa lều, một người lính Pháp ru ngủ em bé con chị chủ nhà, hầu như mỗi tối, một tay trống nào đó trong đội quân nhạc đem vĩ cầm ra kéo, lại tạo nên một tối vũ hội tự phát. Những vũ điệu tập thể thường là khó và rắc rối, lính không biết, không tập cho phụ nữ địa phương được, cho nên chính các chị, các cô lại vẽ cho lũ thanh niên Pháp ấy các điệu Monférine, Sauteuse và nhiều điệu vũ khác của người Ý.
Người ta tìm hết cách gửi sĩ quan ở các nhà giàu vì họ rất cần được bồi dưỡng. Chẳng hạn trung úy Robert được cấp phiếu trọ tại nhà hầu tước phu nhân Del Dongo. Anh sĩ quan trẻ được trưng tuyển chứ không phải chuyên nghiệp ấy khá nhanh nhẹn. Bước chân vào lâu đài Del Dongo, gia tài anh ta gồm vẻn vẹn một đồng sáu francs vừa nhận ở Plaisance. Đánh qua cầu Lodi xong, anh lột được chiếc quần rất diện và mới tinh của một sĩ quan đẹp trai người Áo, chết vì đạn đại bác, chiếc quần kia đến với anh thật đúng lúc: Cầu vai sĩ quan của anh bằng len, tay áo dạ được khâu dính với vải lót, để cho các miếng vá víu nương nhau, giữ lấy nhau. Có điều đáng buồn hơn nữa, đế giầy của anh ta làm bằng những mảnh cũng thu nhặt ở chiến trường bên này cầu Lodi. Những đế trời cho ấy được ràng vào giầy bằng mấy sợi dây buộc vòng qua phía trên thân giầy, nom rõ mồn một. Bởi vậy, khi viên quản gia kính cẩn vào phòng trung úy Robert mời ngài vui lòng dùng bữa tối với hầu tước phu nhân, thì ngài trung úy bối rối đến phát điên. Còn hai tiếng đồng hồ nữa mới đến bữa ăn tai hại, ngài trung úy với anh cần vụ dùng cả hai tiếng ấy để cố khâu vá lại chiếc áo và lấy mực nhuộm thâm những sợi dây buộc giầy khốn khó.
Giờ phút kinh hoàng rồi cũng đến.
"Đời tôi chưa bao giờ thấy lúng túng, khổ sở đến như vậy", trung úy Robert thuật lại với tôi. "Các bà ấy tưởng tôi sẽ làm cho họ sợ hãi, ngược lại chính tôi run sợ hơn họ. Tôi cứ nhìn đôi giày và không biết làm thế nào để đi đứng cho ra vẻ".
Anh ta còn nói:
"Hồi bấy giờ bà hầu tước Del Dongo đang độ lộng lẫy nhất. Anh đã từng nhìn thấy bà rồi, với đôi mắt đen đẹp và hiền dịu như mắt thiên thần, cùng với mái tóc xinh xắn màu vàng đậm làm nổi bật gương mặt trái xoan mê hồn. Hérodiade của Léonard de Vinci trông tưởng như chân dung bà hầu tước, ơn trời, tôi choáng lên về cái nhan sắc thần tiên ấy mà quên khuấy cách ăn mặc của tôi. Anh tính, hai năm ròng chỉ được nhìn thấy rặt những thứ xấu xí, xác xơ trong vùng núi xứ Gênes mà! Tôi đánh bạo nói với nữ hầu tước vài câu bày tỏ niềm say mê của mình.
"Tuy nhiên tôi có đủ lương tri để không dừng lâu trong thể loại tán tụng. Trong khi lựa lời mà nói, tôi nhìn thấy trong buồng ăn toàn cẩm thạch mười hai gia bộc và một bọn hầu phòng, với những sắc phục mà lúc bấy giờ tôi cho là sang trọng nhất đời. Anh cứ tưởng tượng xem cái bọn chết tiệt ấy chúng nó mang những đôi giầy không những rất tốt, mà lại còn cài bằng khâu bạc nữa chứ! Tôi liếc đăm đăm vào bộ cánh của tôi, có lẽ cũng vào cả đôi giầy nữa tôi cảm thấy nhói ở ngực. Chỉ cần quát một tiếng đủ làm cho chúng khiếp sợ. Nhưng làm như thế nào để buộc chúng biết thân phận mà khỏi khiến cho các vị phu nhân đâm hoảng? Bởi vì bà hầu tước sợ thật! Muốn đỡ sợ, bà đã cho người đến đón cô em chồng ở tu viện ra, sau này bà nói với tôi hàng trăm lần cái điều đó, cô ấy là tiểu thư Gina Del Dongo, về sau trở thành bá tước Pietranera phu nhân kiều diễm, bà bá tước đó khi gia thế thịnh vượng thì vui vẻ, ân cần, dễ mến không bì được, khi gặp nghịch cảnh thì cũng dũng cảm, ung dung thanh thản không ai sánh kịp.
