Phần Một - Chương 1
húng tôi chèo thuyền qua vịnh, đi ngang qua những con tàu dập dềnh đang đùn gỉ ra từ các mối nối của chúng, qua những đám chim biển lặng lẽ đậu thành hàng trên đỉnh những tàn tích bướng bỉnh còn sót lại của các bến tàu đã chìm, ngang qua những ngư dân hạ lưới xuống nhìn chăm chăm như hóa đá khi chúng tôi bơi ngang qua, không dám chắc chúng tôi có thật hay chỉ là ảo ảnh; một cuộc diễu hành của những bóng ma trên mặt nước, hay của những kẻ sẽ sớm trở thành hồn ma. Chúng tôi là mười đứa trẻ và một con chim trên ba chiếc thuyền nhỏ tròng trành, quả quyết chèo đi trong im lặng thẳng ra ngoài biển, khu vịnh an toàn duy nhất trong vòng nhiều dặm nhanh chóng lùi xa đằng sau chúng tôi, lởm chởm những vách đá và đầy huyền ảo trong ánh vàng buổi bình minh pha lẫn màu trời xanh. Đích đến của chúng tôi, bờ biển đất liền xứ Wales đầy mong đợi, nằm đâu đó phía trước nhưng chỉ hiện ra mờ mờ, một dải sẫm màu mơ hồ chạy dài theo đường chân trời phía xa.
Chúng tôi chèo qua trước ngọn hải đăng cũ bình thản vươn lên đằng xa, chỉ mới tối qua đây còn là nơi xảy ra bao biến cố kinh hoàng. Chính tại đó, trong khi bom đang nổ rền quanh mình, chúng tôi đã thiếu chút nữa chết đuối, thiếu chút nữa bị những viên đạn xé ra từng mảnh; cũng tại đó tôi đã cầm lấy một khẩu súng, siết cò và giết chết một người, một hành động đến giờ tôi vẫn không hiểu nổi; tại đó chúng tôi đã để mất cô Peregrine rồi giành lại được bà - từ bộ hàm thép của một chiếc tàu ngầm - dù cô Peregrine trở lại với chúng tôi đã bị tổn thương, cần sự giúp đỡ mà chúng tôi thì không biết giúp như thế nào. Lúc này bà đang đậu trên đuôi thuyền của chúng tôi, nhìn về nơi trú ẩn bà tạo dựng nên giờ đang lùi xa dần, khuất dần sau mỗi nhịp chèo.
Cuối cùng, chúng tôi chèo qua đê chắn sóng và ra ngoài biển khơi rộng mênh mông, và mặt nước phẳng lặng như gương của vịnh bị khuấy động bởi những gợn sóng nhỏ bị cắt ra theo hai bên mạn thuyền của chúng tôi. Tôi nghe thấy một chiếc máy bay đang xuyên qua các đám mây cao tít trên đầu chúng tôi và, dừng tay chèo lại, tôi nghển cổ lên, chững lại để hình dung xem đội thuyền bé nhỏ của chúng tôi nhìn từ trên độ cao đó thì như thế nào: tôi đã lựa chọn thế giới này, và mọi thứ tôi có trong nó, và tất cả những sinh mạng đặc biệt, quý giá của chúng tôi chứa gọn trong ba mảnh gỗ mong manh trôi nổi trên con mắt mênh mông không chớp của biển cả.
Xin hãy nhân từ.
***
Những chiếc thuyền của chúng tôi dễ dàng lướt qua những con sóng, cả ba chiếc cùng sóng hàng ngang nhau, một cơn gió thân thiện đưa chúng tôi về phía bờ. Chúng tôi thay nhau chèo thành ca, lần lượt cầm mái chèo để tránh kiệt sức, mặc dù tôi cảm thấy mạnh mẽ đến mức trong gần một giờ tôi từ chối nhường lại chúng. Tôi đắm mình trong nhịp chèo khua, hai cánh tay tôi vẽ thành từng đường hình e líp dài trong không khí như thể đang kéo về phía mình thứ gì đó từ chối trong chịu tới. Hugh phụ trách mái chèo bên đối diện với tôi, và đằng sau cậu ta, ngồi trên mũi thuyền, là Emma, đôi mắt cô ẩn kín dưới vành của một chiếc mũ rộng vành, đầu cúi xuống một tấm bản đồ được trải ra trên hai đầu gối. Thỉnh thoảng cô lại ngẩng lên khỏi bản đồ để quan sát đường chân trời, và chính hình ảnh khuôn mặt cô trong ánh mặt trời đã đem đến cho tôi năng lượng tôi không ngờ mình có.
