Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 2
1
6
KABUL, MÙA XUÂN 1987
Cô bé chín tuổi Laila trèo ra khỏi giường, và cũng giống như những buổi sáng khác, cô mong ngóng được gặp cậu bạn Tariq. Tuy nhiên, sáng nay cô bé biết rằng Tariq sẽ không xuất hiện.
“Cậu sẽ đi bao lâu?” cô bé đã hỏi như vậy khi Tariq nói với cô rằng bố mẹ cậu sẽ đưa cậu đến miền Nam, thành phố Ghazni, để thăm ông bác đằng nội.
“Mười ba ngày.”
“Mười ba ngày ư?”
“Không lâu đâu. Cậu đang nhăn mặt kìa, Laila.”
“Mình không có.”
“Cậu sẽ không khóc chứ?”
“Mình sẽ không khóc! Không khóc vì cậu. Không, cả nghìn năm nữa cũng không.”
Cô bé đá vào ống chân cậu bạn, không phải bên chân giả mà là chân thật và cậu bé cũng đánh đùa vào sau đầu cô.
Mười ba ngày. Gần hai tuần lễ. Và chỉ năm ngày trôi qua, Laila đã hiểu thế nào là thời gian: Giống như chiếc đàn accordion bố Tariq thỉnh thoảng vẫn dùng để chơi các bài hát Pashto cũ, thời gian có thể co giãn ngắn dài tùy thuộc vào sự hiện diện hay vắng mặt của Tariq.
Dưới cầu thang, bố mẹ cô bé đang cãi nhau. Lại cãi nhau. Laila thừa biết diễn biến cuộc cãi vã: Mammy, hung dữ, ngoan cố, vừa hùng hổ đi tới đi lui vừa nguyền rủa; Babi thì ngồi đó, trông ngượng ngùng và mụ mị, gật đầu một cách ngoan ngoãn, chờ cơn giông bão qua đi. Laila đóng cửa và thay đồ. Nhưng cô bé vẫn nghe thấy tiếng của họ. Cô bé vẫn nghe thấy tiếng của mẹ. Cuối cùng, có tiếng cánh cửa đóng sầm. Tiếng bước chân huỳnh huỵch. Tiếng giường của Mammy kẽo kẹt mạnh. Có vẻ như Babi sẽ sống sót đến ngày tiếp theo.
“Laila!” ông gọi. “Bố sắp trễ giờ làm rồi!”
“Một phút thôi ạ!”
Laila đi giày, vừa soi gương vừa chải vội những lọn tóc vàng dài đến ngang vai. Mammy luôn bảo rằng cô bé đã được thừa hưởng mái tóc vàng của bà - cùng với đôi mắt xanh ngọc và hàng mi dày, đôi má lúm đồng tiền, gò má cao và bờ môi dưới hơi trề ra mà bà được thừa hưởng từ cụ của cô bé, bà ngoại của Mammy. Mammy kể rằng, cụ ngoại là một pari, một phụ nữ quyến rũ. vẻ đẹp của bà được truyền tụng khắp thung lũng. Nó đã bỏ qua hai thế hệ phụ nữ trong gia đình ta, nhưng chắc chắn nó đã không bỏ qua con, Laila. Thung lũng mà Mammy nói đến chính là Panjshir, khu vực nói tiếng Farsi của người Tajik, cách Kabul một trăm cây số về phía Đông Bắc. Cả Mammy và Babi, vốn là anh em họ, đều được sinh ra và lớn lên ở Panjshir. Đôi vợ chồng trẻ với hy vọng tràn trề về một tương lai tươi sáng chuyển đến sinh sống ở Kabul cuối năm 1960, sau khi Babi được nhận vào học tại trường Đại học Kabul.
Laila lò dò xuống cầu thang, thầm mong Mammy sẽ không ra khỏi phòng để cãi nhau thêm một trận nữa. Cô bé thấy Babi đang quỳ bên rèm cửa.
“Laila, con đã thấy cái này chưa?”
Tấm rèm đó đã bị rách hằng tuần nay. Laila ngồi xuống bên bố. “Chưa ạ. Vết rách này hẳn là mới có.”
“Bố đã nói với Fariba như vậy đấy.” Ông trông thật nhỏ bé, run rẩy như mọi lần sau khi Mammy cãi nhau với ông. “Bà ấy nói rằng bọn ong đang chui vào qua lỗ này.”
Trái tim Laila luôn đứng về phía Babi. Babi là người nhỏ bé, đôi vai hẹp và bàn tay gầy gò, mềm mại như tay phụ nữ. Buổi tối, mỗi khi bước vào phòng Babi, cô bé luôn thấy ông đang cúi xuống tra cứu sách, cặp kính mắt trễ xuống mũi. Đôi khi ông thậm chí không nhận ra sự có mặt của cô bé. Và khi đã nhận ra thì ông đánh dấu trang sách lại, mím môi cười mỉm, nụ cười của một người bạn. Babi có thể đọc thuộc lòng gần hết các ghaza* của Rumi và Hafez. Ông có thể nói không ngừng về cuộc chiến tranh giữa người Anh và nước Nga Sa hoàng nhằm xâm chiếm Afghanistan. Ông còn phân biệt được sự khác nhau giữa nhũ đá và măng đá và có thể nói cho cô biết khoảng cách giữa trái đất và mặt trời gấp 1,5 triệu lần quãng đường từ Kabul tới Ghazni. Nhưng nếu Laila cần một bàn tay mạnh mẽ để mở nắp hộp kẹo, cô bé phải đến tìm Mammy, điều này làm cho cô cảm thấy mình như một kẻ phản bội. Những vật dụng thông thường lại biến Babi thành người ngớ ngẩn. Dưới sự chăm sóc của ông, những chiếc bản lề cửa kêu kẽo kẹt không bao giờ được tra dầu. Trần nhà liên tục bị dột sau khi ông bít lại. Kệ giá trong bếp thì mốc meo. Mẹ nói rằng trước khi ra đi cùng với Noor gia nhập lực lượng chiến đấu chống Xô Viết vào năm 1980 thì Ahmad là người có ý thức trách nhiệm và tháo vát trong những chuyện như thế.
Một thể loại thơ ca thường kết cấu bởi các đối ngẫu và điệp khúc.
“Nhưng nếu con có quyển sách cần phải đọc ngay,” bà nói, “thì Hakim là người thích hợp nhất để con lựa chọn.”
Tuy nhiên, Laila không thể giũ bỏ được cảm giác rằng một thời gian nào đó, trước khi Ahmad và Noor tham gia cuộc chiến chống lại quân Xô Viết - trước khi Babi để họ tham gia cuộc chiến - Mammy cũng thấy vẻ mọt sách của Babi thật đáng yêu, hay, từ ngày xửa ngày xưa, bà cũng từng bị quyến rũ bởi sự đãng trí và vụng về của ông.
“Thế hôm nay là ngày thứ mấy rồi?” ông hỏi và mỉm cười ý nhị. “Ngày thứ năm? Hay thứ sáu?”
“Con quan tâm làm gì? Con không đếm,” Laila nói dối, nhún vai và thấy thật yêu Babi vì ông đã nhớ. Còn Mammy thì không hay biết Tariq đã đi xa.
“À, ánh đèn pin của cậu ta sẽ lại tắt trước khi con kịp nhận ra đấy,” Babi nhắc đến trò gửi tín hiệu hằng đêm của Laila và Tariq. Hai đứa đã chơi trò đó từ rất lâu rồi, đến mức trở thành một thói quen trước giờ đi ngủ, giống như việc phải đánh răng vậy.
Babi luồn ngón tay qua vết rách. “Bố sẽ vá lại ngay khi có thể. Chúng ta nên đi thôi.” Ông cất cao giọng nói với lại đằng sau, “Bố con tôi đi đây, Fariba! Tôi sẽ đưa Laila đến trường. Đừng quên đón con bé nhé!”
Bên ngoài, khi trèo vào giá chở đồ trên xe đạp của bố, Laila nhìn thấy một chiếc ô tô đang đỗ bên đường, đối diện ngôi nhà của người thợ đóng giày Rasheed và người vợ ẩn dật. Đó là một chiếc xe Benz, loại xe rất ít gặp trong khu vực này, màu xanh với sọc trắng lớn cắt đôi mui xe, nóc xe và cả phần thân. Laila có thể nhìn rõ hai người đàn ông đang ngồi trong xe, một người ngồi sau tay lái và người kia ngồi ở ghế sau.
“Họ là ai thế ạ?” cô bé hỏi.
“Không phải việc của chúng ta,” Babi trả lời. “Trèo lên đi, không con sẽ muộn học đấy.”
Laila nhớ lại một lần cãi nhau, Mammy đã đe nạt Babi và chì chiết, Đó là việc của ông, đúng nhỉ, ông anh họ? Coi mọi thứ chẳng phải việc của mình ấy. Thậm chí ngay cả khi những đứa con trai của chính ông ra mặt trận. Tôi đã van nài ông ra sao hả. Nhưng ông chỉ chúi mũi vào đống sách đáng nguyền rủa đó mà để chúng ra đi như hai đứa harami vậy.
Babi đạp xe xuống phố, Laila ngồi đằng sau, vòng tay ôm bụng bố. Khi họ đi qua chiếc xe Benz màu xanh, Laila thoáng nhìn người đàn ông ngồi ghế sau: người gầy, tóc bạc trắng, diện bộ com lê nâu sẫm, trên túi áo ngực cài một chiếc khăn tay hình tam giác. Ngoài những cái đó thì điều duy nhất mà cô bé có thời gian để chú ý đến là chiếc xe mang biển số thành phố Herat.
Hai bố con im lặng trong suốt quãng đường còn lại, trừ lúc tới khúc ngoặt, Babi cẩn trọng phanh lại và nói, “Giữ chặt nhé, Laila. Đang dừng. Đang dừng. Đến nơi.”
Trong lớp học, suốt cả ngày hôm đó, Laila thấy thật khó tập trung, đầu óc cô bé chỉ lẩn quẩn nghĩ về sự vắng mặt của Tariq và cuộc cãi vã của bố mẹ. Do vậy, khi cô giáo yêu cầu cô bé đọc tên thủ đô của Romania và Cuba, Laila đã bị bất ngờ.
Cô giáo tên là Shanzai, nhưng sau lưng cô học sinh vẫn gọi cô là Khala Rangmaal, Bà dì Họa sĩ, ám chỉ điệu bộ cô thể hiện khi đánh vào lòng bàn tay học sinh, rồi mu bàn tay, mặt trước rồi mặt sau, giống như người họa sĩ đang quét chiếc bút lông. Khala Rangmaal là một phụ nữ trẻ có khuôn mặt sắc sảo với hàng lông mày rậm. Ngày đầu tiên lên lớp cô đã tự hào nói với cả lớp rằng cô là con gái của một người nông dân nghèo đến từ Khost. Dáng người cô thẳng, mái tóc đen nhánh được búi gọn đằng sau và khi Khala Rangmaal đứng quay lưng, Laila có thể nhìn thấy những sợi tóc đen lún phún trên cổ cô. Khala Rangmaal không trang điểm hay đeo đồ trang sức. Cô không đeo mạng che mặt và cũng cấm luôn các nữ sinh làm việc đó. Cô nói nam nữ bình đẳng trên mọi phương diện, vì thế người phụ nữ không việc gì phải che mặt nếu đàn ông không làm thế.
Cô còn nói Liên bang Xô Viết là quốc gia tốt đẹp nhất trên thế giới, cùng với Afghanistan. Thật tuyệt khi công nhân và tất cả người dân đều được bình đẳng. Mọi người dân Xô Viết đều vui vẻ và thân thiện, không giống như ở Hoa Kỳ, nơi tội ác khiến con người đến ra khỏi nhà cũng sợ. Và mọi người ở Afghanistan cũng đều hạnh phúc, cô nói tiếp, một khi những kẻ phản tiến bộ và những tên cướp nước bị đánh bại.
“Đó là lý do vì sao các đồng chí Xô Viết đã đến đây năm 1979. Để giúp đỡ đất nước anh em. Để giúp chúng ta đánh bại những kẻ hung tàn muốn biến nước ta thành thuộc địa và đưa chúng ta trở về thời nguyên thủy. Và các em cũng cần phải chung tay góp sức vào cuộc chiến đó. Các em cần báo lại bất kỳ ai có thể biết về những kẻ phiến loạn đó. Đó là nhiệm vụ của các em. Các em phải nghe ngóng, rồi báo lại. Thậm chí cho dù đó là cha mẹ hay cô dì, chú bác của các em. Bởi vì không ai trong số họ yêu các em bằng đất nước ta yêu các em. Hãy nhớ lấy, đất nước là trên hết! Tôi sẽ rất tự hào về các em, và đất nước cũng tự hào vì các em.”