"Gina lúc bấy giờ hình như mới mười ba thôi mà y như một thiếu nữ mười tám, nhanh nhảu, cởi mở, như anh biết. Cô chẳng dám ăn uống gì vì chỉ sợ bật cười về bộ cánh của tôi. Trái lại bà hầu tước thì không biết ngần nào lễ phép, lễ phép một cách gò bó. Bà nhìn thấy sự bực bội của tôi trong ánh mắt. Tóm lại có vẻ một thằng đờ đẫn, tôi là mục tiêu của mọi sự khinh bỉ, điều này người ta bảo người Pháp không quen cam chịu. Cuối cùng đầu óc tôi bừng lên một sáng kiến, như có trời cho. Tôi bắt đầu kể cho hai người phụ nữ ấy nghe nỗi nghèo nàn thiếu thốn của tôi, những tai ương chúng tôi phải chịu trong hai năm qua ở miền núi xứ Gênes, vì một bọn tướng lĩnh già nua, ngu muội đã chôn chân chúng tôi tại đó. Ở đấy họ phát cho chúng tôi những tín phiếu mà nhân dân địa phương không tiêu dùng, và mỗi ngày một lạng bánh mì. Tôi nói chưa đầy hai phút thì đã thấy bà hầu tước nhân hậu rơm rớm nước mắt, còn tiểu thư Gina thì trở nên nghiêm trang.
- Thế ư! Thưa ông trung úy, Gina nói, chỉ một lạng bánh thôi!
- Đúng thế, thưa tiểu thư. Đã vậy mỗi tuần lại thường mất đến ba bận cấp phát. Và vì những nông dân chứa trọ chúng tôi còn nghèo đói hơn cả chúng tôi, cho nên chúng tôi phải san sẻ chút ít cho họ.
"Khi ăn xong, tôi khoác tay bà hầu tước, đưa bà đến cửa phòng khách, rồi vội vã quay trở lại biếu người gia bộc phục vụ tôi trong bữa ăn đồng sáu francs duy nhất của tôi, đồng sáu francs trên đó tôi xây mơ dựng mộng không biết bao nhiêu mà kể. "Tám hôm sau, Robert nói tiếp, khi đã rõ ràng là người Pháp không chém đầu ai cả, thì hầu tước Del Dongo từ lâu đài Grianta trở về. Lâu đài này nằm trên bờ hồ Côme. Khi quân đội Pháp đến gần, hầu tước đã dũng cảm trốn vào đó, bỏ mặc cho bà vợ đến xinh đẹp và cô em gái của mình đương đầu với những may rủi của chiến tranh. Ông ta căm ghét chúng tôi cũng bằng với khiếp sợ, nghĩa là không cùng. Cái mặt to bạnh, nhợt nhạt và đại đạo của ông ta trông đến buồn cười khi ông ta nhăn nhó chào hỏi tôi.
"Sáng hôm sau ngày ông ta về, tôi được nhận ba mét dạ và hai trăm francs trích trên khoản đảm phụ sáu triệu ấy. Tôi thay lông đổi cánh và trở thành kỵ sĩ của các bà lớn ấy, vì những cuộc khiêu vũ đã bắt đầu".
Câu chuyện của trung úy Robert cũng là chuyện của mọi người Pháp. Người ta không chế nhạo cảnh nghèo khổ của các người lính trung hậu ấy, người ta chỉ thương hại họ rồi mến họ.
Thời kỳ hạnh phúc bất ngờ, thời kỳ say sưa ấy chỉ trải qua hai năm ngắn ngủi. Rồi đó ai cũng ngông cuồng, ngông cuồng hết mực, khó mà diễn tả, khó mà làm cho người nghe ý niệm được. Nếu nói lên cái điều suy nghĩ sâu sắc và có tính chất lịch sử này thì may ra người ta hình dung được: Dân tộc ấy đã buồn chán một trăm năm nay.