Tôi cảm thấy mình có thể chèo mãi - cho tới khi Horace hét lớn từ một trong hai chiếc thuyền còn lại hỏi còn bao nhiêu đại dương nữa ngăn cách chúng tôi với đất liền, còn Emma thì nheo mắt nhìn lại phía hòn đảo, rồi cúi xuống bản đồ, những ngón tay xòe ra để đo đạc, sau đó nói, ít nhiều ngờ vực, “Bảy cây số thì phải?” Nhưng sau đó Millard, cũng ngồi trên thuyền của chúng tôi, thì thầm gì đó vào tai Emma, cô cau mày rồi xoay vuông góc tấm bản đồ lại, rồi lại cau mày, và nói, “Ý tớ là tám cây rưỡi.” Khi những từ này rời khỏi miệng cô, tôi cảm thấy mình - và nhìn thấy những người khác - có vẻ ít nhiều nản chí.
Tám cây rưỡi: hành trình mất một giờ đồng hồ trên chiếc phà làm dạ dày lộn ngược đã đưa tôi tới Cairnholm vài tuần trước. Khoảng cách mà một chiếc thuyền máy bất cứ kích cỡ nào cũng có thể dễ dàng vượt qua. Ít hơn một cây rưỡi so với quãng đường các ông bác phì nộn của tôi cứ cách một tuần lại chạy vào dịp cuối tuần để làm từ thiện, và cũng chỉ nhiều hơn thế một chút so với quãng đường mẹ tôi tự đắc bà có thể thực hiện được trong các lớp tập trên máy chèo thuyền tại phòng gym tưởng tượng của bà. Nhưng phải ba mươi năm nữa chiếc phà chạy qua lại giữa hòn đảo và đất liền mới bắt đầu hoạt động, những chiếc máy tập chèo thuyền thì không hề bị chất nặng hành khách và hành lý, và chúng cũng không đòi hỏi phải liên tục chỉnh hướng chèo chỉ để giữ thuyền đi đúng hướng. Phiền phức hơn thế, quãng đường biển chúng tôi đang vượt qua lại rất bất trắc, một cái bẫy nuốt chửng tàu bè khét tiếng: tám cây rưỡi trên mặt biển đỏng đảnh, quay quắt, dưới đáy rải rác những xác tàu đắm đã xanh rì cùng xương cốt thủy thủ, và lẩn khuất đâu đó trong bóng tối sâu thẳm là kẻ thù của chúng tôi.
Có những người trong chúng tôi lo sợ như thế, họ cho rằng đám xác sống đang ở ngay gần, đâu đó bên dưới chúng tôi, trong chiếc tàu ngầm Đức đó, chờ đợi. Nếu chưa biết chúng tôi đã chạy trốn khỏi đảo, thì chúng cũng sẽ sớm biết. Chúng không đời nào đi xa tới mức bắt cóc cô Peregrine để rồi lại bỏ cuộc chỉ sau một lần thử sức thất bại. Những chiếc tàu chiến đang chậm chạp dịch chuyển ngoài xa như những con rết và các máy bay Anh thường trực quan sát trên không khiến cho việc nổi lên bề mặt giữa ban ngày quá nguy hiểm với chiếc tàu ngầm, nhưng khi màn đêm buông xuống, chúng tôi sẽ trở thành con mồi ngon xơi. Chúng sẽ tìm đến chúng tôi, bắt cô Peregrine đi, và nhấn chìm những người còn lại. Thế là chúng tôi chèo, hy vọng duy nhất của chúng tôi là tới được đất liền trước khi màn đêm bắt kịp.