Trên bức tường phía sau bàn của cô Khala Rangmaal có treo một tấm bản đồ Liên bang Xô Viết, một tấm bản đồ Afghanistan và bức ảnh đóng khung của vị Lãnh đạo Cộng sản mới đây nhất, Najibullah, người mà theo như Babi nói, đã từng là người đứng đầu của KHAD* khét tiếng, tổ chức cảnh sát mật của Afghanistan. Ở đó còn treo nhiều bức hình khác, chủ yếu là hình ảnh những người lính Xô Viết trẻ đang bắt tay nông dân, đang trồng các cây táo con, đang xây nhà với nụ cười thân ái thường trực.
Tên viết tắt của Cơ quan Thông tin Quốc gia Afghanistan.
“Chà,” Khala Rangmaal nói, “ta đã phá vỡ cơn mơ mộng của em hả, Cô gái Inquilab?”
Đó là biệt danh của Laila, Cô gái Cách mạng, bởi cô bé được sinh ra vào đêm diễn ra cuộc đảo chính tháng Tư năm 1978 - chỉ có điều Khala Rangmaal sẽ nổi giận nếu bất kỳ ai trong lớp nhắc đến từ đảo chính. Cô kiên quyết cho rằng những gì diễn ra đúng là một inquilab, một cuộc cách mạng, cuộc nổi dậy của giai cấp công nhân chống lại sự bất công. Thánh chiến Hồi giáo cũng là từ bị cấm. Theo cô, không hề có cuộc chiến tranh nào ở các tỉnh, chỉ là những cuộc giao tranh nhỏ lẻ chống lại bọn nổi loạn bị những kẻ chống phá nước ngoài xúi giục. Và tất nhiên, trước mặt cô, không ai, không một ai, lại dám nhắc đến những tin đồn đang rộ lên rằng sau tám năm chiến đấu, quân Xô Viết đang dần thua cuộc. Cụ thể là hiện nay Tổng thống Mỹ Reagan đã bắt đầu chuyển đến cho lực lượng Chiến binh Hồi giáo các tên lửa Stinger nhằm bắn hạ máy bay trực thăng Xô Viết, hiện nay tín đồ Hồi giáo từ khắp nơi trên thế giới đang đổ về tham gia mục tiêu này: người Ai Cập, Pakistan và cả người Ả rập Saudi giàu có đã bỏ lại tất cả tiền của để đến Afghanistan tham gia cuộc thánh chiến.
“Bucharest. Havana,” Laila trả lời.
“Các quốc gia đó có phải là bạn của chúng ta không?”
“Họ là bạn chúng ta, thưa moalim*. Đó là các nước bạn.”
Giáo viên, thầy, cô giáo.
Khala Rangmaal gật đầu cụt lủn.
Tan học, Mammy lại một lần nữa không đến đón như đã hẹn. Laila đành đi bộ về nhà cùng Giti và Hasina, hai bạn cùng lớp.
Giti là một cô gái nhỏ bé, xương xương, hai bím tóc buộc hai bên bằng dải ruy băng. Cô bé lúc nào cũng cau có và vừa đi vừa ôm quyển sách trước ngực như đeo khiên. Hasina mười hai tuổi, lớn hơn Laila và Giti ba tuổi nhưng một lần học đúp lớp ba và hai lần đúp lớp bốn. Mặc dù học hành không được sáng dạ nhưng bù lại Hasina rất láu lỉnh và mồm mép, đến nỗi Laila vẫn ví miệng Hasina hoạt động như một chiếc máy khâu. Chính Hasina đã đặt ra cái biệt danh của cô Khala Rangmaal.
Hôm nay, Hasina đang chia sẻ lời khuyên làm sao để cắt đuôi những anh chàng theo đuổi kém quyến rũ. “Cách thức cực kỳ đơn giản nhưng đảm bảo hiệu quả. Tớ hứa đấy.”
“Thật ngớ ngẩn. Tó còn nhỏ tuổi, không thể có một anh chàng theo đuổi được,” Giti nói.
“Đằng ấy không còn quá bé đâu.”
“Dù sao thì vẫn chưa có ai đến cầu hôn tớ hết.”
“Đó là bởi vì cậu có một bộ râu, bạn thân mến ạ.”
Giti bất chợt đưa tay lên cằm, rồi lườm Laila lúc này đang mỉm cười ái ngại và lắc đầu trấn an, Giti đúng là đứa kém hài hước nhất mà Laila từng gặp.
“Dù sao thì các quý cô cũng muốn biết việc gì cần và việc gì không cần làm chứ hả?”
“Nói đi nào,” Laila nói.
“Hạt đậu. Ít nhất là bốn hộp. Vào đúng buổi tối hôm con khủng long ấy đến cầu hôn các cậu. Nhưng các cậu ạ, thời điểm, thời điểm mới là tất cả. Các cậu phải kìm nén ‘pháo hoa’ lại cho tới lúc mời hắn ta uống trà.”
“Tó sẽ nhớ điều này,” Laila nói.
“Hắn ta cũng thế.”
Laila lẽ ra có thể nói rằng cô bé không cần đến lời khuyên đó bởi vì Babi không hề có ý định để cô bé lấy chồng sóm. Mặc dù làm việc tại Silo, một nhà máy làm bánh mì cực lớn ở Kabul, quần quật suốt ngày giữa hơi nóng và tiếng rền rĩ của máy nạp nhiên liệu cho lò nướng và máy nghiền ngũ cốc, Babi là người có trình độ đại học. Ông đã từng là giáo viên trung học trước khi bị những người cộng sản sa thải - chỉ một thời gian ngắn sau cuộc đảo chính năm 1978, khoảng một năm rưỡi trước khi quân Xô Viết đến xâm chiếm. Babi đã nói cho Laila rõ từ khi cô còn bé rằng sau sự an toàn của cô, điều quan trọng nhất trong cuộc đời ông chính là việc học hành của cô.
Bố biết con vẫn còn nhỏ, nhưng bố muốn con hiểu và học được điều này ngay từ bây giờ. Cưới xin có thể chờ đợi nhưng việc học thì không. Con là cô gái rất rất thông minh. Thực sự là như vậy. Con có thể đạt được những gì con muốn, Laila à. Bố biết con mà. Và bố cũng biết rằng khi chiến tranh kết thúc, Afghanistan sẽ cần đến con như cần những người đàn ông, thậm chí có thể còn hơn ấy chứ. Bởi lẽ xã hội sẽ không thể phát triển nếu người phụ nữ không được đi học. Không thể phát triển, Laila ạ.
Nhưng Laila không nói cho Hasina biết những gì Babi đã dạy, hay chuyện cô bé hạnh phúc thế nào khi có được người bố như ông, hoặc chuyện cô bé tự hào đến thế nào vì những lời nhận xét ông dành cho mình, hoặc chuyện cô bé rất quyết tâm theo đuổi sự nghiệp học hành như ông đã từng làm. Hai năm vừa rồi, Laila đều nhận được giấy khen awal numra trao hằng năm cho các học sinh xếp loại cao nhất mỗi khối lớp. Tất cả những điều này cô bé đều không nói với Hasina, vốn có ông bố lái taxi hay gắt gỏng, có thể trong hai hoặc ba năm nữa ông sẽ tìm chồng cho Hasina. Trong một giây phút nghiêm túc hiếm hoi, Hasina đã nói với Laila rằng mọi người đã xếp đặt cho nó kết hôn với người anh họ hơn nó hai mươi tuổi và làm chủ một cửa hàng ô tô ở Lahore. Hasina kể, Tớ đã gặp anh ta hai lần. Cả hai lần anh ta đều đang phùng mang trợn má mà ăn.
“Hạt đậu, các cậu ạ,” Hasina nói. “Các cậu nhớ nhé. Tất nhiên trừ khi” - tới đây nó nở nụ cười tinh quái và huých khuỷu tay vào Laila - “đó là chàng hoàng tử một chân đẹp trai trẻ trung của cậu gõ cửa. Và rồi...”
Laila hất khuỷu tay cô bạn. Cô bé sẽ cảm thấy bị xúc phạm nếu bất kỳ ai khác nói như thế về Tariq. Nhưng cô bé biết Hasina không hề có ác ý gì. Hasina vẫn hay xỏ xiên - đó chính là trò của nó - và con bé xỏ xiên không chừa một ai hết, ngay cả chính mình.
“Cậu không nên nói như thế về người ta!” Giti nói.
“Người nào cơ?”
“Những người bị thương bởi chiến tranh,” Giti nghiêm nghị nói, không nhận ra Hasina đang đùa.
“Tớ nghĩ Giáo sĩ Giti đây đã phải lòng Tariq. Tớ biết mà! Ha! Nhưng cậu ta đã có người nhận rồi, cậu không biết sao? Đúng không, Laila?”
“Tớ không phải lòng. Với bất kỳ ai!”
Hai đứa tách khỏi Laila, rẽ sang đường khác về nhà và tiếp tục tranh cãi theo kiểu đó.
Laila đi bộ một mình qua ba dãy nhà cuối cùng. Khi đang đi trên đường, cô nhận ra chiếc xe Benz màu xanh vẫn còn đỗ ở đó, bên ngoài nhà Rasheed và Mariam. Ông già diện bộ com lê nâu đang đứng cạnh mui xe, chống gậy, ngước nhìn ngôi nhà.
Đúng lúc đó, Laila nghe thấy một giọng nói phía sau, “Này, Tóc Vàng. Hãy nhìn đây.”
Laila quay người lại và thấy một nòng súng đang chĩa vào mình.
17
Khẩu súng màu đỏ, có vòng cò súng màu xanh sáng. Lờ mờ hiện ra đằng sau khẩu súng là khuôn mặt toe toét của Khadim. Khadim mười một tuổi, bằng Tariq. Nó to cao và thường hay chơi xấu ngầm. Bố nó là tay đồ tể ở Deh-Mazang, thế nên đôi khi người ta bắt gặp Khadim ném nội tạng của bê vào người qua đường. Khadim thỉnh thoảng đi theo Laila ở sân trường vào giờ giải lao, liếc mắt nhìn đểu và phát ra những tiếng rên rỉ nhỏ khi cô bé không có Tariq ở bên. Một lần, thằng bé đó vỗ vai Laila và nói, Mày thật xinh đẹp, Tóc Vàng ạ. Tao muốn cưới mày.
Lúc này đây, nó đang vung vẩy khẩu súng. “Đừng lo,” nó nói. “Thứ này không nhìn thấy được đâu. Không nhìn thấy được trên tóc mày.”
“Mày không được làm thế! Tao cảnh cáo mày đấy.”
“Mày sẽ làm gì nào?” thằng bé nói. “Mách với thằng què à? ‘Ôi, Tariq thân yêu. Ôi sao anh không về nhà để cứu em khỏi gã badmash* này!’”
Gã xấu xa.
Laila bắt đầu lùi lại nhưng Khadim đã bóp cò súng. Nhưng tia nước ấm liên tục bắn ra dính vào tóc Laila và cả bàn tay khi cô bé đưa tay lên che mặt.
Đến lúc ấy, những thằng bé khác mới ra khỏi chỗ nấp, cười sằng sặc.
Một câu chửi Laila đã nghe được trên đường phố giờ đây bật ra khỏi miệng cô bé. Cô bé không thực sự hiểu câu chửi đó - không thể hình dung được sự logic của nó - nhưng những từ ngữ trong đó chất chứa sự giận dữ sục sôi và bây giờ cô tuôn chúng ra.
“Mẹ mày ăn b...!”
“Ít nhất thì mẹ tao không phải là con điên như mẹ mày,” Khadim không mảy may bận tâm, tiếp tục bắn. “Bố tao ít nhất cũng không ẻo lả! Mà này, sao mày không thử ngửi tay mày xem?”
Mấy đứa con trai khác cùng đồng thanh hô. “Ngửi tay đi! Ngửi tay đi!”
Laila làm theo, nhưng thậm chí trước khi làm vậy cô bé đã biết thằng nhóc đó có ý gì khi nói rằng thứ này sẽ không thấy ở tóc cô bé. Cô bé kêu lên the thé. Thấy vậy, bọn con trai la hét càng dữ hơn.
Laila quay lưng, khóc thét và chạy về nhà.
Laila múc nước từ giếng lên, đổ đầy vào chậu tắm và cởi phăng quần áo ra. Cô bé xoa xà phòng lên tóc, vừa dùng ngón tay cào điên cuồng lên da đầu vừa thút thít khóc trong sự căm phẫn. Cô bé xả lại tóc bằng một gáo nước và xoa tiếp xà phòng thêm lần nữa. Mấy lần cô bé đã suýt nôn ra. Cô không ngừng thút thít và run rẩy khi chà đi chà lại chiếc khăn mặt thấm nước xà phòng lên mặt và cổ cho đến khi da đỏ ửng lên.