Ngày xưa, ở triều đình những quận công Milan lừng danh thuộc các dòng họ Visconti và Sforce người ta quen sống với tính hưởng lạc tự nhiên của người phương Nam. Nhưng từ năm 1624, người Tây Ban Nha đã xâm chiếm xứ Milanais, và đó là những ông chủ lặng lẽ, đa nghi, kiêu kỳ, luôn luôn sợ nổi loạn. Từ đấy vui cười không cánh mà bay. Nhân dân học theo tập quán các ông chủ, chỉ nghĩ đến việc báo thù mỗi xúc phạm nhỏ nhặt bằng một nhát dao găm, chứ không thích hưởng thụ những thú vui trước mắt. Bây giờ thì người Milan quên tuốt lo buồn, quên đến cả mực thước, chỉ biết vui quay cuồng, hồ hởi, hưởng lạc thú ở đời. Từ ngày 15 tháng 5 năm 1796, ngày quân Pháp vào thành Milan, cho đến tháng tư 1799, lúc đó bị trục xuất sau trận Cassano, trạng thái này được đẩy đến tột bậc, đến nỗi có những lão lái buôn già triệu phú, những tên cho vay cắt cổ, những tay chưởng khế lão luyện cũng nhất thời quên ủ rũ, quên cả làm tiền.
Bất quá, chỉ có thể kể mấy gia đình đại quý tộc đã lui về ẩn cư trong các tòa lâu đài của họ ở nông thôn là ra tuồng hờn dỗi trước niềm hân hoan chung và sự cởi mở của mọi tấm lòng. Cũng phải thừa nhận là các gia đình quý tộc giàu có ấy đã được chiếu cố trái với ý họ khi người ta phân bố khoản đảm phụ cho quân đội Pháp.
Hầu tước Del Dongo thấy mọi người vui nhộn quá thì lấy làm bực bội, ông là một trong những người đầu tiên chuồn về lâu đài tráng lệ của mình, lâu đài Grianta, nằm trên bờ Côme nơi đã có lần chị em bà hầu tước đưa trung úy Robert đến chơi. Lâu đài ấy xây dựng trên một cao nguyên cao ba mươi sải tay đối với mặt hồ, từ đấy có thể trông ra gần khắp cảnh hồ tuyệt mỹ. Đây là một vị trí có lẽ độc nhất trong thiên hạ. Lâu đài Grianta nguyên là một chiến lũy. Dòng họ Del Dongo xây dựng nó từ thế kỷ XV, ta đi mỗi bước, mỗi thấy bằng cứ trên những phiến cẩm thạch khắc gia huy dòng họ ấy. Người ta còn thấy tồn tại những cầu treo, những hào phòng thủ sâu, thực ra cạn nước tự bao giờ. Tuy vậy lâu đài có những tường thành dày trên một sải, cao trên mười lăm sải thì cũng khó bề đánh úp. Chính vì thế mà ông hầu tước đa nghi quý nó. Ở đây, ông có từ hăm lăm đến ba mươi gia bộc quanh mình những gia bộc mà ông cho là trung thành, chắc tại vì lúc nào ông cũng vừa sai bảo vừa chửi mắng được họ, cho nên ông đỡ lo sợ hơn ở Milan.
Hầu tước lo sợ không phải vô cớ, ông lo sợ vì ông trao đổi thư tín thường xuyên với một gián điệp mà quân Áo gài ở biên giới Thụy Sĩ, cách Grianta ba trăm dặm đường. Hai người chuyên giúp cho tù binh bị bắt ở chiến trường trốn đi, điều ấy các tướng lĩnh Pháp có thể sẽ coi là nghiêm trọng nếu họ biết.
Hầu tước để bà vợ trẻ của mình ở lại Milan. Bà cai quản việc nhà ở đó, bà được giao cho ứng phó các khoản trưng thu đánh vào trang viên Del Dongo, như trong vùng quen gọi. Bà tìm cách làm cho người ta hạ mức xuống, bởi vậy phải đến gặp những người quý tộc có nhận chức vụ, cả đến đôi người không phải quý tộc mà có thế lực.
Lúc này trong gia đình xảy ra một sự kiện lớn. Trước đây hầu tước định xếp đặt cho cô em lấy một nhân vật rất giàu và xuất thân đại thế phiệt. Nhưng nhân vật ấy dùng phấn. Vì vậy Gina vừa tiếp ông ta vừa phì cười, và sau đó ít lâu nàng chơi ngông lấy bá tước Pietranera. Nói cho đúng, bá tước là một người quý phái xứng đáng, rất đẹp trai, duy có nghèo từ đời cha chí đời con, và thất thế nhất là ông tin cuồng nhiệt những tư tưởng mới. Pietranera là thiếu úy trong quân đoàn người Ý, điều đó càng khiến cho hầu tước thêm thất vọng.
