Chương 3
rong Đại sảnh, Tess nghe thấy những tiếng la thét bên ngoài, nàng nhanh chóng nhận ra có chuyện gì đó tệ hại, rất tệ hại. Tess quay lại vừa kịp nhìn thấy con ngựa đầu tiên lao băng qua cửa, làm vỡ tan lớp kính, khung cửa gỗ đổ ập vào trong, cả Đại sảnh bỗng rơi vào cảnh hỗn loạn. Cái đám đông tụ họp nền nã, thanh lịch, tao nhã ấy biến thành một bầy sinh vật cấp thấp càu nhàu, gầm gừ với nhau khi họ chen lấn la hét tìm cách thoát ra khỏi đường đi của những con ngựa đang đột kích vào.
Ba trong bốn kỵ sĩ điên cuồng thúc ngựa xông qua đám người, vung kiếm đập phá các tủ kính trưng bày, giẫm lên kính vỡ và đồ gỗ bể nát, đập vỡ và phá hủy các đồ vật triển lãm.
Tess bị ném qua một bên khi hàng chục khách tham quan cố gắng một cách tuyệt vọng thoát thân qua cửa và chạy tuôn ra đường. Nàng đảo mắt nhìn khắp đại sảnh. Kim ơi, Mẹ ơi – Hai bà cháu đang ở đâu? Tess nhìn quanh nhưng không thấy họ đâu cả. Phía bên phải, cách nàng một đoạn xa, những con ngựa chạy vòng vòng và quay tới quay lui tiếp tục phá hủy những đồ vật trưng bày dọc đường chúng đi. Khách tham quan bị ném bay vào những cái tủ và dồn sát tường, tiếng rên rỉ kêu thét đau đớn của đám khách vang dội khắp gian phòng rộng lớn. Tess thoáng thấy Clive Edmonson trong số đó khi một con ngựa thình lình lồng ngược ra phía sau, đá mạnh, làm anh ta ngã nhào qua một bên.
Những con ngựa kêu khịt khịt, mũi phình ra, mồm sùi bọt quanh hàm thiếc. Các tay kỵ sĩ xuống ngựa, chộp lấy những thứ đồ lấp lánh trong các tủ kính vỡ, tống vào những chiếc túi móc dính với yên ngựa.
Tại các cửa, đám đông tìm cách chen lấn thoát ra, làm cảnh sát không thể tiến vào được, đành bất lực trước đám đông đang cơn hoảng loạn.
Một trong những con ngựa lồng lên, huých vào bức tượng Đức Mẹ Đồng trinh, bức tượng đổ nhào và vỡ tan trên nền nhà. Móng ngựa giẫm lên bức tượng, làm vỡ tan nát hai bàn tay chắp lại cầu nguyện của Đức Mẹ. Bị đám khách tham quan chạy trốn giật tung khỏi khung, tấm thảm treo tường tuyệt bị cả người và ngựa giẫm đạp lên. Chỉ trong chốc lát, hàng ngàn mũi thêu tỉ mỉ tinh tế bị xé toạc ra. Một cái tủ bị hất nhào, chiếc mũ tế màu trắng dát vàng rơi ra khỏi lớp kính vỡ, bị đá lăn lóc giữa đám đông hỗn loạn điên cuồng. Chiếc áo thụng cùng bộ với chiếc mũ tế bay phất phơ như một tấm thảm thần, rồi cũng bị giẫm đạp lên.
Vội vàng tránh khỏi đường đi của những con ngựa, Tess nhìn xuống hành lang, cách đó một quãng, nàng thấy tên kỵ sĩ thứ tư, ở cuối hành lang, cách xa chỗ tên kỵ sĩ kia, vẫn còn thêm nhiều người nữa tiếp tục tản vào các phần khác của viện bảo tàng. Tess tiếp tục tìm kiếm mẹ và con gái. Hai bà cháu đang ở chỗ quái nào nhỉ? Không biết họ có hề hấn gì không? Nàng cố nhận diện họ trong đám đông hỗn loạn, nhưng vẫn không thấy dấu vết gì của cả hai.