Nếu có Tariq ở bên cạnh thì chuyện này sẽ không bao giờ xảy ra, cô bé vừa nghĩ vừa mặc quần áo sạch vào. Khadim sẽ không dám làm gì. Và tất nhiên, chuyện cũng không xảy ra nếu như Mammy đến đón cô như đã hẹn. Đôi lúc Laila băn khoăn tự hỏi không biết Mammy có cảm thấy phiền phức vì đã sinh ra cô không. Giờ thì cô bé tin rằng người ta không nên sinh thêm một đứa con nào nếu như họ đã dành hết tình yêu thương của mình cho những đứa con trước đấy. Thật không công bằng. Một cơn tức giận trào lên trong cô bé. Laila đi vào phòng mình và nằm sập xuống giường.
Khi cảm thấy mọi thứ tồi tệ nhất đã qua, cô bé đi ngang hành lang đến cửa phòng Mammy và gõ cửa. Hồi còn bé, Laila thường ngồi hằng giờ ngoài cánh cửa này. Cô bé sẽ gõ cửa và thì thầm lặp đi lặp lại từ Mammy, giống như một câu thần chú nhằm phá giải bùa mê: Mammy, Mammy, Mammy, Mammy... Nhưng Mammy không bao giờ mở cửa. Bây giờ đây, bà cũng không mở cửa. Laila xoay nắm cửa và bước vào.
Thỉnh thoảng Mammy cũng có những ngày dễ chịu. Bà ra khỏi giường, mắt sáng ngời và vui vẻ. Làn môi dưới hơi trễ căng ra nở một nụ cười. Bà tắm. Bà mặc quần áo mới và chuốt lông mi. Bà để Laila chải tóc cho mình, công việc mà cô bé rất yêu thích, và đeo khuyên tai. Hai người cùng nhau đi mua sắm ở Mandaii Bazaar. Laila rủ bà cùng chơi trò Con rắn và cái thang, cùng ăn sô cô la bào từ những thanh sô cô la đen lớn, một trong những sở thích chung hiếm hoi của hai mẹ con. Điều Laila thích nhất vào những ngày vui vẻ của Mammy là khi Babi trở về nhà, hai mẹ con ngước lên từ bàn ăn và toét miệng cười khoe hàm răng nâu với bố. Một không khí ấm áp, hạnh phúc bao trùm cả căn phòng, và sau đó, Laila bắt gặp những cái nhìn thoáng qua đầy dịu dàng, lãng mạn đã từng nối kết bố mẹ khi ngôi nhà còn đông vui và ồn ã.
Đôi lúc, vào những ngày tươi đẹp đó, Mammy nướng bánh và mời các bà hàng xóm sang dùng trà và bánh ngọt. Laila phải lau sạch bát đĩa trong khi Mammy xếp ra bàn tách trà, khăn ăn và bát đĩa sạch. Tiếp đến, Laila sẽ chiếm một chỗ tại bàn phòng khách, cố gắng hóng hớt và tham gia cuộc trò chuyện khi các bà hàng xóm vừa nói chuyện hăng say vừa uống trà và khen ngợi tài nướng bánh của Mammy. Mặc dù Laila chẳng có gì mấy để nói, cô bé vẫn thích ngồi đó lắng nghe, bởi vì hiếm khi cô bé cảm thấy dễ chịu như trong những buổi tụ tập này: Cô bé được nghe Mammy nói về Babi đầy âu yếm.
“Anh ấy đã từng là giáo viên hạng nhất,” Mammy kể. “Học sinh rất quý trọng anh ấy. Không chỉ vì anh ấy không bao giờ dùng thước kẻ đánh học sinh như những giáo viên khác. Các bà thấy đấy, bọn chúng quý trọng anh nhà tôi vì anh ấy tôn trọng chúng. Anh ấy thật tuyệt vời.”
Mammy rất thích kể về chuyện mẹ đã cầu hôn bố ra sao.
“Khi đó tôi mười sáu tuổi, còn anh ấy mười chín. Hai gia đình chúng tôi sống sát nhà nhau ở Panjshir. Ôi, tôi đã phải lòng anh ấy, các hamshira ạ! Tôi thường trèo qua bờ tường ngăn cách giữa hai nhà và chúng tôi cùng chơi đùa trong khu vườn của bố anh ấy. Hakim lúc nào cũng lo sợ chúng tôi sẽ bị bắt quả tang và anh ấy sẽ bị bố tôi cho ăn đòn. ‘Bố em sẽ đánh đòn anh mất,’ anh ấy luôn nói thế. Anh ấy rất cẩn thận, rất nghiêm túc, thậm chí ngay từ hồi đó. Và rồi một ngày nọ, tôi đã nói với anh ấy, nói rằng, ‘Anh à, rồi chuyện gì sẽ đến đây? Anh có định cầu hôn em không hay anh để em phải khasiegari anh đây?’ Tôi đã nói như thế đấy. Giá mà các bà nhìn thấy bộ mặt anh ấy lúc đó!”
Rồi Mammy cũng vỗ tay rộn ràng như mấy bà kia còn Laila thì phá lên cười.
Nghe Mammy kể những cầu chuyện đó, Laila biết rằng đã từng có thời Mammy luôn nói về Babi như vậy. Khoảng thời gian mà bố mẹ cô bé không ngủ riêng phòng. Laila ước ao giá mình được chứng kiến quãng thời gian đó.
Theo lẽ tất nhiên, câu chuyện tỏ tình của Mammy lại được lái sang chuyện mai mối. Khi đất nước Afghanistan được giải phóng khỏi quân Xô Viết và các chàng trai trở về nhà, họ sẽ đi tìm vợ, vậy nên, lần lượt từng người, các bà hàng xóm thay nhau giới thiệu tất cả các cô gái, có cả người thích hợp lẫn không thích hợp cho Ahmad và Noor. Laila luôn có cảm giác mình bị ra rìa khi các cuộc nói chuyện quay sang chủ đề về các anh trai cô bé, cũng giống như khi các bà bàn tán về một bộ phim yêu thích mà chỉ có cô bé là chưa xem. Laila được hai tuổi khi Ahmad và Noor rời Kabul đi lên vùng Panjshir phía Bắc để gia nhập quân đội của Tổng chỉ huy Ahmad Shad Massoud và chiến đấu vì cuộc thánh chiến. Laila hầu như không nhớ gì về họ. Một sợi dây chuyền có mặt là chữ ALLAH sáng lấp lánh trên cổ của Ahmad. Một khóm lông đen ở một bên tai của Noor. Tất cả chỉ có thế.
“Azita thì sao?”
“Con gái của ông thợ làm thảm đó à?” Mammy vừa nói vừa vỗ má với vẻ coi thường. “Con bé còn nhiều ria mép hơn cả Hakim!”
“Còn Anahita. Chúng tôi nghe nói nó học giỏi nhất lớp ở Zarghoona đấy.”
“Thế các bà đã nhìn thấy bộ răng của nó chưa? Những tấm bia mộ thì đúng hơn. Con bé che đậy cả một bãi tha ma đằng sau đôi môi.”
“Vậy thì chị em nhà Wahidi?”
“Hai đứa lùn đó à? Không, không, không. Ôi không. Không phải dành cho con trai tôi. Không dành cho những ông hoàng của tôi được. Chúng xứng đáng hưởng những điều tốt đẹp hơn.”
Cuộc nói chuyện cứ tiếp diễn, còn Laila thì để tâm trí vẩn vơ đi chỗ khác, hầu như lúc nào cũng vậy, nó lại trôi về với hình bóng Tariq.
Mammy đã kéo những chiếc rèm màu vàng nhạt lại. Trong bóng tối, căn phòng sực lên bao thứ mùi quyện vào nhau: mùi ga trải giường chưa giặt, mùi mồ hôi, mùi của bít tất bẩn, mùi nước hoa, mùi qurma ăn thừa tối hôm trước. Laila đợi cho mắt quen với bóng tối rồi mới đi ngang qua phòng. Mặc dù vậy, chân cô bé vẫn vướng vào đống quần áo bày la liệt dưới sàn.
Laila kéo rèm ra. Ở cuối chân giường có một chiếc ghế gấp bằng kim loại đã cũ. Laila ngồi xuống đó nhìn đống chăn không nhúc nhích, chỗ mẹ cô bé đang nằm.
Các bức tường trong phòng Mammy treo kín ảnh của Ahmad và Noor. Laila nhìn vào đâu cũng thấy hình ảnh hai người lạ mặt đang mỉm cười với cô. Chỗ này là hình Noor đang cưỡi trên xe đạp. Chỗ này lại là Ahmad đang cầu nguyện bên cạnh chiếc đồng hồ mặt trời do Babi và anh ấy làm khi anh mới mười hai tuổi. Và chỗ kia, hai anh trai cô, họ đang ngồi tựa lưng vào nhau dưới gốc lê già ngoài sân.
Dưới gầm giường của Mammy, Laila có thể thấy một góc chiếc hộp giày của Ahmad thò ra ngoài. Thỉnh thoảng, Mammy lấy cho cô xem những mẩu báo cũ cắt rời, nhàu nát từ trong hộp ra, cả những quyển sách nhỏ mà Ahmad đã sưu tầm được từ những nhóm nổi dậy và các tổ chức kháng chiến có trụ sở đóng tại Pakistan. Laila nhớ lại một bức ảnh có hình một người đàn ông mặc áo khoác dài màu trắng đang đưa chiếc kẹo que cho một cậu bé bị cụt chân. Dưới bức hình có đề chú thích: Trẻ em là những nạn nhân chính của chiến dịch mìn của quân Xô Viết. Bài báo còn nói thêm rằng người Xô Viết cũng hay giấu chất nổ vào bên trong các đồ chơi màu sắc sặc sỡ. Nếu bọn trẻ nhặt chúng lên, đồ chơi sẽ phát nổ và cướp đi những ngón tay, thậm chí là cả một bàn tay. Làm như thế để các ông bố không thể tham gia cuộc thánh chiến được, họ phải ở nhà chăm sóc con cái. Ở một bài báo khác trong chiếc hộp của Ahmad, một chiến binh Hồi giáo trẻ nói rằng quân Xô Viết đã phun xăng vào làng anh và đốt cháy da, làm mù mắt người dân. Anh ta kể đã nhìn thấy mẹ và em gái chạy ra dòng suối và ho khạc ra đầy máu.
“Mammy.”
Đống chăn khẽ cựa quậy. Từ đó phát ra tiếng rên khe khẽ.
“Dậy thôi, Mammy. Đã ba giờ chiều rồi.”
Thêm một tiếng rên nữa. Một bàn tay giơ lên, như một chiếc kính tiềm vọng tàu ngầm đang trồi lên khỏi mặt nước, rồi lại thụt xuống. Lần này, đống chăn chuyển động rõ rệt hơn. Lớp chăn đệm kêu sột soạt. Mammy dần dần hiện ra: ban đầu là mái tóc rối bời, tiếp đến là khuôn mặt nhăn nhó, trắng nhợt, đôi mắt nheo lại vì ánh sáng, một bàn tay đang lần tìm thành giường, tấm chăn trượt xuống khi bà càu nhàu vươn dậy. Mammy cố gắng ngước nhìn, chưa quen với ánh sáng, rồi gục đầu xuống ngực.
“Buổi học thế nào?” bà thì thầm.
Lại bắt đầu. Những câu hỏi và câu trả lời hời hợt chiếu lệ. Cả hai đều đang giả vờ. Hai mẹ con là cặp đôi trong điệu nhảy cũ rích và mệt mỏi.
“Buổi học tốt ạ,” Laila trả lời.
“Con học được gì không?”
“Như thường lệ.”
“Con ăn chưa?”
“Rồi ạ.”
“Tốt rồi.”
Mammy lại ngẩng đầu lên, hướng về phía cửa sổ. Bà nhăn mặt lại và chớp chớp mi mắt. Má phải của bà ửng đỏ, tóc bên đó cũng xẹp xuống. “Mẹ bị đau đầu.”
“Con mang cho mẹ mấy viên thuốc aspirin nhé.”
Mammy xoa bóp hai bên thái dương. “Thôi để lát nữa. Bố con có nhà không?”
“Mới ba giờ mà mẹ.”
“Ờ. Phải. Con đã nói rồi.” Mammy ngáp. “Mẹ vừa nằm mơ,” bà nói, giọng bà chỉ to hơn một chút xíu so với tiếng quần áo cọ vào chăn mền sột soạt. “Vừa xong, ngay trước khi con bước vào. Nhưng mẹ không tài nào nhớ lại được. Con có gặp chuyện đó không?”
“Ai cũng có lúc như vậy mà Mammy.”
“Quả là điều lạ lùng nhất.”
“Con phải nói cho mẹ biết rằng trong khi mẹ đang nằm mơ thì một thằng bé đã bắn nước tiểu vào tóc con.”
“Bắn gì? Cái gì cơ? Nói lại mẹ nghe.”
“Nước tiểu. Nước đái.”
“Thật là... thật là kinh khủng. Thượng đế ơi, mẹ xin lỗi. Tội nghiệp con. Mẹ sẽ nói chuyện với thằng bé đó ngay sáng ngày mai. Hoặc mẹ của nó. Đúng rồi, mẹ nghĩ như thế thì tốt hơn.”