Sau hai năm cuồng nhiệt và sung sướng đó thì viện Đốc chính Paris 16 muốn làm ra vẻ những bá chủ đã vững ngôi, bộc lộ mối thù không đội trời chung đối với tất cả những gì vượt lên trên tầm thường, thấp kém. Các tướng lính ngu xuẩn mà họ phái đến chỉ huy đạo quân ở Ý bị thua liên tiếp trong các trận giao tranh diễn ra ngay trên những đồng bằng vùng Vérone, nơi từng chứng kiến các chiến thắng D'Arcole và Lonato kỳ diệu. Quân Áo tiến đến gần Milan. Trung úy Robert, bây giờ là thiếu tá, bị thương ở trận Cassano, đến nghỉ lần cuối cùng tại nhà người bạn gái của mình, hầu tước phu nhân Del Dongo. Phút chia tay thật là buồn bã, Robert cùng đi với bá tước Pietranera, bá tước đi theo quân đội Pháp khi họ rút lui về Novi. Còn nữ bá tước xuân xanh mơn mởn, vì ông anh không giao phần gia tài của bà cho bà, cho nên ngồi trên một chiếc xe bò mà đi theo quân đội.
Thế là một thời kỳ phản động và hồi cựu bắt đầu. Người Milan gọi giai đoạn này là thời mười ba tháng, vì quả vậy, hồng phúc của họ xui nên cái giai đoạn quay về ngu độn chỉ thu gọn trong mười ba tháng thôi, nghĩa là đến tận Marengo 17. Tất cả mọi thứ già cỗi, tím mộ, ủ dột trở về đứng đầu mọi ngành và nắm quyền bính xã hội. Chẳng bao lâu những kẻ trung thành với cựu thuyết rêu rao trong các thôn xóm là Napoléon đã bị bọn kiêu binh Ai Cập treo cổ. "Như thế là đáng đời hắn về nhiều phương diện".
Trong số những kẻ xưa kia hờn mát lui về trang ấp, nay trở về háo hức báo thủ trả oán, thì hầu tước Del Dongo đặc biệt cuồng nhiệt. Vì cực đoan, dĩ nhiên ông phải trở nên thủ lĩnh của đảng, các ngài ấy cũng là người tử tế khi họ không sợ sệt, nhưng họ luôn luôn run sợ, cho nên đã tìm cách lung lạc viên tướng Áo, ông này là người khá tốt, song họ thuyết phục ông ta rằng nghiêm khắc mới là chính trị cao, cho nên ông đã bắt một trăm năm mươi nhà yêu nước, tinh hoa của đất nước Ý lúc bấy giờ. Không chậm trễ, người ta đày các nhà yêu nước ấy đến vùng Vịnh Cattaro. Bị nhốt vào những hang ngầm, sự ẩm ướt, nhất là sự đói khát đã thanh toán nhanh chóng và chắc chắn những tên "bất lương" ấy.
Hầu tước Del Dongo nhận một chức vụ lớn. Keo kiệt một cách bẩn thỉu, lại có lắm những đức tính cao quý khác, ông khoe công khai là ông không gửi một xu nhỏ nào cho cô em gái nữ bá tước Pietranera, vẫn cứ yêu chồng một cách say mê, nàng không muốn xa chồng và đành chia cảnh đói khát với chồng trên đất Pháp. Hầu tước phu nhân tốt bụng lấy làm thất vọng. Cuối cùng phu nhân đánh cắp vài hạt kim cương nhỏ trong hộp nữ trang của bà mà mỗi buổi tối ngài hầu tước đòi lại để cất dưới giường, trong một két sắt. Lấy chồng, bà hầu tước mang về cho hầu tước tám mươi vạn francs hồi môn, để rồi nhận từ tay chồng mỗi tháng tám vạn francs tiền túi để chi tiêu về việc riêng. Thời gian mười ba tháng mà quân Pháp rời bỏ Milan, người phụ nữ rụt rè đó viện cớ này cớ khác để chỉ mặc toàn đồ đen.
Chúng tôi thú nhận đã noi gương nhiều tác giả nghiêm trang, bắt đầu câu chuyện về nhân vật chính của mình một năm trước khi người ấy sinh. Thật vậy, nhân vật chính yếu ấy là Fabrice Valserra, tiểu hầu Del Dongo như người Milan thường gọi. Chú bé chịu khó ra đời ngay đúng lúc quân Pháp bị đuổi đi. Tình cờ làm sao mà chú lại sinh vào cửa ngài hầu tước Del Dongo đại thế phiệt, làm con trai của con người có cái mặt to và tái nhợt, nụ cười giả dối và lòng căm thù đáo để những tư tưởng mới, như các bạn đã biết.