***
Chúng tôi chèo cho tới khi cánh tay đau nhức, vai nổi cục. Chúng tôi chèo cho tới khi cơn gió hây hẩy buổi sáng ngừng thổi và mặt trời gay gắt xối nắng xuống chúng tôi như thể qua một thấu kính phóng đại, và mồ hôi đọng lại ướt sũng quanh cổ áo chúng tôi, và tôi nhận ra đã không ai nghĩ đến chuyện mang theo nước ngọt, còn biện pháp chống nắng vào năm 1940 đồng nghĩa với việc đứng trong bóng râm. Chúng tôi chèo cho tới khi da quanh rìa lòng bàn tay bong tróc, tin chắc mình hoàn toàn không thể chèo thêm nhát nào nữa, nhưng rồi lại chèo, rồi thêm một nhịp, rồi lại thêm một nhịp nữa.
“Các cậu ra hàng xô mồ hôi rồi đấy,” Emma nói. “Để tớ chèo cho một lúc không các cậu chảy tan hết bây giờ.”
Giọng nói của cô làm tôi giật mình bừng tỉnh khỏi một cơn đờ đẫn. Tôi gật đầu đầy biết ơn và để cô ngồi thay vào chỗ chèo thuyền, nhưng hai mươi phút sau tôi đòi lại nó. Tôi không thích những ý nghĩ len lỏi vào đầu mình khi cơ thể tôi nghĩ ngơi: những cảnh tưởng tượng bố tôi tỉnh giấc phát hiện ra tôi đã đi khỏi khu phòng trọ của hai bố con tại Cairnholm, thay vào chỗ tôi là lá thư khó hiểu của Emma; rồi cơn hoảng loạn sẽ diễn ra kế tiếp. Hồi ức về những điều kinh hoàng tôi phải chứng kiến gần đây thoáng lóe lên; một con quái vật kéo tôi vào bộ hàm của nó; kẻ từng là bác sĩ tâm lí của tôi rơi xuống chết; một người đàn ông bị vùi trong một cái quan tài đầy nước đá, bị lôi từ thế giới bên kia trở lại trong thoáng chốc để lào phào vào tai tôi với cái cổ họng chỉ còn một nửa vẹn. Vậy là tôi chèo bất chấp sức lực cạn kiệt cùng cái cột sống có vẻ sẽ chẳng bao giờ thẳng lại được, cũng như hai bàn tay trầy xước vì ma sát, và cố không nghĩ tới bất cứ điều gì, những chiếc mái chèo nặng trịch đó vừa như một bản án chung thân vừa như một cái phao cứu sinh.
Bronwyn, dường như không biết mệt mỏi, một mình chèo cả một chiếc thuyền. Olive ngồi đối diện nhưng chẳng giúp được gì; cô gái nhỏ không thể kéo mái chèo đi mà không nhấc bổng mình lên không trung, để rồi một cơn gió nhẹ cũng có thể làm cô bay vụt đi mất như một cái diều. Vậy là Olive hò hét cổ vũ trong khi Bronwyn gánh phần việc của hai người - hay ba hoặc bốn, nếu bạn tính đến những chiếc va li và hộp chất đầy chiếc thuyền của họ, bên trong nhét đầy quần áo, thức ăn, bản đồ, sách và rất nhiều thứ ít thực tế hơn, như vài chiếc lọ đựng tim bò sát ngâm dấm trong cái túi vải len thô của Enoch; hay tay nắm cửa trước bị bung ra từ ngôi nhà của cô Peregrine, một kỷ vật Hugh tìm thấy trên bãi cỏ lúc chúng tôi đi ra thuyền và quyết định cậu ta không thể sống thiếu nó; hay cái gối cồng kềnh Horace đã cứu khỏi ngôi nhà đang cháy - đó là cái gối may mắn của cậu ta, anh chàng nói vậy, và là thứ duy nhất ngăn chặn được những cơn ác mộng làm cậu ta sợ đến đờ người.
Những món đồ khác quý giá tới mức đám trẻ giữ khư khư bên mình thậm chí cả khi chèo thuyền. Fiona kẹp giữa hai đầu gối một chậu đất có cả giun lấy trong vườn. Millard đã bôi lên mặt một nắm bột gạch bị bom nghiền nát vụn, việc này lạ lùng cứ như thể một nghi thức để tang. Những thứ họ giữ lại khư khư ấy có vẻ lạ lùng, nhưng một phần trong tôi lại cảm thấy đồng cảm: đó là tất cả những gì họ còn lại từ mái ấm của họ. Những đứa trẻ biết nó đã mất không có nghĩa là họ biết từ giã nó thế nào.