“Con còn chưa nói cho mẹ biết nó là ai mà.”
“À. Ừ, nó là đứa nào?”
“Thôi bỏ đi.”
“Con đang tức giận.”
“Lẽ ra mẹ phải đến đón con.”
“Mẹ phải đến,” Mammy rên rỉ. Laila không biết đó có phải là một câu hỏi hay không. Mẹ bắt đầu bứt tóc. Với Laila, việc tại sao thói quen bứt tóc của Mammy không làm cho đầu bà bị trọc lốc như một quả trứng vẫn luôn là một trong những điều bí hiểm lớn của cuộc sống. “Gì nhỉ... Tên cậu ta là gì, bạn con đó, Tariq phải không? Đúng rồi, thế lúc đó cậu ta ở đâu?”
“Cậu ấy đã đi xa được một tuần rồi.”
“Chà,” Mammy thở dài bằng mũi. “Con đã gội đầu chưa?”
“Rồi ạ.”
“Vậy là giờ con đã sạch sẽ.” Mammy hướng cái nhìn chăm chú đầy mệt mỏi ra ngoài cửa sổ. “Con đã sạch sẽ và mọi chuyện đều ổn.”
Laila đứng dậy. “Con phải làm bài tập bây giờ.”
“Tất nhiên rồi. Khép rèm cửa lại trước khi đi ra ngoài nhé, con yêu,” Mammy nói, giọng chìm dần. Bà đã nằm gọn dưới tấm chăn.
Khi Laila với rèm cửa, cô bé nhìn thấy một chiếc ô tô đi qua phố, nhả lại đằng sau một đám khói bụi. Đó chính là chiếc xe Benz màu xanh lục mang biển số Herat đến giờ mới dời đi. Cô bé đưa mắt dõi theo cho đến khi chiếc ô tô biến mất ở khúc ngoặt, cửa sổ sau xe lấp lánh dưới ánh mặt trời.
“Ngày mai mẹ sẽ không quên nữa,” tiếng Mammy vang lên đằng sau lưng cô bé. “Mẹ hứa đấy.”
“Hôm qua mẹ cũng nói thế.”
“Con không biết đâu, Laila.”
“Biết gì cơ ạ?” Laila xoay người lại đối diện với mẹ. “Con không biết gì?”
Mammy đặt tay lên ngực và vỗ. “Ở đây. Thứ ở đây này.” Rồi tay Mammy trở nên mềm nhũn. “Con không biết được đâu.”
18
Một tuần trôi qua nhung vẫn không có tin tức gì về Tariq. Rồi một tuần nữa lại đến và qua đi.
Để lấp đầy thời gian trống, Laila sửa chỗ rèm cửa rách mà Babi vẫn chưa đụng đến. Cô bé lôi sách của Babi xuống, phủi bụi và sắp xếp theo thứ tự chữ cái. Cô bé đi đến phố Gà cùng Hasina, Giti và bà Nila, mẹ của Giti, vốn là thợ may và thỉnh thoảng làm bạn may vá với Mammy. Trong tuần đó, Laila tin rằng trong các thử thách mà con người ta phải chịu đựng thì không có gì kinh khủng bằng việc chỉ đơn giản là chờ đợi.
Một tuần nữa trôi qua.
Laila cảm thấy mình đang mắc kẹt trong một mớ bòng bong những ý nghĩ khủng khiếp.
Cậu ấy sẽ không bao giờ trở lại. Bố mẹ cậu ấy đã chuyển nhà đi xa mãi mãi; chuyến đi đến Ghazni chỉ là một trò lừa gạt. Người lớn đã sắp xếp mọi thứ để hai đứa không phải buồn khi chia tay.
Cậu ấy lại dính một quả mìn nữa. Đúng như những gì đã xảy ra năm 1981, khi cậu ấy mới năm tuổi, cũng là lần gần đây nhất bố mẹ cậu đưa cậu ấy về miền Nam tới Ghazni. Không lâu sau sinh nhật lần thứ ba của Laila. Lần đó cậu ấy đã may mắn vì chỉ mất một chân; may mắn vì rốt cuộc cậu vẫn còn sống.
Trong đầu cô bé chỉ lùng bùng với những ý nghĩ ấy.
Đến một tối, Laila nhìn thấy ánh đèn pin nhỏ từ dưới phố. Một âm thanh vừa the thé vừa hổn hển phát ra từ môi cô bé. Cô bé vội moi chiếc đèn pin dưới gầm giường lên, nhưng nó bị hỏng. Laila đập đèn pin vào lòng bàn tay, nguyền rủa những cục pin chết. Nhưng không vấn đề gì. Cậu ấy đã trở về. Laila ngồi lên thành giường, ngây ngất vì gánh nặng được trút bỏ, và ngắm nhìn con mắt màu vàng, đẹp đẽ đó đang chớp nháy, lúc tắt lúc sáng.
Hôm sau, trên đường đến nhà Tariq, Laila nhìn thấy Khadim và lũ bạn của nó trên phố. Khadim đang ngồi xổm, dùng que vẽ vời lên đất bẩn. Khi nhìn thấy cô bé, nó vứt que xuống và ve vẩy ngón tay. Nó nói gì đó và cả lũ cười khục khặc. Laila cúi đầu bước qua thật nhanh.
“Cậu đã làm gì thế?” cô bé la lên khi Tariq ra mở cửa. Ngay sau đó, cô bé chợt nhớ ra bác cậu là một thợ cắt tóc.
Tariq đưa tay vuốt cái đầu mới được cạo trọc và mỉm cười, khoe hàm răng trắng hơi khấp khểnh.
“Cậu thích nó chứ?”
“Có vẻ như cậu đang định nhập ngũ.”
“Cậu muốn sờ không?” Cậu cúi đầu xuống thấp.
Những sợi tóc cứng nhỏ li ti cọ vào lòng bàn tay Laila thật dễ chịu. Tariq không giống như một vài cậu con trai khác, phải nhờ tóc che bớt cái đầu hình nón với những u bướu xấu xí. Đầu của Tariq cong một cách hoàn hảo và không hề có u.
Khi cậu nhìn lên, Laila thấy má và trán cậu rám nắng.
“Sao cậu đi lâu vậy?” cô bé hỏi.
“Bác mình bị ốm. Đi nào. Vào nhà đi.”
Tariq dẫn Laila đi dọc hành lang vào phòng khách. Laila yêu mọi thứ trong ngôi nhà này. Tấm thảm cũ sờn rách trong phòng khách, miếng mền khâu từ nhiều mảnh vải trên đi văng, sự bừa bộn trong cuộc sống thường nhật của Tariq: những mẩu vải của mẹ cậu, những chiếc kim khâu cài vào cuộn chỉ, những tờ tạp chí cũ, hộp đàn accordion ở trong góc phòng chỉ chực nứt vỡ ra.
“Ai thế?”
Tiếng mẹ cậu vọng từ bếp ra.
“Laila,” cậu bé trả lời.
Cậu kéo ghế cho cô bé ngồi. Phòng khách tràn ngập ánh sáng và có cửa sổ đôi mở ra ngoài sân. Trên cửa bày các lọ rỗng mà mẹ Tariq dùng để muối cà và làm mứt cà rốt.
“Con nói là aroos của chúng ta, cô con dâu của chúng ta à,” bố cậu bé bước vào phòng và nói. Ông vốn là thợ mộc, một người đàn ông gầy còm, có mái tóc bạc trắng của cái tuổi ngoài sáu mươi. Ông có hai răng cửa cách thưa nhau và đôi mắt lé của một người dành gần cả cuộc đời bôn ba khắp đất trời. Ông dang rộng cánh tay và Laila lọt thỏm trong vòng tay đó, nhận sự chào đón nồng hậu của ông cùng với mùi hương quen thuộc của mùn cưa. Hai người hôn má nhau ba lần.
“Ông mà cứ gọi nó như thế thì con bé sẽ không thèm tới đây nữa đâu,” mẹ Tariq nói khi đi ngang qua họ. Bà bê ra một cái mâm, ở trên có một bát to, một cái thìa và bốn bát nhỏ hơn. Bà đặt mâm xuống bàn. “Cháu đừng để ý đến ông già đó.” Bà khum tay ôm lấy khuôn mặt Laila. “Rất vui được gặp cháu, cháu yêu của ta. Đến đây, ngồi xuống nào. Bác sẽ quay lại với món hoa quả dầm.”
Chiếc bàn rất lớn, được làm từ gỗ thô sáng màu - bố Tariq đã đóng nó, cùng với cả mấy cái ghế nữa. Chiếc bàn được phủ lên một tấm khăn trải bàn nhựa vinyl xanh rêu in hình trăng lưỡi liềm với các vì sao màu hồng đậm. Ảnh chụp Tariq ở mọi lứa tuổi được treo khắp tường xung quanh phòng khách. Trong một vài bức ảnh lúc bé, cậu còn đủ hai chân.
“Cháu nghe nói anh trai bác bị ốm,” Laila vừa nói với bố Tariq vừa xúc thìa vào bát hoa quả dầm có nho khô, hồ trăn và mơ.
Ông châm điếu thuốc, “Ừ, nhưng bác ấy giờ khỏe rồi, shokr e Khoda, tạ ơn Thượng đế.”
“Một cơn đau tim. Đây là lần thứ hai rồi,” mẹ Tariq nói và trao cho chồng một cái nhìn động viên.
Bố Tariq nhả khói thuốc và nháy mắt với Laila. Lúc này cô bé lại có cảm giác rằng bố mẹ Tariq có thể dễ bị nhầm lẫn là ông bà của cậu. Mẹ cậu sinh ra cậu khi đã bước sang tuổi bốn mươi.
“Bố cháu khỏe không, cháu yêu?” mẹ Tariq ngước mắt nhìn qua bát, hỏi.
Từ khi gặp mẹ Tariq lần đầu, Laila đã thấy bà đội bộ tóc giả. Bộ tóc đang ngả sang màu tía đục theo năm tháng. Hôm nay bà kéo bộ tóc giả thấp xuống tận chân mày và Laila nhìn thấy những sợi tóc hoa râm ở hai bên mai. Cũng có hôm bộ tóc giả đó được đặt cao trên trán. Nhưng trong mắt Laila, mẹ Tariq chưa bao giờ trông lố bịch với bộ tóc đó. Những gì Laila nhìn thấy dưới bộ tóc giả là một khuôn mặt điềm tĩnh, đáng tin cậy, đôi mắt lanh lợi, cử chỉ dịu dàng, khoan thai.
“Bố cháu khỏe,” Laila trả lời. “Tất nhiên vẫn làm việc ở Silo. Bố cháu khỏe ạ.”
“Mẹ cháu thì sao?”
“Có ngày tốt. Cũng có ngày xấu. Vẫn cứ như thế ạ.”
“Ừ,” mẹ Tariq hạ thìa xuống bát, tư lự. “Thật khó khăn, vô cùng khó khăn đối với một bà mẹ phải xa những đứa con trai.”
“Cậu ở lại đây ăn trưa nhé?” Tariq hỏi.
“Cháu phải ở lại đấy,” mẹ cậu bé nói. “Bác đang làm shorwa*.”
Một loại xúp truyền thống của Afghanistan, thường để ăn với bánh mì.
“Cháu không muốn là mozahem* đâu.”
Kẻ quấy rầy.
“Ngạc nhiên chưa?” mẹ Tariq nói. “Chúng ta mói đi được hai tuần mà cháu đã trở nên khách sáo thế ư?”
“Được rồi ạ, cháu sẽ ở lại,” Laila bẽn lẽn nói và mỉm cười.
“Cứ như thế nhé.”
Sự thật thì Laila thích dùng bữa ở nhà Tariq cũng ngang với việc cô bé chán ghét những bữa ăn ở nhà mình. Ở gia đình Tariq, không có ai một mình; họ luôn ăn cùng cả nhà. Laila thích những chiếc cốc nhựa màu tím mà họ dùng và thích bình nước luôn có một phần tư quả chanh nổi bên trên. Cô bé thích cách họ bắt đầu bữa ăn với một bát sữa chua tươi, cách họ vắt cam chua vào tất cả mọi thứ, kể cả vào món sữa chua, và cách họ pha trò, trêu chọc nhau bằng những câu bông đùa nhẹ nhàng, vô hại.
Sau bữa ăn, họ trò chuyện cùng nhau. Mặc dù Tariq và cha mẹ là người dân tộc Pashtun, họ vẫn nói tiếng Farsi khi có mặt Laila ở đó để cô bé được thoải mái, ngay cả khi Laila ít hay nhiều cũng có thể hiểu được tiếng Pashto gốc của họ vì cô bé đã được học ngôn ngữ đó ở trường. Babi nói rằng có những mâu thuẫn giữa hai dân tộc của họ, những người Tajik thiểu số và dân tộc Pashtun của Tariq, nhóm người chiếm đại đa số tại Afghanistan. Người Tajik luôn cảm thấy bị xem thường, Babi nói. Các đời vua người Pashtun đã cai trị đất nước này gần hai trăm năm mươi năm, Laila à, trong khi người Tajik chỉ có được vị trí đó trong vòng chỉn tháng hồi 1929.