Gia tư của nhà ấy đã được sang tên tất cho người trưởng nam, Ascanio Del Dongo, giống cha như đúc. Hắn vừa lên tám và Fabrice lên hai thì thình lình tướng Bonaparte từ đỉnh Saint Bernard kéo xuống, cái ông tướng mà tất cả những người sang trọng đều tưởng bị treo cổ từ lâu. Ông tướng ấy vào thành Milan. Cũng lại là giờ phút hiếm có trong lịch sử nữa, các bạn hãy tưởng tượng xem cả một dân tộc say đắm ông như điên dại! Mấy hôm sau, ông thắng trận Marengo. Rồi thế nào nữa thì không cần phải nói. Người Milan say sưa hết chỗ nói. Nhưng lần này trong say sưa có ý đồ trả đũa. Người ta đã tập cho đám dân chúng chất phác ở đây biết thù hằn mà!
Ít lâu sau, những người yêu nước còn sống sót ở vịnh Cattaro trở về. Việc hồi hương của họ được tổ chức như một lễ quốc khánh. Gương mặt xanh xao, đôi mắt mở to ngơ ngác, tay chân khẳng khiu của họ trông quá ngược ngạo với niềm vui mừng sôi nổi khắp nơi. Họ về thì những gia đình có vết tích lại ra đi. Hầu tước Del Dongo là một trong những kẻ đầu tiên chạy trốn, ông ta trốn về lâu đài Grianta của mình. Gia trưởng các vọng tộc thì thù hằn và sợ hãi như vậy, còn vợ và con gái họ thì vẫn nhớ những thú vui khi quân Pháp đến lần trước, họ không đành rời bỏ Milan và luyến tiếc những buổi khiêu vũ biết bao vui vẻ. Liền ngay sau trận Marengo, các cuộc khiêu vũ được tổ chức lại ở Vũ viện.
Sau trận chiến thắng chỉ mấy hôm, vị tướng Pháp trông coi việc trị an ở Lombards nhận thấy tất cả những tá điền của bọn quý tộc cũng như tất cả những bà lão nông thôn đều chẳng còn nghĩ gì đến cái chiến công lạ lùng đó, cái chiến công đã thu phục mười ba thành trì trong một hôm và thay đổi vận mệnh nước Ý. Họ mải băn khoản về lời tiên tri của thánh Giovita, vị thánh đỡ đầu thứ nhất của thành phố Brescia. Tiếng nói thiêng liêng đó báo trước là sự thịnh vượng của người Pháp và của Napoléon sẽ chấm dứt đúng mười ba tuần lễ sau trận Marengo, Ta có thể lượng thứ phần nào cho hầu tước Del Dongo và tất cả bọn quý tộc bất hợp tác ở nông thôn vì họ thực sự tin lời tiên tri ấy và không đóng kịch tí nào. Cái bọn ấy cả đời không đọc hết bốn cuốn sách! Cuối thời hạn mười ba tuần kia, chúng công khai thu xếp hồi cư. Thế nhưng thời gian càng trôi qua càng ghi thêm nhiều chiến công mới của nước Pháp, về Paris, Napoléon đã cứu cuộc cách mạng ở trong nước bằng những sắc lệnh khôn ngoan, cũng như ông đã cứu nó khỏi bị bọn nước ngoài bóp chết, bằng chiến thắng Marengo. Tức thời bọn quý tộc Lombards trốn trong các lâu đài của chúng thấy rằng trước kia chúng hiểu sai lời tiên tri của thánh đỡ đầu thành Brescia, không phải mười ba tuần lễ, mà là mười ba tháng. Rồi mười ba tháng cũng trôi qua mà nước Pháp thì có vẻ như ngày càng cường thịnh.
Chúng ta hãy lướt nhanh trên quãng mười năm thịnh đạt và hạnh phúc từ 1800 đến 1810. Những năm đầu Fabrice sống ở lâu đài Grianta. Cùng với bọn trẻ nhà quê, chú bé đấm đá ra trò và bị đấm đá cũng gớm. Chú chả học hành gì cả, đến cả tập đọc cũng không, về sau người ta gửi chú đến trường của Dòng Tên tại Milan. Ông bố buộc người ta dạy chữ La tinh cho chú không phải cái thứ La tinh của các tác giả xa xưa cứ luôn luôn nói đến các nước cộng hòa, mà cái thứ La tinh trong một cuốn sách to đẹp, có hơn trăm tranh khác của những nghệ sĩ thế kỷ XVI. Đó là gia phả của họ Valserra, hầu tước Del Dongo, viết bằng chữ La tinh, do Fabrice Del Dongo, tổng giám mục thành Parme xuất bản năm 1650. Họ Valserra hiển đạt chủ yếu là do vũ công, cho nên các tranh minh họa vô số trận chiến đấu, trong đó luôn luôn có một anh hùng mạnh tên họ Valserra vung gươm đánh những miếng kiêu dũng. Chú bé Fabrice rất thích sách ấy. Yêu quý chiều chuộng chú, mẹ chú thỉnh thoảng xin phép đến Milan thăm chú. Nhưng ông chồng không bao giờ chi tiền cho bà đi, cho nên bà em chồng đáng mến, bà bá tước Pietranera vui lòng cho vay. Sau khi quân Pháp trở lại thì nữ bá tước trở thành một trong những mệnh phụ sắc sảo nhất giữa triều đình hoàng thân Eugène 18 phó vương.