Sau ba giờ chèo thuyền như những nô lệ khổ sai, khoảng cách đã làm hòn đảo co nhỏ lại còn cỡ một bàn tay xòe ra. Trông nó chẳng còn gì tương đồng với cái pháo đài bao quanh toàn vách đá cheo leo báo điềm gở mà tôi trông thấy lần đầu tiên vài tuần trước; giờ đây, trông hòn đảo có vẻ mong manh, một phiến đá đang đứng trước nguy cơ bị những con sóng cuốn phăng đi.
“Nhìn xem!” Enoch đang ngồi thuyền bên cạnh chúng tôi chợt hét lên, đứng bật dậy. “Nó đang biến mất!” Một màn sương mù ma quái bao trùm lấy hòn đảo, che khuất nó khỏi tầm mắt, chúng tôi bèn ngừng chèo dõi theo nó mờ dần.
“Hãy nói lời tạm biệt hòn đảo của chúng ta,” Emma nói, cô đứng lên và bỏ mũ ra. “Có thể chúng ta sẽ không bao giờ thấy lại nó nữa.”
“Vĩnh biệt, Đảo,” Hugh nói. “Bạn đã thật tốt với chúng tôi.”
Horace đặt mái chèo của cậu ta xuống và vẫy tay. “Tạm biệt, Nhà. Tớ sẽ nhớ tất cả các căn phòng cũng như khu vườn của cậu, nhưng chủ yếu là nhớ cái giường của tớ.”
“Tạm biệt, Vòng,” Olive sụt sịt. “Cảm ơn bạn đã che chở bọn mình an toàn suốt những năm qua.”
“Những năm tuyệt vời,” Bronwyn nói. “Những năm tuyệt nhất tờ từng biết.”
Cả tôi cũng thầm tạm biệt với nơi đã thay đổi tôi mãi mãi - và cũng là nơi, còn hơn bất cứ nấm mồ nào, sẽ mãi lưu giữ ký ức cũng như bí ẩn về ông tôi. Ông và hòn đảo đó đã trở nên gắn bó đến độ không thể tách rời, và giờ đây, khi cả hai đều đã biến mất, tôi tự hỏi liệu có bao giờ thực sự hiểu được những gì đã xảy đến với mình không: tôi đã trở thành cái gì, đang trở thành cái gì. Tôi đã tới hòn đảo để giải đáp bí ẩn của ông mình, và trong khi làm điều đó, tôi lại khám phá ra bí ẩn về chính mình. Quan sát Cairnholm biến mất cũng giống như chứng kiến chiếc chìa khóa duy nhất còn lại để mở ra bí ẩn của tôi chìm dần dưới những ngọn sóng thăm thẳm mịt mù.
Rồi, bị nuốt chửng bởi màn sương mù khổng lồ, hòn đảo cứ thế mà biến mất.
Như thể nó chưa từng tồn tại.
***
Không lâu sau, màn sương mù bắt kịp chúng tôi. Tầm nhìn của chúng tôi ngày càng hẹp dần, đất liền mờ đi, mặt trời nhạt nhòa chỉ còn là một quầng trắng nhợt, và chúng tôi quay vòng trong con nước cuộn xoáy cho tới khi mất hết mọi cảm nhận về phương hướng. Cuối cùng, chúng tôi dừng lại, đặt mái chèo xuống và chờ đợi trong sự im lặng buồn nản, hy vọng sương mù sẽ tan; sương chưa tan thì đi thêm nữa cũng chỉ vô ích.
“Tớ không thích thế này đâu,” Bronwyn nói. “Nếu bọn mình đợi quá lâu, đêm sẽ buông xuống, lúc ấy bọn mình sẽ phải tính đến những thứ đáng lo ngại hơn thời tiết xấu.”