Còn Babi, Laila hỏi, Babi có cảm thấy bị coi thường không?
Babi lấy vạt áo lau mắt kính. Theo bố, chuyện đó thật ngu ngốc - một chuyện ngu ngốc nguy hiểm - vì tất cả các câu chuyện đó chỉ là kiểu Tôi là người Tajik còn ông là người Pashtun còn anh ta là người Hazara còn cô ta là người Uzbek. Tất cả chúng ta đều là người Afghanistan, và đó mới là vấn đề chính. Nhưng khi một nhóm người cai trị những nhóm người khác trong một thời gian quá lâu... Sẽ có sự khinh thường. Sự thù địch. Như thế đấy. Luôn như thế.
Có thể thế. Nhưng Laila không bao giờ cảm thấy điều đó trong gia đình Tariq, nơi mà những vấn đề đó thậm chí chưa bao giờ xuất hiện. Mỗi lần đến thăm gia đình Tariq, Laila luôn cảm thấy tự nhiên, không gượng ép, không chút phiền phức bởi sự khác biệt về dân tộc hay ngôn ngữ, hay bởi sự thù hận, đố kỵ cá nhân vốn đã làm vẩn đục không khí trong chính gia đình cô bé.
“Mình chơi bài nhé?” Tariq hỏi.
“Phải đấy, các con lên lầu đi,” mẹ cậu bé nói, phẩy đám khói thuốc của chồng với vẻ không hài lòng. “Mẹ sẽ làm món shorwa.”
Hai đứa trẻ nằm sấp giữa phòng Tariq và thay phiên nhau chia bài panjpar. Vừa quơ quơ bàn chân trong không khí, Tariq vừa kể cho cô bé nghe về chuyến đi của mình, về những cây đào non cậu đã giúp bác mình trồng trong vườn, về một con rắn vườn mà cậu đã bắt được.
Tại căn phòng này, Laila và Tariq đã cùng làm bài tập về nhà, cùng xây những tòa tháp bằng quân bài và cùng vẽ những bức chân dung ngộ nghĩnh cho nhau. Nếu trời mưa, chúng sẽ dựa vào cửa sổ, uống nước cam Fanta có ga ấm và nhìn ngắm những hạt mưa căng mọng chảy thành dòng trên mặt kính.
“Được rồi, thêm một câu nữa nhé,” Laila vừa nói vừa trộn bài. “Cái gì ngồi một góc mà đi khắp thế giới?”
“Chờ đã.” Tariq đẩy người nhổm dậy và quay tròn chiếc chân giả. Cậu cau mày, chống khuỷu tay nằm nghiêng sang một bên. “Đưa cho mình cái gối kia.” Cậu đặt gối xuống chân. “Đó. Thế này dễ chịu hơn.”
Laila nhớ lại lần đầu Tariq cho cô bé xem phần chân bị cụt. Lúc đó cô bé sáu tuổi. Cô bé dùng một ngón tay ấn vào phần da căng bóng dưới đầu gối trái của cậu. Ngón tay cô bé chạm phải những cục u cứng ở đó, Tariq bảo rằng đó là những đầu xương đôi lúc phình lên sau khi phẫu thuật. Cô bé hỏi chỗ cụt có đau không và cậu trả lời là có đau vào cuối ngày, khi nó sưng lên và không vừa với phần chân giả như bình thường, giống như một ngón tay đút vào cái đê khâu vậy. Và thỉnh thoảng nó trở nên sần sùi. Nhất là lúc trời nóng. Khi đó mình sẽ bị phát ban và phồng rộp, nhưng mẹ có kem xoa dịu bớt. Củng không tệ lắm đâu.
Laila đã bật khóc.
Cậu khóc gì chứ? Tariq đeo phần chân giả lại. Cậu đòi xem nó cơ mà, cậu đúng là girvanok, con bé mít ướt! Nếu mình mà biết cậu rống lên như thế thì mình sẽ không cho cậu xem đâu.
“Con tem,” lúc này cậu bé nói.
“Gì cơ?”
“Câu đố. Đáp án là con tem. Bọn mình đi ra vườn thú sau bữa trưa nhé.”
“Cậu biết câu đố đó rồi. Đúng không?”
“Không hề.”
“Cậu là đồ nói dối.”
“Còn cậu là đồ ghen tị.”
“Vì cái gì chứ?”
“Trí thông minh của thằng con trai như mình.”
“Trí thông minh con trai của cậu á? Thế ư? Nói cho mình xem ai luôn thắng khi chơi cờ?”
“Mình nhường cho cậu thắng đấy chứ.” Cậu phá lên cười. Cả hai đứa đều biết điều đó là không đúng.
“Còn ai không giải được toán? Cậu đã phải đến nhờ ai giải bài tập cho mặc dù cậu học trên một lớp?”
“Mình sẽ học trên hai lớp nếu như môn toán không ngăn cản mình.”
“Theo mình môn địa lý cũng ngăn cản cậu đấy.”
“Cậu làm sao mà biết được chứ? Mà thôi đi. Nào bọn mình có đi chơi vườn thú hay không?”
Laila mỉm cười. “Đi chứ!”
“Tốt.”
“Mình nhớ cậu.”
Cả hai im lặng. Rồi Tariq quay về phía cô bé với khuôn mặt vừa nhăn nhó vừa cười cười với vẻ khó chịu. “Có chuyện gì thế?”
Laila tự hỏi đã không biết bao lần cô bé, Hasina và Giti không ngần ngại nói với nhau ba từ đó chỉ sau hai hay ba ngày không gặp nhau? Mình nhớ cậu, Hasina. Ôi, mình cũng nhớ cậu. Trước vẻ nhăn nhó của Tariq, Laila đã hiểu rằng con trai khác với con gái trong việc thể hiện tình cảm. Bọn chúng không thể hiện sự thân mật ra ngoài. Chúng không cảm thấy bị thúc giục, không thấy cần thiết phải nói như thế. Laila hình dung hai anh trai mình cũng như vậy. Laila kết luận rằng bọn con trai coi tình bạn giống như mặt trời: sự tồn tại của nó là không phải bàn cãi, có thể hưởng thụ ánh nắng rực rỡ nhưng không cần phải nhìn thẳng vào nó.
“Mình đang thử chọc cậu,” cô bé nói.
Cậu liếc mắt nhìn cô bé. “Có tác dụng rồi đấy.”
Nhưng cô bé nghĩ vẻ nhăn nhó của cậu bạn đã dịu xuống. Và hình như vết rám nắng trên má cậu đã ửng lên trong giây lát.
Laila không định kể cho Tariq biết. Thật ra, cô bé cho rằng hẳn sẽ không hay ho chút nào nếu kể chuyện đó cho cậu nghe. Sẽ có người bị thương vì cậu sẽ không bỏ qua mọi chuyện. Nhưng rồi sau đó khi cả hai đang trên đường xuống bến xe bus, cô bé lại gặp Khadim đang đứng dựa vào tường. Nó đứng giữa một lũ bạn, hai ngón cái móc vào dây lưng. Nó toét miệng cười Laila với vẻ ngang ngược.
Và vì thế cô bé đã kể lại cho Tariq. Toàn bộ câu chuyện ào ra khỏi miệng trước khi cô bé có thể dừng lại.
“Nó đã làm gì cơ?”
Cô bé nói lại một lần nữa.
Cậu chỉ về phía Khadim. “Thằng ấy? Là nó hả? Cậu chắc chứ?”
“Chắc chắn.”
Tariq nghiến răng và lầm bầm câu gì đó bằng tiếng Pashto mà Laila không hiểu được. “Cậu chờ ở đây,” Tariq nói bằng tiếng Farsi.
“Đừng, Tariq...”
Nhưng cậu đã băng qua đường.
Khadim là đứa đầu tiên nhìn thấy Tariq. Nụ cười của nó tắt dần và nó lùi lại, áp sát vào tường. Nó buông hai ngón tay cái ra khỏi dây lưng và đúng thẳng dậy, hít một hơi dè chừng trước mối đe dọa. Những đứa còn lại nhìn theo ánh mắt của nó.
Laila ước chi mình đã không hé răng điều gì. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu bọn chúng tụm lại? Bọn chúng có bao nhiêu đứa - mười? mười một? mười hai? Sẽ ra sao nếu chúng đánh cậu ấy bị thương?
Rồi Tariq dừng lại cách Khadim và đồng bọn vài bước chân. Laila nghĩ có lẽ là một giây suy tính, có lẽ cậu sẽ thay đổi ý định, và khi cậu cúi xuống, cô bé tưởng cậu sẽ giả vờ là dây giày bị tuột và quay trở lại phía mình. Nhưng rồi tay cậu bắt đầu hoạt động và cô bé hiểu ra.
Những đứa kia cũng hiểu ra khi Tariq bật thẳng dậy, đứng trên một chân. Khi cậu bắt đầu nhảy lò cò về phía Khadim, rồi đuổi theo nó, chiếc chân giả tháo rời được giơ cao trên đầu như một thanh kiếm.
Bọn con trai vội vàng dạt sang hai bên. Chúng mở ra một lối thông thẳng về Khadim.
Sau đó tất cả chỉ còn là bụi, đấm, đá và tiếng kêu la.
Khadim không bao giờ dám trêu ghẹo Laila thêm một lần nào nữa.
Tối hôm ấy, như mọi khi, Laila dọn bữa tối chỉ dành cho hai người. Mammy bảo không đói. Vào những buổi tối bà cảm thấy đói, bà sẽ mang một đĩa thức ăn về phòng mình trước cả khi Babi về đến nhà. Cho đến khi Laila và Babi ngồi vào bàn ăn thì thường bà đã ngủ rồi hoặc đang nằm thao thức trên giường.
Babi bước ra khỏi phòng tắm, mái tóc muối tiêu bám đầy bột mì lúc mới về đến nhà đã được gội sạch và chải gọn gàng ra phía sau.
“Chúng ta có gì cho bữa tối thế Laila?”
“Xúp aush còn thừa ạ.”
“Nghe hấp dẫn đấy,” ông vừa nói vừa gấp chiếc khăn tắm lau tóc lại.
“Thế chúng ta sẽ học gì tối nay nhỉ? Cộng phân số à?”
“Đúng ra là đổi phân số sang hỗn số ạ.”
“À. Phải.”
Hằng tối, sau bữa ăn, Babi lại giúp Laila làm bài tập và giao cho cô bé thêm vài bài do ông tự soạn ra. Babi làm vậy chỉ để Laila luôn học trước cả lớp một hoặc hai bước, không phải vì ông không tán thành các bài tập trường giao về nhà - bất kể lối giảng dạy mang tính tuyên truyền sai lệch. Thật ra, Babi nghĩ điều duy nhất mà những người cộng sản đã làm đúng - hay ít nhất là đang dự định làm - thật trớ trêu thay, chính là trong lĩnh vực giáo dục, cái nghề mà họ đã loại ông ra. Cụ thể hơn nữa là sự nghiệp giáo dục dành cho nữ giới. Chính phủ đã tài trợ các lớp học xóa mù cho tất cả phụ nữ. Babi nói rằng hiện nay, gần hai phần ba số sinh viên tại trường Đại học Kabul là nữ giới, họ đang theo học ngành luật, y, kỹ sư.
Ở quốc gia này nữ giới luôn luôn gặp khó khăn, Laila ạ, nhưng có lẽ giờ đây dưới chế độ cộng sản, họ được tự do hơn và có nhiều quyền lợi hơn bao giờ hết, Babi nói, lúc nào cũng hạ thấp giọng vì biết rằng Mammy rất dị ứng với những lời lẽ khen ngợi người cộng sản, thậm chí dù chỉ là bóng gió xa xôi. Nhưng đúng là như vậy, Babi tiếp tục, đây là thời điểm có lợi cho người phụ nữ ở Afghanistan. Và con có thể tận dụng cơ hội đó, Laila. Tất nhiên, quyền tự do nữ giới - tới đây, ông lắc đầu buồn bã - cũng là một trong những lý do đầu tiên khiến người ngoài đó cầm vũ khí.
Với từ “ngoài đó”, ông không nói đến Kabul, một nơi tương đối tự do và cấp tiến. Chính ở Kabul này, phụ nữ được giảng dạy tại trường đại học, điều hành trường học và giữ các chức vụ trong chính phủ. Không, Babi muốn nói đến các vùng bộ lạc, đặc biệt là các khu vực của người Pashtun ở miền Nam và miền Đông, gần biên giới Pakistan, nơi người ta hiếm khi nhìn thấy phụ nữ trên đường phố, mà nếu có thì cũng phải che mạng kín mít và có đàn ông đi cùng. Ông muốn nói đến những vùng nơi con người sống tuân theo các luật lệ bộ lạc cổ xưa và họ đã nổi dậy chống lại những người cộng sản, chống lại các điều luật nhằm giải phóng người phụ nữ, xóa bỏ tục ép cưới, tăng tuổi được phép kết hôn đối với nữ giới lên mười sáu tuổi. Babi còn nói, những người đàn ông ở đó coi điều này là một sự xúc phạm nghiêm trọng của chính phủ đến truyền thống lâu đời hàng thế kỷ của họ, biến những vùng đất của họ thành nơi vô đạo, nơi lũ con gái của họ phải ra khỏi nhà, đi học và làm việc cùng với bọn đàn ông.