Khi Fabrice đã làm lễ thụ thánh thể thứ nhất thì bà mẹ xin được phép ông hầu tước, vẫn đang lưu vong tự nguyện, cho chú bé thỉnh thoảng ra khỏi trường. Bà nhận thấy chú kháu khỉnh, không đến nỗi làm mất vẻ mỹ quan của phòng khách một người đàn bà được quý chuộng ngoài ra, dốt không xiết kể, chỉ tạm tạm biết viết thôi. Bá tước phu nhân làm việc gì cũng rất nhiệt tình, bà hứa sẽ che chở cho ông hiệu trưởng nếu cháu bà tiến bộ vượt bậc và cuối năm được nhiều phần thưởng. Để tạo điều kiện cho cháu được khen thưởng, cứ chiều thứ bảy mỗi tuần, bà cho người đến lĩnh chú bé ra và nhiều khi đến thứ tư hoặc thứ năm mới trả về cho các thầy giáo.
Các cha cố Dòng Tên được hoàng thân phó vương yêu thương trìu mến. Nhưng luật lệ vương quốc Ý không chấp nhận họ, cho nên cha hiệu trưởng, vốn là người khôn khéo, cảm thấy tất cả cái lợi thế có thể khai thác trong việc giao thiệp với một người phụ nữ quyền uy vô thượng ở chốn cung đình. Cha tránh không phàn nàn gì về những ngày khiếm diện của Fabrice. Còn chú bé thì vẫn dốt nát hơn bao giờ hết, nhưng cuối năm nhận được năm phần thưởng đầu lớp. Thỏa mãn về khoản ấy, bá tước phu nhân Pietranera lộng lẫy đến dự lễ phát phần thưởng ở nhà trường Dòng Tên. Cùng đi với bà có chồng bà, tư lệnh trưởng một sư đoàn cấm vệ quân, và năm sáu nhân vật cao cấp nhất ở triều đình phó vương. Cha hiệu trưởng được cấp trên ban khen.
Nữ bá tước mang cháu đi dự tất cả những ngày khánh tiết rực rõ đánh dấu triều đại quá ngắn ngủi của hoàng thân Eugène đáng yêu. Bà dùng uy thế của bà vận động cho chú bé được tuyển phong sĩ quan kỵ binh và mười hai tuổi chú đã mặc bộ quân phục đó. Nữ bá tước một hôm say sưa với dáng điệu tuấn nhã của Fabrice bèn xin cho chú làm thị đồng của hoàng thân, như thế có nghĩa là họ Del Dongo quy phục triều đại mới. Ngày hôm sau, bà lạí phải tận dụng uy tín của mình để làm cho phó vương vui lòng bỏ qua điều thỉnh cầu ấy. Nói cho đúng thì chỉ cần xin bố Fabrice đồng ý là xong, nhưng cũng rõ ràng là ông ta sẽ bác khước và làm toáng lên. Hành động ngông cuồng đó của bà em làm cho ông hầu tước bất hợp tác rùng mình, ông kiếm cớ bắt Fabrice trở về Grianta. Bá tước phu nhân khinh bỉ người anh của mình hết chỗ nói. Bà cho ông ta là một thằng ngốc chán ngắt, một kẻ tàn ác nếu có điều kiện. Nhưng bởi say mê Fabrice, và sau mười năm không quan hệ với anh, bà viết thư cho hầu tước đòi trả cháu bà cho bà. Thư đi không có thư lại.
Cái lâu đài Grianta kiêu hùng ấy ngày xưa do những ông tổ hiếu chiến nhất của Fabrice xây dựng. Khi trở về đấy, chú bé chẳng biết gì cả ngoài việc luyện tập gươm súng và cưỡi ngựa. Bá tước Pietranera cũng say chú bé như vợ và thường cũng đã cho chú cưỡi ngựa đi dự các cuộc duyệt binh, diễu binh.