Thế rồi, như thể nghe thấy lời Bronwyn và quyết định bắt chúng tôi phải ở yên chỗ, thời tiết xoay sang cực tồi. Một cơn gió mạnh bùng lên, và chỉ trong vài khoảnh khắc, thế giới của chúng tôi đã biến đổi. Mặt biển quanh chúng tôi bị quất lên thành những con sóng bạc đầu đập vào mạn và đổ ập vào lòng thuyền, làm nước lạnh sóng sánh quanh chân chúng tôi. Tiếp theo mưa trút xuống, dữ dội như những viên đạn nhỏ đập lên da chúng tôi. Chẳng mấy chốc, chúng tôi đã bị đảo lộn quay cuồng như những món đồ chơi cao su trong một bồn tắm.
“Quay mũi thuyền hướng vào các con sóng!” Bronwyn hét lên, dùng đôi mái chèo của cô chém xuống nước. “Nếu chúng đập vào mạn, chúng ta chắc chắn sẽ bị lật” Nhưng phần lớn chúng tôi chèo thuyền khi biển lặng cũng đã mệt lả, đùng nói gì lúc biển sôi trào, số còn lại thì quá sợ hãi chẳng với nổi lấy mái chèo, nên thay vì thế, chúng tôi cố sống cố chết bám chặt lấy mạn thuyền.
Một bức tường nước cồn lên lao thẳng về phía chúng tôi. Chúng tôi trồi lên trên con sóng khổng lồ, mấy chiếc thuyền gần như dựng đứng. Emma bám lấy tôi, còn tôi bám lấy cọc chèo; đằng sau chúng tôi, Hugh dùng cả hai cánh tay bíu chặt lấy chỗ ngồi. Chúng tôi leo lên đỉnh con sóng như đang ở trên đoàn xe ray nhào lộn, dạ dày tôi như rơi tuột xuống tận chân, và khi chúng tôi lao xuống sườn dốc bên kia con sóng, tất cả những thứ trong thuyền không được gắn chặt xuống bằng đinh - bản đồ của Emma, túi của Hugh, cái va li kéo màu đỏ tôi đã mang bên mình từ Florida - đều bay qua đầu chúng tôi rồi rơi xuống nước.
Chẳng có thời gian đâu để lo lắng tới những gì đã mất, vì thoạt đầu chúng tôi thậm chí còn không thấy được những chiếc thuyền khác. Khi trở lại vị trí thăng bằng chúng tôi liếc mắt nhìn vào vũng nước xoáy và lớn tiếng gọi tên các bạn mình. Một khoảnh khắc im lặng khủng khiếp trôi qua trước khi chúng tôi nghe thấy những giọng nói cất lên gọi lại chúng tôi, và chiếc thuyền của Enoch xuất hiện từ màn sương mù, cả bốn người đang ngồi nguyên trên đó, vẫy tay về phía chúng tôi.
“Mọi người ổn cả chứ?” tôi hét lên
“Đằng kia!” họ gọi lại. “Nhìn đằng kia!”
Tôi thấy họ không phải vẫy tay chào, mà thu hút sự chú ý của chúng tôi về phía một thứ trên mặt nước, cách đó gần ba mươi mét - một thân thuyền bị lật úp.
“Đó là thuyền của Bronwyn và Olive!” Emma nói.
Chiếc thuyền đã lộn ngược, phần đáy thuyền hoen gỉ chĩa lên trời. Quanh thuyền không có dấu hiệu nào của hai cô bạn.
“Chúng tôi phải lại gần hơn!” Hugh lớn tiếng, và quên hết tình trạng kiệt sức của mình, chúng tôi cầm lấy mái chèo rồi chèo về phía chiếc thuyền lật, không ngớt gọi to tên họ.
Chúng tôi chèo qua một đám áo quần bị hất tung ra từ các va li bị mở toang, chúng tôi đi thuyền qua bên những chiếc váy đang dập dềnh giống hệt cô gái nào đó chết đuối. Tim tôi đập thình thịch trong lồng ngực, và cho dù cả người ướt sũng và đang run lẩy bẩy, tôi hầu như không cảm thấy lạnh. Chúng tôi gặp thuyền Enoch tại chỗ chiếc thuyền lật úp của Bronwyn và cùng nhau tìm kiếm khắp mặt nước.
“Họ đâu rồi?” Horace rên rỉ. “Ôi, nếu chúng ta mất họ…”
“Ở bên dưới!” Emma nói, chỉ tay vào chiếc thuyền lật úp. “Có thể họ bị mắc kẹt bên dưới nó!”