Thượng đế ngăn cấm điều đó xảy ra! Babi mỉa mai. Rồi ông thở dài và nói, Laila, con yêu, kẻ thù duy nhất mà một người Afghanistan không thể đánh bại chính là bản thân anh ta.
Babi ngồi xuống bàn, chấm bánh mì vào bát xúp aush.
Laila quyết định rằng cô bé sẽ kể cho bố nghe về chuyện Tariq đã xử lý Khadim như thế nào, sau bữa ăn và trước khi hai bố con bắt đầu với những phân số. Nhưng cô bé không bao giờ còn cơ hội đó. Bổi vì ngay sau đó, có tiếng gõ cửa và ngoài cửa là một người lạ mang tin đến.
19
“Ta cần nói chuyện với bố mẹ cháu, dokhtar jan,” ông ta nói khi Laila ra mở cửa. Đó là một người đàn ông rắn chắc, khuôn mặt xương xương, dạn dày sương gió. Ông ta khoác chiếc áo màu khoai tây và đội mũ pakol len nâu.
“Cháu có thể nói với bố mẹ là ai đang ở đây ạ?”
Rồi Laila nhận thấy bàn tay Babi đặt lên vai mình và ông nhẹ nhàng kéo cô bé ra khỏi cửa.
“Con lên gác đi Laila. Đi đi.”
Khi đi về phía cầu thang, cô bé nghe thấy vị khách nói với Babi rằng ông ta mang tin từ Panjshir đến. Bây giờ thì Mammy cũng đang có mặt ở trong phòng. Bà đưa một tay lên bụm miệng, đôi mắt hết nhìn Babi lại đưa sang người đàn ông đội mũ pakol.
Laila lén nhìn xuống từ trên đầu cầu thang. Cô bé quan sát người lạ mặt đang ngồi cùng bố mẹ. Ông ta ngả người về phía họ. Nói nhỏ vài từ. Sau đó khuôn mặt Babi biến sắc, trắng bệch và ông nhìn chăm chằm xuống bàn tay, còn Mammy thì thét lên, la hét, vò đầu bứt tóc.
Sáng hôm sau, ngày fatiha*, đám đàn bà hàng xóm tập trung tại nhà Laila và chịu trách nhiệm chuẩn bị bữa tối khatm, một nghi lễ sau đám tang. Mammy ngồi trên đi văng cả buổi sáng, các ngón tay vần vò chiếc khăn, mặt bà sưng lên. Bà được hai người phụ nữ đang sụt sùi ở bên chăm sóc, được họ thay nhau vỗ nhè nhẹ vào bàn tay, như thể bà là con búp bê mỏng manh nhất, hiếm có nhất trên thế giới này. Mammy dường như không hề để ý đến sự hiện diện của họ.
Kinh cầu fatiha, ở đây dùng trong nghi lễ cầu siêu cho người chết.
Laila quỳ gối trước mặt mẹ và cầm tay bà. “Mammy.”
Mắt bà hướng xuống. Bà chớp mắt.
“Chúng ta sẽ chăm sóc bà ấy, Laila à,” một người đàn bà ra vẻ trịch thượng nói. Trước kia, Laila đã từng dự nhiều lễ tang nơi mà cô bé đã nhìn thấy những người đàn bà giống như vậy, những người đàn bà ưa thích các thủ tục cần làm với người đã chết, những kẻ an ủi chính thức và không cho phép ai xâm phạm đến nhiệm vụ tự giao của họ.
“Mọi thứ vẫn ổn. Giờ cháu làm gì cứ làm đi, cô bé, làm một việc gì đó. Để mẹ cháu được yên.”
Bị xua đuổi, Laila cảm thấy mình thật vô dụng. Cô bé chạy từ phòng này sang phòng khác. Cô bé lăng xăng quanh bếp một lát. Một Hasina dịu dàng khác thường và bà mẹ đến thăm. Rồi cả Giti và mẹ cũng đến. Khi nhìn thấy Laila, Giti lao đến, quàng cánh tay xương gầy quanh người Laila và cứ thế ôm rất lâu và chặt đến không ngờ. Khi cô bé lùi lại, nước mắt đã lưng tròng. Cô bé nói, “Laila à, mình rất lấy làm tiếc.” Laila cám ơn nó. Ba đứa ngồi với nhau ngoài sân cho đến khi một người đàn bà đến giao cho chúng nhiệm vụ rửa cốc và chồng đĩa trên bàn.
Babi cũng quanh quẩn đi ra đi vào căn nhà một cách vô định, nhìn quanh, như thể đang tìm kiếm việc gì đó để làm.
“Bảo ông ta tránh xa tôi ra.” Đó là lần duy nhất Mammy nói trong suốt buổi sáng.
Cuối cùng Babi ngồi xuống một mình trên chiếc ghế gấp ở hành lang, trông ông thật cô độc và nhỏ bé. Sau đó, một người trong đám đàn bà nhắc nhở ông rằng ông đang ngồi giữa lối đi của mọi người. Ông xin lỗi và đi ngay vào phòng làm việc.
Chiều hôm đó, đàn ông đi đến hội trường mà Babi thuê ở Karteh-Seh để làm lễ fatiha. Phụ nữ thì đến nhà. Laila ngồi cạnh Mammy, gần lối vào phòng khách, theo tục lệ là chỗ ngồi dành cho gia đình người mới mất. Những người đến viếng tháo giày ở cửa, gật đầu chào người quen khi đi qua phòng và ngồi lên những chiếc ghế gấp xếp dọc theo tường. Laila nhìn thấy Wajma, bà đỡ già đã đỡ cô bé chào đời. Cô bé còn nhìn thấy cả mẹ của Tariq, bà phủ chiếc khăn choàng đen qua bộ tóc giả. Bà gật đầu với Laila, mím môi chậm rãi nở nụ cười buồn bã.
Từ đài phát ra giọng âm mũi của đàn ông đang ngâm các câu xướng trong kinh Koran. Giữa chừng các câu xướng, những người đàn bà thở dài, thay nhau ra vào và khóc sụt sịt. Xung quanh có tiếng ho nhẹ, tiếng thì thầm và cứ từng lúc ai đó lại gào lên nức nở đau khổ một cách thái quá.
Mariam, vợ của Rasheed, bước vào. Cô quấn một cái hijab đen. Vài sợi tóc tuột ra ngoài xòa xuống trán. Cô ngồi xuống cạnh tường, đối diện với Laila.
Bên cạnh Laila, Mammy liên tục lắc người từ trước ra sau. Laila kéo tay mẹ vào lòng mình và ấp ủ bằng cả hai tay nhưng Mammy dường như chẳng để ý.
“Mammy, mẹ có muốn uống nước không?” Laila nói vào tai bà. “Mẹ có khát không?”
Nhưng Mammy không nói gì. Bà không làm gì ngoài việc đu đưa người từ trước ra sau và nhìn chằm chằm xuống thảm một cách thờ ơ, lãnh đạm.
Lúc này, ngồi bên cạnh Mammy, chứng kiến những ánh mắt ủ rũ, sầu não khắp căn phòng, Laila dần cầm nhận tầm nghiêm trọng của tai họa đã giáng xuống gia đình mình. Những khả năng đã bị phủ nhận. Những hy vọng đã bị dập tắt.
Nhưng cảm giác đó không tồn tại lâu. Thật khó để cảm nhận, thực sự cảm nhận những mất mát của Mammy. Thật khó để gợi lên nỗi buồn, để đau thương trước cái chết của những người mà Laila không bao giờ nghĩ đến trước tiên ngay cả họ khi còn sống. Đối với cô bé, Ahmad và Noor chỉ giống như câu chuyện. Giống như những nhân vật trong truyền thuyết. Những ông vua trong sách lịch sử.
Chính Tariq mới là người thực, con người bằng xương bằng thịt. Tariq, người đã dạy cô bé những lời thề bằng tiếng Pashto, người thích ăn món cỏ ba lá ướp muối, người lúc nào cũng nhăn mặt và rên lên khe khẽ khi nhai, người có một vết bớt hồng nhạt ngay dưới xương đòn trái hình một cây đàn mandolin lộn ngược.
Vì thế Laila ngồi cạnh Mammy và than khóc Ahmad và Noor theo bổn phận, nhưng từ sâu thẳm trái tim cô bé, người anh trai thực sự vẫn còn sống và khỏe mạnh.
20
Sự đau ốm rồi đây sẽ hành hạ Mammy trong những ngày còn lại của cuộc đời bà bắt đầu từ đó. Những cơn đau ngực, đau đầu, đau khớp và đổ mồ hôi ướt đẫm vào ban đêm, những cơn đau tai tê liệt, những cục u sưng lên mà không ai khác có thể cảm nhận được. Babi đưa mẹ đến khám bác sĩ, làm xét nghiệm máu và nước tiểu, chụp X quang khắp cơ thể nhưng không phát hiện ra căn bệnh nào.
Hầu như ngày nào Mammy cũng nằm liệt giường. Bà mặc đồ đen. Bà bứt tóc và giày vò cái nốt ruồi ở dưới môi. Khi Mammy tỉnh táo, Laila thấy bà đi loạng choạng khắp nhà. Bà luôn luôn dừng lại ở phòng Laila, như thể bà sẽ gặp lại các cậu con trai nếu bà cứ tiếp tục đi vào trong căn phòng nơi họ đã từng ngủ, đùa nghịch và dùng gối đánh nhau. Tuy nhiên tất cả những gì mà bà gặp phải chỉ là sự thiếu vắng họ. Và Laila. Cô bé tin rằng với Mammy thì việc cô có mặt hay không cũng như nhau cả thôi.
Công việc duy nhất mà Mammy không bao giờ sao lãng là năm bài cầu nguyện namaz hằng ngày. Bà két thúc mỗi bài namaz bằng cách cúi thấp đầu, tay đưa ra trước mặt, lòng bàn tay ngửa lên, lẩm nhẩm cầu nguyện Thượng đế mang chiến thắng đến cho lực lượng Chiến binh Hồi giáo. Laila phải đảm đương ngày càng nhiều việc nhà hơn. Nếu Laila mà không trông nom ngôi nhà thì cô bé sẽ phải chứng kiến quần áo, giày dép, bao gạo để mở, hộp đậu và bát đĩa bẩn vương vãi khắp nơi. Cô bé giặt đồ và thay ga trải giường cho Mammy. Cô bé dỗ dành bà ra khỏi giường để tắm và ăn uống. Cô bé cũng là người là áo sơ mi và gấp quần cho Babi. Chưa hết, cô bé còn là người nấu ăn cho gia đình.
Thỉnh thoảng sau khi đã làm xong hết việc nhà, Laila bò vào giường nằm cạnh Mammy. Cô bé vòng cánh tay ôm lấy bà, lồng những ngón tay bé nhỏ vào tay bà, vùi mặt vào tóc bà. Mammy sẽ cựa quậy, lẩm bẩm điều gì đó. Hiển nhiên, bà sẽ bắt đầu câu chuyện về những đứa con trai của mình.
Một ngày kia, khi hai mẹ con đang nằm như vậy, Mammy nói, “Ahmad đã sắp sửa trở thành chỉ huy. Trời phú cho nó cái uy tín để đảm nhiệm vị trí đó. Những người nhiều tuổi gấp ba lần nó cũng phải lắng nghe nó với sự kính trọng, Laila ạ. Một sự kiện đáng kể. Và Noor. Ôi, Noor của mẹ. Nó luôn luôn phác họa ra các tòa nhà và những cây cầu. Con biết đấy, nó sẽ trở thành một kiến trúc sư. Nó sẽ thay đổi cả Kabul bằng những thiết kế của mình. Và giờ đây cả hai đứa đều trở thành shaheed, những cậu bé của tôi, hai kẻ tử vì đạo.”
Laila nằm lắng nghe, ước gì Mammy sẽ nhận ra cô, Laila, người chưa phải là shaheed, người vẫn còn sống, đang ở đây, nằm trên giường với bà. Cô ước gì Mammy nhớ ra rằng cô cũng có những hy vọng và một tương lai phía trước. Nhưng Laila biết tương lai của cô bé không thể bù đắp được quá khứ của các anh trai mình. Họ đã phủ bóng lên cô bé khi họ còn sống. Họ có thể che mờ cô kể cả khi đã chết. Giờ đây, Mammy là người trông coi bảo tàng cuộc đời hai người con trai và cô, Laila, chỉ đơn thuần là một vị khách. Một cái hộp chứa đựng các truyền thuyết về họ. Một miếng giấy da để Mammy viết lên những huyền thoại về họ.