Fabrice về lâu đài Grianta mắt còn mọng đỏ vì đã khóc nhiều khi rời phòng khách của bà cô, chú chỉ được mẹ và các chị em chú say sưa ve vuốt. Còn ông bố thì mãi ngồi trong buồng kín với người con trưởng, tiểu hầu Ascanio. Bố con họ bận làm những bức thư mật mã được vinh dự gửi đi Viên. Họ chỉ ra mặt lúc cơm nước. Hầu tước cố ý nói đi nói lại cho mọi người nghe là ông ta phải tập cho người thừa kế làm sổ sách hợp thức về những hoa lợi của mỗi trang ấp của mình. Thực ra hầu tước rất giữ gìn quyền lực của mình cho nên có nói những điều ấy với con bao giờ đâu. Chẳng qua ông dùng con chuyển thành mật mã những bức thư dài mười lăm hai mươi trang mà mỗi tuần hai ba lần ông, cho đưa sang Thụy Sĩ, để cho người ta gửi về Viên. Hầu tước có tham vọng báo cáo cho các vương chủ chính thống của mình biết nội tình vương quốc Ý mà bản thân ông cũng chẳng nắm được chút nào. Tuy nhiên thư từ của ông rất được hoan nghênh, vì lẽ thế này: Hầu tước bảo một tên tay sai tin cẩn của mình rình trên đường thiên lý, hễ thấy một trung đoàn Pháp hay Ý nào hành quân đổi cứ điểm thì đếm quân số, rồi ông báo cáo về triều đình Viên, lúc kê báo ông đã cẩn thận rút bớt già dặn một phần tư. Những báo cáo buồn cười ấy có ưu điểm là "đính chính" những báo cáo trung thực hơn, và nó được người ta ưa thích. Bởi thế, trước khi Fabrice đến lâu đài, hầu tước đã được tặng thưởng một huân chương nổi tiếng. Và đó cũng là huân chương thứ năm trang trí bộ phẩm phục thị thần của ông. Nói cho đúng ông cũng phiền, vì không dám đóng bộ phẩm phục ấy đi ra khỏi buồng. Được cái là không bao giờ ông chịu đọc một bức điện nếu không chỉnh tề áo mão, ngù treo đủ năm huân chương. Nếu không làm thế, ông cho là bất kính.
Hầu tước phu nhân say sưa với phong thái tuấn nhã của cậu con trai. Bà vẫn giữ thói quen mỗi năm hai ba lần viết thư cho tướng A... bá tước, danh vị hiện nay của trung úy Robert xưa kia. Bà nói dối những người mình yêu là ghê tởm, cho nên để nói về Fabrice với Robert, bà hỏi han con và lấy làm kinh hoàng về sự dốt nát của nó.
Bà tự nhủ: "Mình chẳng biết gì mà cũng thấy con dốt huống hồ Robert. Robert thông thái như thế chắc phải cho việc giáo dục của nó hỏng bét, thế mà đời nay thì lại cần có tài trí". Một đặc điểm nữa khiến bà không kém kinh ngạc là Fabrice tin một cách mù quáng tất cả những điều về tín ngưỡng mà các thầy Dòng Tên dạy cho nó. Sự cuồng tín của chú bé làm cho bà rùng mình mặc dù bà rất ngoan đạo. "Giá ông hầu tước mà tinh ý, dùng điều này làm phương tiện lung lạc thì ông ta sẽ chiếm đoạt lòng yêu thương của con mình mất". Bà khóc rất nhiều và tình thương con của bà lại càng nồng nhiệt hơn.
Cuộc sống diễn ra rất buồn bã ở trong lâu đài có ba bốn mươi gia bộc đó. Bởi vậy cả ngày Fabrice cứ đi săn bắn hoặc là bơi thuyền trên mặt hồ. Chú kết thân khá nhanh với những người đánh xe và giữ ngựa. Tất cả đều say sưa ủng hộ người Pháp và chế giễu ra mặt những tên hầu phòng ngoan đạo phục vụ trực tiếp hầu tước hay người con trưởng. Đề mục châm biếm chủ yếu chĩa vào nhân vật trịnh trọng ấy là việc chúng học đòi các ông chủ, dùng phấn.
Chú thích:
1 Stendhal là bút danh của nhà văn Pháp Henri Beyle (1783-1842). Ông sinh ra ở thị trấn Grenoble, thuộc miền đông nước Pháp, ở cách biên giới Ý khoảng l00km. Ông từng cư trú nhiêu lần ở Ý và có lúc hoạt động cho sự nghiệp giải phóng và thống nhất nước Ý. Tác phẩm chính của ông: Rome, Naples và Florence Về tình yêu (1822), Racine và Shakespeare, Đỏ và Đen (1830), Cuộc đời Henri Beyle, Tu viện thành Parme 1839. Giới văn học Pháp và Liên Xô hiện nay đặt ông ngang hàng Balzac. Xem tiểu sử Stendhal ở đầu bản dịch Đỏ và Đen (NXB. Văn học).