Tôi rút một mái chèo của mình ra khỏi cọc đỡ và đập vào thân chiếc thuyền lật úp. “Nếu các bạn đang ở bên trong, bơi ra đi!” tôi gọi to. “Bọn mình sẽ cứu các cậu!”
Khoảnh khắc đó thật đáng sợ, không tiếng trả lời nào vang lên, và tôi có thể cảm thấy mọi hy vọng cứu được hai cô gái tan biến dần. Nhưng rồi sau đó, từ dưới chiếc thuyền lật úp có một tiếng gõ đáp lại - rồi một nắm tay đấm xuyên qua thành thuyền, những vụn gỗ bắn tung lên, và tất cả chúng tôi cùng bật dậy vì bất ngờ.
“Đó là Bronwyn!” Emma réo lên. “Họ còn sống!”
Thêm vài cú đấm nữa, Bronwyn đã có thể đục ra trên thân thuyền một cái lỗ vừa người chui lọt. Tôi chìa mái chèo cho cô và cô nắm lấy nó, rồi Hugh và Emma cùng xúm vào, chúng tôi đã đưa được cô qua mặt nước cuộn trào, đưa cô vào trong thuyền chúng tôi trong khi thuyền của cô chìm nghỉm, biến mất dưới các con sóng, Bronwyn rất hoảng hốt, kích động, cô cứ hét lên dù chẳng còn hơi sức. Cô hét lên bởi Olive không có mặt dưới thân thuyền cùng cô. Cô bé vẫn mất tích.
“Olive… tới cứu Olive,” Bronwyn lắp bắp khi đã lăn nhào vào trong lòng thuyền. cô run lẩy bẩy, ho khạc ra nước biển. Cô đứng dậy trong lòng thuyền tròng trành và chỉ vào con bão tố. “Đằng kia!” cô kêu lên. “Thấy không?”
Tôi đưa tay lên che mắt khỏi làn mưa rát rạt và nhìn theo, nhưng tất cả những gì tôi thấy là những con sóng và sương mù. “Tớ chẳng thấy gì cả!”
“Cậu ấy ở đằng kia!” Bronwyn quả quyết. “Sợi dây!”
Thế rồi tôi nhìn thấy thứ cô chỉ vào: không phải một cô gái đang vùng vẫy trên mặt nước mà là một sợi dây gai to nhô lên, gần như không thể nhìn thấy trong cảnh hỗn loạn này. Một đoạn dây màu nâu bị kéo thẳng căng chạy từ mặt nước lên và mất hút vào sương mù. Olive hẳn đang được buộc vào đầu trên, không thể trông thấy.
Chúng tôi chèo đến chỗ sợi dây, Bronwyn kéo nó xuống, và sau một phút Olive xuất hiện từ đám sương mù trên đầu chúng tôi, một đầu dây cột quanh eo. Đôi giày của cô đã tuột ra khi thuyền lật, nhưng Bronwyn đã cột Olive vào dây neo, đầu còn lại của cuộn dây đã nằm yên dưới đáy biển. Nếu không nhờ vậy, chắc chắn giờ này cô gái đã mất tăm giữa các đám mây.
Olive quàng hai cánh tay ôm quanh cổ Bronwyn và cảm ơn, “Cậu đã cứu tớ, cậu đã cứu tớ!”
Hai cô gái ôm chầm lấy nhau. Cảnh tượng ấy làm cổ họng tôi nghèn nghẹn.
“Chúng ta vẫn chưa thoát hiểm đâu,” Bronwyn nói. “Chúng ta vẫn phải vào được bờ trước khi trời tối, nếu không rắc rối của chúng ta mới chỉ bắt đầu thôi.”
***
Cơn bão đã ít nhiều yếu bớt, và những cơn sóng biển hung hãn lắng xuống, nhưng ý tưởng chèo thêm một nhịp nữa, cho dù trên mặt biển hoàn toàn phẳng lặng, giờ đây cũng là chuyện không thể tưởng tượng nổi. Chúng tôi thậm chí chưa đi được một nửa quãng đường vào đất liền mà tôi đã cảm thấy sức tàn lực kiệt. Hai bàn tay tôi đau nhức rần rật. Hai cánh tay tôi nặng trĩu như hai khúc cây. Không chỉ thế, chiếc thuyền dập dềnh lắc lư liên tục đã tạo ra hậu quả rành rành lên dạ dày tôi - và nếu xét đoán từ màu xanh mét trên những khuôn mặt quanh mình, tôi không phải là người duy nhất.