“Người đưa tin đã đến đây nói rằng khi người ta đưa các chàng trai về doanh trại, chính Ahmad Shah Massoud đã đứng ra chịu trách nhiệm chôn cất họ. Ông đã cầu nguyện cho họ tại mộ. Laila ạ, các anh trai con chính là những chàng trai dũng cảm đó, và chính Thủ lĩnh Massoud, Sư tử vùng Panjshir, Thượng đế phù hộ cho ông ấy, đã trông nom việc chôn cất chúng.”
Mammy xoay người ngả lưng xuống giường. Laila dịch người lại, gối đầu lên ngực bà.
“Có những ngày,” Mammy nói với giọng khàn khàn, “mẹ nghe thấy tiếng đồng hồ tích tắc ngoài hành lang. Rồi mẹ nghĩ về tất cả những giây, những phút, những giờ, những ngày, những tuần, những tháng và những năm đang chờ đợi mẹ. Tất cả thời gian đó mà không có chúng. Và khi đó mẹ không thở được, giống như ai đó đang giẫm chân lên trái tim mẹ, Laila ạ. Mẹ quá yếu rồi. Yếu đến nỗi chỉ muốn ngã xuống đâu đó.”
“Con ước gì có thể làm gì đó cho mẹ,” Laila nói, thực tâm nghĩ như vậy. Nhưng điều đó lại có vẻ đại khái, hời hợt giống một lời an ủi chiếu lệ của một người lạ mặt tốt bụng.
“Con là một đứa con gái ngoan,” Mammy nói sau tiếng thở dài. “Và mẹ đã không hoàn thành trách nhiệm của người mẹ với con.”
“Mẹ đừng nói vậy.”
“Ồ, đúng thế đấy. Mẹ biết điều đó và mẹ rất lấy làm tiếc, con yêu.”
“Mammy?”
“Ừm.”
Laila ngồi nhổm dậy, nhìn xuống Mammy. Mái tóc bà giờ đã điểm nhiều sợi bạc. Và Laila chợt giật mình nhận ra Mammy, một người phụ nữ lúc nào cũng béo tốt, giờ đã sụt cân đến chừng nào. Hai gò má trông vàng vọt, buồn sầu. Chiếc áo cánh bà đang mặc trễ xuống vai, giữa cổ và cổ áo là một khoảng lõm sâu. Đã hơn một lần, Laila nhìn thấy chiếc nhẫn cưới trượt khỏi ngón tay Mammy.
“Có điều này con đã định hỏi mẹ.”
“Chuyện gì?”
“Mẹ sẽ không...” Laila bắt đầu.
Cô bé đã tâm sự với Hasina về điều này. Theo như lời khuyên của Hasina, hai đứa đã dốc hết cả lọ thuốc aspirin xuống cống, giấu dao làm bếp và những cái xiên thịt sắc nhọn xuống dưới thảm ở bên dưới đệm đi văng. Hasina đã tìm thấy một sợi dây thừng ở ngoài sân. Khi Babi không tìm thấy dao cạo râu của ông, Laila buộc phải kể với ông về nỗi lo sợ của mình. Ông thả người xuống mép đi văng, hai tay kẹp giữa hai đầu gối. Laila chờ đợi để nhận được một sự trấn an từ ông. Nhưng tất cả những gì cô bé có được chỉ là một cái nhìn trống rỗng, hoang mang.
“Mẹ sẽ không... Mammy, con lo lắng rằng...”
“Mẹ đã nghĩ đến điều đó vào chính cái đêm chúng ta nhân được tin,” Mammy nói. “Mẹ sẽ không nói dối con, mẹ cũng đã nghĩ đến điều đó sau lúc ấy. Nhưng không. Laila, con đừng lo. Mẹ muốn nhìn thấy giấc mơ của các con trai mẹ trở thành hiện thực. Mẹ muốn chứng kiến cái ngày quân Xô Viết phải cuốn xéo về nước trong nhục nhã, ngày những Chiến binh Hồi giáo trở về Kabul trong chiến thắng. Mẹ muốn được ở đó khi điều này xảy ra, khi người dân Afghanistan được tự do, vì như thế các con trai mẹ cũng sẽ trông thấy. Chúng sẽ nhìn thấy qua mắt mẹ.”
Mammy nhanh chóng chìm vào giấc ngủ, để lại Laila với những cảm xúc giằng xé: cảm giác yên lòng vì Mammy sẽ cố gắng để sống, nhưng đau xót vì cô bé không phải là nguyên nhân níu kéo bà lại. Cô bé sẽ không bao giờ có thể để lại vết tích nào trong trái tim Mammy như các anh trai cô đã làm, bởi lẽ trái tim Mammy giống như một bãi biển xanh, nơi những dấu chân của Laila sẽ mãi mãi bị cuốn trôi đi cùng với những cơn sóng khổ đau dâng lên và đổ ập xuống, dâng lên và đổ ập xuống.
21
Người lái xe tạt vào bên lề để nhường đường cho một đoàn dài xe jeep và xe bọc sắt nữa của quân Xô Viết. Tariq vươn người qua ghế trước, chồm lên trên người lái xe và hô to, “Pajalusta! Pajalusta!*”
Tiếng Nga, nghĩa là “Xin mời! Xin mời!”.
Một chiếc xe jeep bấm còi và Tariq huýt sáo đáp lại, tươi cười vẫy tay một cách phấn khởi.
“Những khẩu súng đáng yêu lắm!” cậu hét lên. “Những chiếc xe jeep huyền thoại! Đội quân huyền thoại! Quá tồi khi bọn mày lại thua một đám nông dân bắn súng cao su!”
Đoàn xe đi qua. Người tài xế đánh xe ra đường.
“Còn bao xa nữa?” Laila hỏi.
“Cùng lắm là một giờ nữa,” người tài xế đáp. “Nếu không gặp phải một đoàn diễu hành hay trạm kiểm soát nào nữa.”
Laila, Babi và Tariq, ba người đang có chuyến đi kéo dài một ngày. Hasina cũng rất muốn đi cùng và đã năn nỉ bố nó nhưng bố nó không cho đi. Chuyến đi này là ý tưởng của Babi. Mặc dù khó có thể trang trải được hết các chi phí bằng đồng lương của mình, ông vẫn thuê một người tài xế lái trọn ngày. Ông còn không hé lộ cho Laila biết một chút gì về nơi đến, chỉ nói mỗi một điều là ông làm thế vì đang cố gắng cho sự nghiệp học hành của cô bé.
Họ khởi hành từ năm giờ sáng. Nhìn qua cửa sổ chỗ Laila ngồi, cảnh vật liên tục thay đổi từ những đỉnh núi phủ tuyết đến các sa mạc cát, rồi đến những hẻm núi và những núi đá cháy xém dưới ánh mặt trời. Dọc bên đường, họ đã đi qua những ngôi nhà trát bùn, mái tranh và những cánh đồng có nhiều bó lúa mì nằm ngổn ngang. Dốc xuống những cánh đồng nhiều bụi rậm, Laila nhận ra đây đó những túp lều đen của dân du cư Koochi. Và xuất hiện thường xuyên nhất là những xác ô tô nổ bình xăng cháy đen và những chiếc trực thăng bị bắn rơi của quân Xô Viết. Cô bé nghĩ đây chính là đất nước Afghanistan của Ahmad và Noor. Xét cho cùng thì chính tại các tỉnh này mới là nơi cuộc chiến đang diễn ra. Không phải ở Kabul. Phần lớn Kabul vẫn sống trong yên ổn. Nói về Kabul, nếu thỉnh thoảng không có tiếng súng nổ, nếu không có những người lính Xô Viết đứng hút thuốc bên vỉa hè và những chiếc xe jeep Xô Viết vọt đi trên đường phố thì chiến tranh có lẽ chỉ là một lời đồn thổi mà thôi.
Gần trưa, sau khi đi qua hai trạm kiểm soát khác nữa, họ đến một thung lũng. Babi và Laila vươn người qua ghế và chỉ về phía một dãy tường cổ đỏ rực dưới ánh mặt trời ở xa xa.
“Nơi đó được gọi là Shahr-e-Zohak. Thành phố Đỏ. Trước kia nó từng là một pháo đài. Nó được xây dựng cách đây khoảng chín trăm năm để chống lại quân xâm lược tấn công vào thung lũng này. Cháu nội của Genghis Khan* đã tấn công pháo đài vào thế kỷ mười ba và đã bị giết chết. Nhưng chính Genghis Khan sau đó đã phá hủy được pháo đài.”
Thành Cát Tư Hãn.
“Và đó, các bạn trẻ ạ, chính là câu chuyện về đất nước của chúng ta, hết kẻ xâm lược này lại đến kẻ xâm lược khác,” người tài xế nói, vẩy nhẹ tàn thuốc lá ra ngoài cửa sổ. “Người Macedonia. Người Ba Tư. Người Ả rập. Người Mông Cổ. Giờ là người Liên Xô. Nhưng chúng ta giống như những bức tường thẳng kia. Bị bào mòn và trông chẳng đẹp chút nào, nhưng vẫn đứng vững. Đúng thế không hả badar?”
“Quả thực là như vậy,” Babi đáp lại.
Nửa giờ sau, người tài xế tạt xe vào lề đường.
“Đi nào, hai đứa,” Babi nói. “Đi ra ngoài nhìn quanh xem.”
Họ bước ra khỏi xe. Babi chỉ, “Chúng đấy. Nhìn kìa.”
Tariq há hốc miệng. Laila cũng thế. Và cô bé biết rằng dù có sống đến trăm tuổi chăng nữa thì cô bé cũng sẽ không bao giờ có thể thấy lại một cái gì kỳ vĩ đến vậy.
Hai bức tượng Phật khổng lồ, cao lớn hơn nhiều so với những gì cô bé có thể tưởng tượng khi xem tất cả các bức ảnh trước đây. Hai bức tượng, được tạc trên vách đá trắng lóa dưới ánh mặt trời, nhìn chằm chằm xuống hai đứa trẻ giống như gần hai nghìn năm trước chúng đã nhìn xuống, Laila hình dung, những đoàn lữ hành đi ngang qua thung lũng này trên Con đường Tơ lụa. Dọc hai bên các bức tượng, vách đá điểm lỗ chỗ với vô vàn hang động.
“Cháu thấy mình quá nhỏ bé,” Tariq nói.
“Cháu có muốn trèo lên không?” Babi hỏi.
“Trèo lên các bức tượng ư?” Laila hỏi. “Chúng ta có thể làm thế sao?”
Babi mỉm cười và giơ tay ra. “Đi nào.”
Việc leo trèo này đối với Tariq thật khó khăn, cậu phải bám lấy cả Laila và Babi khi họ lần từng bước lên bậc thang xoáy trôn ốc chật hẹp, tối lờ mờ. Họ nhìn thấy những hang động âm u dọc đường đi và những lối hầm lỗ chỗ như tổ ong trên vách đá ở mọi ngả đường.
“Cẩn thận chỗ các con đang bước đấy,” Babi nói. Giọng ông dội vang. “Đất chỗ đó rất nguy hiểm.”
Ở một số chỗ, cầu thang dẫn tới một khoang hổng lớn trong tượng Phật.
“Các con, đừng nhìn xuống. Hãy nhìn thẳng về phía trước.”
Trong khi trèo lên cao, Babi kể cho hai đứa nghe rằng Bamiyan từng là một trung tâm Phật giáo thịnh vượng cho tới khi nó sụp đổ dưới sự thống trị của người Ả rập theo đạo Hồi vào thế kỷ mười chín. Vách đá sa thạch là nơi trú ngụ của các tăng ni Phật tử, là nơi được họ khoét thành các hang đá để ở và lập điện thờ cho những người hành hương kiệt sức vì chuyến đi dài. Babi nói các thầy tu đã vẽ các bích họa rất đẹp dọc theo tường và mái che hang động của họ.
“Có thời điểm,” ông nói, “có năm nghìn thầy tu sống ẩn dật trong những hang đá này.”
Khi họ leo lên đến đỉnh, Tariq mệt đứt hơi. Babi cũng thở hổn hển. Nhưng ánh mắt ông sáng bừng với niềm phấn khích.
“Chúng ta đang đứng trên đỉnh đầu tượng,” ông vừa nói vừa dùng khăn tay lau trán. “Có một hốc đá ở trên đây và chúng ta có thể nhìn ra ngoài.”
Họ lần từng bước về phía mái che lởm chởm đá rồi đứng bên nhau, Babi đứng giữa, cùng nhìn xuống thung lũng.
“Nhìn kìa!” Laila nói.
Babi mỉm cười.