2 Một cô gái trẻ đã tỏ tình với Stendhal khi ông 47 tuổi, về sau nhiều lần gặp lại vẫn yêu ông, mãi cho đến lúc ông chết (1842).
3 Chanoine: Linh mục cao cấp, hội viên của một hội đồng linh mục bên cạnh một vị giám mục, tổng giám mục hoặc giáo chủ.
4 Tác giả viết Zambajon; bản dịch tiếng Nga của Nem, Chinôva viết Zambaione với nguyên chữ cái Pháp. Từ điển Pháp hiện nay đều không có Zambaion hoặc Zambaione. Chỉ có Sambayon hoặc Sabayon. Từ điển Robert chú giải từ Sabayon.
5 Sabaillon; tiếng Ý: Sabayon = Món kem làm bằng lòng đỏ tráng gà đánh với rượu vang, đường và hương liệu. Có lẽ Stendhal viết theo âm địa phương hoặc chính tả thời đó.
6 Tiếng Ý trong nguyên bản, không có khái niệm tương đương trong tiếng ta.
7 Bonaparte (về sau là hoàng đế Napoléon 1769-1821, lúc bấy giờ 27 tuổi, được chính phủ Cộng hòa cách mạng Pháp cử làm tổng tư lệnh mặt trận Ý. Đạo quân Bonaparte chỉ huy đánh bại đạo quân của hoàng đế Áo đang thống trị đất nước Ý, bằng một loạt chiến thắng lừng lẫy, trong đó có chiến tích vượt cầu Lodi (Bản dịch này do người dịch chú thích, số chú thích cũ của tác giả đều được ghi rõ).
8 César: Tướng lĩnh và nhà độc tài cổ La Mã. Alexandre: Vua xứ Macedonia (ở phía bắc Hy Lạp). Hai người này được coi là những nhà quân sự kiệt xuất thời cổ đại ở Tây phương.
9 Quân của hoàng đế Áo và của tiêu vương Milan, chư hầu của hoàng đế Áo.
10 Lombardie (Lombards-Lombarde) Một xứ ở Bắc Ý, kinh thành là Milan. Milan đã chống quân Đức xâm lược một cách bền bỉ, cuối cùng bị hoàng đế Đức Frédéric Barberousse, phá hủy (thế kỷ XII), sau này mới được xây dựng lại.
11 Tư tưởng tự do, khoa học, vô thần... thấm nhuần bộ Bách khoa toàn thư do các nhà triết học, khoa học, văn học... soạn vào quãng giữa thế kỷ XVIII ở Pháp.
12 Voltaire: Một trong những nhà văn, nhà triết học Pháp lớn nhất thế kỷ XVIII, mà tư tưởng nhân bản luôn bảo vệ cho tự do, công lý, tiến bộ xã hội (1694 - 1778).
13 Đất Hungari bấy giờ là một thành phần lãnh thổ chính của đế quốc Áo - Hung.
14 Gros: Họa sĩ Pháp nổi tiếng, một trong những nhà khai sáng của chủ nghĩa lãng mạn Pháp (1771-1835) trong hội họa.
15 Trong các tước vị ở châu Âu, ngoài tước công thông thường (duc) còn có đại công tước (grandduc) và thượng công tước (arechiduc), nữa để gọi các hoàng thân con cháu vua Áo. Chúng tôi thấy cần dịch thượng công tước để hiểu sự chơi chữ của tác giả.
16 Chính phủ cộng hòa Pháp, thành lập sau khi viện Khế ước giải tán, gồm có 5 vị Đốc chính ở trung ương, Viện này bị tướng Bonaparte lật đổ bằng cuộc đảo chính vào tháng sương mù (1799). (Tên Pháp: viện Đốc chính: Directoire; viện Khế ước: Convention).
17 Nơi quân Pháp, lần này cũng do Bonaparte chỉ huy, đánh quân Áo đại bại năm 1800. Marengo là một phần trên đất nước Ý.
18 Eugène de Beauharnais: Con đời chồng trước của hoàng hậu Joséphine vợ Napoléon được Napoléon phong phó vương Ý. Là một chỉ huy xuất sắc trong các trận chiến đấu thời đế chế (1781-1824).
Tu Viện Thành Parme Tu Viện Thành Parme - Stendhal Tu Viện Thành Parme