“Chúng ta sẽ nghỉ một lát,” Emma nói, cố tỏ ra phấn chấn. “Chúng ta sẽ nghỉ và tát nước ra khỏi thuyền cho tới khi sương mù tan…”
“Thứ sương mù này có một kiểu tính cách của riêng nó,” Enoch nói. “Nó có thể kéo dài nhiều ngày không gián đoạn. Chỉ vài giờ nữa trời sẽ tối, và khi đó chúng ta sẽ phải hy vọng có thể qua được đến sáng mà không bị đám xác sống tìm ra. Chúng ta sẽ hoàn toàn không có khả năng tự vệ.”
“Mà còn không có nước uống,” Hugh nói.
“Hay thức ăn,” Millard đề thêm.
Olive giơ cả hai bàn tay lên và nói, “Tớ biết nó ở đâu!”
“Nó là cái gì?” Emma hỏi.
“Đất liền. Tớ thấy đất liền khi đang lơ lửng trên đầu sợi dây đó.” Olive đã bay lên qua cả lớn sương mù, cô giải thích, và thoáng nhìn thấy rõ đất liền.
“Hữu ích quá nhỉ,” Enoch cằn nhằn. “Bọn này đã quay lòng vòng một chỗ đến cả sáu lần kể từ khi cậu lơ lửng trên đó rồi.”
“Vậy hãy để tớ lên đó lần nữa.”
“Cậu chắc chứ?” Emma hỏi cô. “Nguy hiểm đấy. Sẽ thế nào nếu một cơn gió cuốn cậu đi, hay dây bị đứt?”
Khuôn mặt Olive trở nên cương quyết. “Đưa tớ lên.” Cô nhắc lại
“Cậu ấy mà đã thế này thì tranh luận cũng chỉ vô ích thôi,” Emma nói. “Lấy dây ra đi, Bronwyn.”
“Cậu là cô bé can đảm nhất tớ từng biết đấy,” Bronwyn nói, rồi bắt tay vào việc. Cô kéo neo lên khỏi mặt nước, lôi vào trong thuyền, rồi dùng đoạn dây có thêm nhờ nó, chúng tôi buộc hai chiếc thuyền còn lại với nhau để chúng không bị tách ra nữa, sau đó lại đưa Olive qua màn sương mù lên trên bầu trời.
Một khoảnh khắc im lặng lạ lùng trôi qua trong khi tất cả chúng tôi ngửa đầu ra sau, nhìn chằm chằm vào một sợi dây vươn thẳng lên các đám mây - chờ đợi một tín hiệu từ trên trời.
Enoch phá vỡ bầu im lặng. “Sao rồi?” cậu ta sốt ruột hỏi.
“Tớ thấy rồi!” câu trả lời vọng xuống, giọng nói của Olive chỉ còn nghe lạo xạo mờ hồ giữa tiếng sóng ồn ào. “Thẳng phái trước!”
“Với mình thế là tốt rồi!” Bronwyn nói, và trong khi tất cả những người còn lại trong chúng tôi ôm bụng ngồi lử đử tại chỗ, cô leo sang chiếc thuyền đằng trước, cầm mái chèo và bắt đầu chèo, chỉ được định hướng nhờ tiếng nói rất nhỏ của Olive, một thiên thần không thể trông thấy trên bầu trời.
“Sang trái… sang trái mữa… đừng đi quá!”
Và cứ như thế, chúng tôi chậm chạp bơi về phía đất liền, sương mù bám theo chúng tôi, những dải dài xám xịt của nó giống như những ngón tay ma quái của một con quỷ luôn cố gắng lôi chúng tôi trở lại.
Như thể hòn đảo cũng không muốn để chúng tôi ra đi.
Thành Phố Hồn Rỗng Thành Phố Hồn Rỗng - Ranson Riggs Thành Phố Hồn Rỗng