Nghe thấy tiếng thét ra lệnh, Tess quay người nhìn lại, rốt cuộc cảnh sát cũng đã vượt qua được đám người tháo chạy. Rút súng bắn chỉ thiên và quát đám đông hỗn loạn, họ đang tiến về phía một trong ba kỵ sĩ, tên này liền rút từ dưới chiếc áo choàng ra một khẩu súng nhỏ. Theo bản năng, Tess nhào ngay xuống sàn nhà, hai tay ôm đầu, nhưng vẫn nhìn thấy y tuôn ra một loạt đạn; lia họng súng từ bên này sang bên kia, tên kỵ sĩ liên tục nhả đạn khắp phòng. Một tá người ngã xuống, bao gồm tất cả số cảnh sát, mảnh kính và tủ vỡ quanh họ giờ tung tóe máu.
Vẫn nằm cuộn mình trên sàn nhà, Tess cảm thấy tim như vọt ra khỏi lồng ngực. Nàng cố nằm im, dù trong lòng như đang có tiếng gào thét thúc giục nàng bỏ chạy. Lúc này, Tess thấy hai tên kỵ sĩ kia cũng vung vẩy những khẩu súng tự động giống như tên đồng bọn sát nhân vừa rồi. Tiếng những viên đạn đập vào tường dội lại càng làm tăng thêm sự huyên náo và hoảng loạn. Một con ngựa bỗng nhảy giật lùi, hai tay tên kỵ sĩ siết lại, khẩu súng trên tay y nhả loạt đạn lên một bức tường và trần nhà, bắn tung những mảng thạch cao trang trí làm rơi xuống đầu khách tham quan đang nằm ôm đầu gào thét trên nền nhà.
Từ phía sau cái tủ nơi nàng nấp, Tess mạo hiểm liếc quanh, đánh giá nhanh các lối thoát. Nhìn thấy cửa vào một phòng trưng bày khác ở cách ba hàng tủ phía bên phải, Tess nhón chân chạy vụt tới đó.
Vừa tới được hàng tủ thứ hai, Tess thấy tay kỵ sĩ thứ tư đang tiến thẳng về phía nàng. Thụp người xuống, nhìn thấy y đang vung vẩy mũi súng giữa những hàng tủ chưa bị hư hại, dường như không dính dáng và cũng không quan tâm đến tình trạng hỗn loạn mà ba tên đồng bọn của hắn đang gây ra.
Tess hầu như nghe được tiếng thở khụt khịt của con ngựa khi tay kỵ sĩ bất thần ghìm cương đứng lại, cách nàng khoảng mét rưỡi. Tess nằm mọp xuống, ôm ghì lấy cái tủ trưng bày để giữ lại mạng sống, cố kiềm chế để trái tim bớt đập thình thịch trong lồng ngực. Tess nhướn mắt lên, nàng thấy tay hiệp sĩ, phản chiếu trong các tủ trưng bày quanh nàng, oai vệ trong chiếc áo giáp thời Trung cổ kết bằng khoen sắt và chiếc áo choàng trắng, đang nhìn chằm chằm – đặc biệt vào một chiếc tủ kính.
Đó là chiếc tủ kính mà Tess đang xem lúc Clive Edmondson đến bên cạnh nàng.
Tess im thin thít, kinh hoàng theo dõi tay hiệp sĩ rút gươm vung lên và bổ xuống như sấm sét, chém vỡ tan cái tủ, mảnh kính vỡ văng tung tóe xuống nền nhà xung quanh nàng. Tay hiệp sĩ tra gươm vào vỏ, xuống ngựa, nhấc cái hộp kỳ lạ kia lên, chiếc máy kỳ dị với nhiều nút, hộp số và cần điều khiển, y cầm cái máy trong tay một lát.
Tess hầu như không thở nổi, vậy mà ngược với bản năng sinh tồn theo lẽ tự nhiên mà nàng tin rằng mình có, nàng khao khát muốn nhìn thấy chuyện gì đang xảy ra. Không sao cưỡng được, Tess nhoài người ra khỏi phía sau cái tủ trưng bày, hé mắt nhìn qua cạnh tủ.
Tay kỵ sĩ, thái độ gần như kính cẩn, nhìn chằm chằm vào cỗ máy một lúc trước khi làu bàu thốt ra mấy tiếng, như thể tự nói với mình.
“Veritas vos libera…”[9]
Tess nhìn sững, cái hành động có vẻ như là nghi thức vô cùng riêng tư này làm nàng thấy nghi hoặc, lúc đó, một tiếng súng khác bỗng vang lên cắt ngang cơn mơ màng của Tess và của cả tay hiệp sĩ.
Y quay vòng ngựa và trong một thoáng, ánh mắt y, dù bị khuất sau cái mũ giáp trùm đầu, bắt gặp ánh mắt của Tess. Tim nàng như ngừng đập khi nằm sấp ở đó, toàn thân tê liệt trong vô vọng. Và rồi, con ngựa tiến về phía Tess, thẳng đến chỗ nàng…
…và ngay khi con ngựa lướt qua sát sạt một bên, Tess nghe tay này gào lên với ba kỵ sĩ kia, “Đi thôi!”
Tess nhổm lên, thấy tay kỵ sĩ to con, kẻ đã khai hỏa đầu tiên, đang dồn một nhóm nhỏ vào góc phòng bên cạnh cầu thang chính. Nàng nhận ra Đức Tổng Giám mục giáo phận New York và ngài Thị trưởng cùng bà vợ ông ta. Tay hiệp sĩ chỉ huy gật đầu và tay kỵ sĩ bự con thúc ngựa chạy vào giữa đám khách đang sợ hãi đến thất thần, túm lấy bà vợ ông Thị trưởng, nhấc người phụ nữ cố vẫy vùng lên lưng ngựa. Y ghí mũi súng vào mang tai bà ta còn bà Thị trưởng cứng đờ không nhúc nhích; miệng há ra như đang hét một tiếng hét không thành lời.
Bất lực, giận dữ và sợ hãi, Tess chỉ biết trông theo bốn tay kỵ sĩ di chuyển ra phía cửa. Tay dẫn đầu, tên duy nhất không có súng, nàng nhận thấy cũng là tay duy nhất không có một cái túi căng phồng móc vào yên ngựa. Và khi chúng ra khỏi các phòng trưng bày viện bảo tàng, Tess đứng lên chạy ào qua những đống đổ nát để tìm mẹ và cô con gái bé nhỏ
Bốn tay hiệp sĩ lao ra khỏi cửa viện bảo tàng và rơi vào vùng ánh sáng chói mắt của những ngọn đèn pha truyền hình. Dù vẫn có tiếng sụt sùi của những người sợ hãi và tiếng rên rỉ của những người bị thương, khung cảnh đột nhiên yên tĩnh hơn, rồi từ giữa đám đông bỗng vang lên những tiếng la lớn, giọng đàn ông, phần lớn là của cảnh sát, những tiếng la ngẫu nhiên giống nhau, vang lên đây đó: “…đừng bắn!” “… con tin!” “…đừng bắn!”
Trong lúc đó, bốn tay kỵ sĩ đi xuống các bậc cấp rồi sải ngựa lên đại lộ, tay hiệp sĩ đang giữ con tin đi sau để bảo vệ. Động tác của chúng nhanh nhẹn nhưng không có vẻ gấp gáp, coi thường tiếng còi xe cảnh sát đang đến gần rền rĩ trong đêm, rồi chỉ trong chốc lát, chúng biến vào bóng tối đồng lõa của Công viên Trung tâm.
Nhật Ký Bí Mật Của Chúa Nhật Ký Bí Mật Của Chúa - Raymond Khoury Nhật Ký Bí Mật Của Chúa