Phía dưới, những cánh đồng màu mỡ tựa như tấm thảm phủ lên khắp thung lũng Bamiyan. Babi nói đó là lúa mì xanh vụ đông và cỏ linh lăng, cả khoai tây nữa. Các cánh đồng được viền quanh bằng những cây dương và có những con suối, con mương tưới nước chảy ngang qua, bên bờ suối có bóng dáng nhỏ tí xíu của những người phụ nữ đang ngồi giặt quần áo. Babi chỉ về phía những cánh đồng lúa gạo và lúa mạch đang gối lên nhau trên triền dốc. Bây giờ là mùa thu và Laila có thể nhận ra mọi người trong bộ áo chùng sáng màu đang rải lúa ra phơi trên nóc những ngôi nhà xây bằng gạch bùn. Dọc con đường chính xuyên suốt thị trấn cũng là hai hàng dương. Hai bên đường có những cửa hàng nhỏ, quán trà và hiệu cắt tóc. Bên trên làng mạc, sông suối, Laila còn nhìn thấy những chân đồi trọc màu nâu đất, và, vượt lên trên tất cả những thứ đó, cũng như vượt lên trên mọi thứ khác ở Afghanistan, là ngọn núi Hindu Kush đỉnh phủ tuyết trắng.
Phía trên tất cả là bầu trời xanh trong vắt, không một gợn mây.
“Tĩnh lặng quá,” Laila thì thào. Cô bé có thể nhìn thấy những chú cừu và ngựa nhỏ xíu nhưng không thể nghe thấy tiếng kêu của chúng.
“Đó chính là điều khiến bố nhớ mãi mỗi khi đứng ở trên đây,” Babi nói. “Sự tĩnh lặng. Sự yên bình. Bố hằng muốn các con cảm nhận được nó. Nhưng các con ạ, bố cũng muốn cho các con nhìn thấy di sản của đất nước chúng ta để hiểu được quá khứ đẹp đẽ của nó. Các con biết đấy, một số thứ bố có thể dạy các con. Một số thứ các con có thể học từ sách vở. Nhưng có những thứ, sao nhỉ, các con chỉ có thể nhìn và cảm nhận.”
“Nhìn kìa,” Tariq nói.
Họ nhìn thấy một con diều hâu đang bay lượn vòng trên ngôi làng.
“Babi đã bao giờ đưa Mammy lên đây chưa?” Laila hỏi.
“À, nhiều lần rồi. Trước khi mẹ sinh các anh con. Cả sau khi sinh nữa. Mẹ con đã từng rất thích phiêu lưu, và... tràn đầy nhiệt huyết. Bà ấy là người phụ nữ sôi nổi và vui vẻ nhất mà bố từng gặp.” Ông mỉm cười khi nhớ về những kỷ niệm. “Bà ấy đã có tiếng cười. Bố thề rằng chính vì nó mà bố cưới mẹ con, Laila à, vì tiếng cười đó. Nó hạ gục ta. Ta không thể nào chống đỡ lại được.”
Một làn sóng yêu thương trào dâng trong Laila. Kể từ giây phút đó, cô bé luôn nhớ về hình ảnh Babi như vậy: đang hồi tưởng về Mammy, khuỷu tay chống lên đá, bàn tay khum lại đỡ cằm, mái tóc bồng bềnh theo gió, đôi mắt nheo dưới ánh mặt trời.
“Mình sẽ đi xem một vài hang đá,” Tariq nói.
“Cẩn thận đấy,” Babi dặn.
“Vâng, thưa Kaka jan*,” tiếng Tariq vang vọng lại.
Bác yêu quý.
Laila nhìn theo nhóm ba người đàn ông xa xa ở phía dưới đang nói chuyện cạnh một con bò cột vào hàng rào. Cây cối xung quanh họ bắt đầu chuyển màu, màu nâu vàng, màu cam, màu đỏ tươi.
Babi nói, “Bố cũng nhớ các anh con, con biết không?” Mắt ông rơm rớm. Cằm ông rung lên. “Bố có lẽ không... Với mẹ con, cả niềm vui và nỗi đau của bà ấy đều tột cùng. Bà ấy không thể kiềm chế được. Không bao giờ. Còn bố, bố nghĩ mình thì khác. Bố muốn... Nhưng điều đó cũng làm cho bố suy sụp, những đứa con trai đã chết. Bố cũng nhớ các anh con. Không một ngày nào qua đi mà bố... Laila à, rất khó khăn. Khó vô cùng.” Ông đưa ngón cái và ngón trỏ chùi mạnh khóe mắt. Khi ông cố gắng tiếp tục câu chuyện, giọng ông như vỡ vụn. Ông uốn lưỡi và chờ đợi. Ông hít một hơi dài và sâu rồi nhìn cô bé. “Nhưng bố hạnh phúc vì có con. Ngày nào bố cũng cám ơn Thượng đế vì đã có con. Tất cả mọi ngày. Có những lúc, khi mẹ con có một ngày thực sự đau buồn, bố cảm thấy con là tất cả những gì bố có, Laila ạ.”
Laila xích lại gần hơn và áp má lên ngực ông. Dường như ông khẽ giật mình - không giống như Mammy, ông hiếm khi bộc lộ cảm xúc bằng sự âu yếm. Ông hôn nhẹ lên đầu cô bé và vụng về vòng tay ôm cô. Họ cứ đứng như thế một lúc nhìn xuống thung lũng Bamiyan.
“Mặc dù bố rất yêu mảnh đất này, nhưng bố nghĩ một ngày nào đó chúng ta sẽ phải ra đi,” Babi nói.
“Đi đến đâu ạ?”
“Bất cứ nơi nào để lãng quên. Bố nghĩ Pakistan là sự lựa chọn đầu tiên. Trong một năm, hoặc có thể là hai năm. Chờ cho các thủ tục giấy tờ được hoàn tất.”
“Còn sau đó?”
“Sau đó, chà, thế giới quả là rộng lớn. Có thể là nước Mỹ. Một nơi nào đó gần biển. California chẳng hạn.”
Bố nói rằng người Mỹ rất hào hiệp. Những người đó sẽ giúp đỡ họ kiếm tiền và thức ăn trong một thời gian cho tới khi họ có thể đứng vững trên đôi chân của mình.
“Bố sẽ đi tìm việc, và, trong một vài năm, khi chúng ta có đủ tiền tiết kiệm, chúng ta sẽ mở một cửa hàng đồ ăn Afghanistan nhỏ. Con hãy nhớ rằng, không có gì là viển vông hết, chỉ là một quán ăn hết sức bình dị với dăm cái bàn, mấy tấm thảm trải sàn. Có thể treo thêm vài bức ảnh Kabul. Chúng ta sẽ cho người Mỹ thưởng thức món ăn Afghanistan. Và với tài nghệ nấu nướng của mẹ con, họ sẽ phải xếp hàng dài trên phố.
“Còn con, tất nhiên con sẽ tiếp tục đi học. Con biết bố coi trọng vấn đề đó như thế nào rồi đấy. Ưu tiên hàng đầu của chúng ta là cho con được hưởng một nền giáo dục tốt, học cấp ba rồi đến đại học. Nhưng nếu con muốn, khi rảnh rỗi con có thể đỡ đần bố mẹ, làm theo sự chỉ bảo của chúng ta, rót đầy các bình nước, và những việc đại loại như thế.”
Babi nói rằng họ sẽ tổ chức các bữa tiệc sinh nhật tại quán, lễ kỷ niệm ngày cưới, những buổi sum họp đón năm mới. Nơi đó sẽ trở thành điểm tụ họp của những người Afghanistan, những người như họ, những người đã phải trốn chạy cuộc chiến tranh. Và vào đêm khuya, sau khi tất cả mọi người ra về, quán ăn được quét dọn sạch sẽ, họ sẽ ngồi uống trà giữa các bàn trống không, Babi, Mammy và Laila, mệt mỏi nhưng biết ơn vì số phận đã mỉm cười với họ.
Khi Babi nói xong, ông trở nên im lặng. Cả hai bố con đều không nói gì. Họ biết rằng Mammy sẽ không đi đâu hết. Đối với bà thì việc rời khỏi Afghanistan vốn là điều không thể nghĩ đến khi Ahmad và Noor vẫn còn sống. Giờ đây khi họ đã là những shaheed thì việc cuốn gói và chạy trốn thậm chí còn là một sự xúc phạm ghê gớm, một sự phản bội, một sự chối bỏ sự hy sinh của các con bà.
Sao ông có thể nghĩ đến điều đó được chứ? Laila có thể nghe thấy những gì bà sẽ nói. Cái chết của chúng không có ý nghĩa gì với ông sao, thưa ông? Niềm an ủi duy nhất của tôi bây giờ là biết rằng mình đang bước đi trên mảnh đất thấm đẫm máu của các con tôi. Không. Không bao giờ.
Và Laila biết Babi sẽ không bao giờ đi mà không có bà, mặc dù giờ đây Mammy đã không còn coi mình là vợ của ông và là mẹ của Laila nữa. Vì Mammy, ông sẽ gạt bỏ giấc mơ hão huyền của mình sang một bên, giống như phủi các hạt bột mì ra khỏi áo khoác khi ông trở về nhà từ chỗ làm việc. Do đó, họ sẽ ở lại. Họ sẽ ở lại cho đến khi chiến tranh kết thúc. Và họ sẽ ở lại cho dù bất kỳ chuyện gì xảy đến sau cuộc chiến.
Laila nhớ một lần Mammy đã nói với Babi rằng bà đã kết hôn với một người đàn ông chưa bao giờ bị ai kết tội. Mammy không hiểu. Bà không hiểu rằng nếu nhìn vào gương, bà sẽ thấy một bản án không bao giờ chấm dứt của cuộc đời người đàn ông ấy đang nhìn lại vào chính bà.
Sau bữa trưa với trứng luộc, khoai tây và bánh mì, Tariq nằm chợp mắt dưới một gốc cây, bên bờ suối chảy róc rách. Cậu gấp gọn áo khoác làm gối ngủ, hai tay khoanh lại trên ngực. Người tài xế vào làng mua quả hạnh. Babi ngồi dưới gốc một cây keo thân to đọc sách. Laila biết cuốn sách đó; ông đã đọc cho cô bé nghe một lần. Câu chuyện kể về một người đánh cá già tên là Santiago bắt được một con cá khổng lồ. Nhưng đến khi ông chèo được thuyền về an toàn thì chẳng còn dấu vết gì của con cá đó; bọn cá mập đã xé xác nó thành từng mảnh.
Laila ngồi bên bờ suối, ngâm chân xuống dòng nước mát lạnh. Đàn muỗi kêu vo ve và những bông hoa nhỏ rung rinh trên đầu cô bé. Một chú chuồn chuồn bay lượn ở gần đó. Laila nhìn theo đôi cánh chuồn chuồn lấp lánh dưới ánh mặt trời khi nó chao liệng từ ngọn cỏ này đến ngọn khác. Đôi cánh lóe lên màu tía, rồi màu xanh, màu cam. Bên kia con suối, đám con trai dân bản địa Hazara đang nhặt phân bò khô bỏ vào chiếc bị buộc sau lưng. Đâu đó có tiếng một chú lừa kêu be be. Một chiếc máy phát điện chạy được khởi động.
Laila lại nghĩ về giấc mơ nhỏ bé của Babi. Nơi nào đó gần biển.
Có một điều cô bé đã không nói với Babi khi còn ở trên đỉnh tượng Phật: đó là cô bé thực sự rất vui vì họ không thể ra đi. Cô sẽ nhớ Giti và sự nghiêm nghị ra mặt của con bé, đúng thế, và Hasina nữa, với nụ cười tinh quái và tất cả những trò đùa vô tâm. Nhưng cô bé nhớ nhất là quãng thời gian khổ sở của bốn tuần thiếu vắng Tariq vừa qua, khi cậu đi Ghazni. Cô bé nhớ rõ thời gian đã chậm chạp trôi đi ra sao khi không có cậu, cô đã bị xáo trộn như thế nào vì cảm giác chờ đợi mòn mỏi, mất thăng bằng. Cô bé sẽ xoay xở ra sao đây nếu mãi mãi không còn được gặp lại cậu nữa?
Có thể thật điên rồ khi Laila khao khát ở gần một ai đó ở chính cái mảnh đất mà bom đạn đã xé nát thân xác hai người anh trai của cô. Thế nhưng, tất cả những gì Laila phải làm là hình dung lại cảnh Tariq cầm chiếc chân giả xông lại phía Khadim, và rồi dường như không có gì trên thế giới này có ý nghĩa hơn thế với cô bé nữa.
Sáu tháng sau, tháng Tư năm 1988, Babi về nhà và mang theo một tin đặc biệt.
“Họ đã ký một hiệp ước!” ông nói. “Tại Geneva. Một hiệp ước chính thức! Họ sẽ rút quần. Trong vòng chín tháng, sẽ không còn một lính Xô Viết nào ở Afghanistan!”
Mammy đang ngồi ở trên giường. Bà nhún vai.
“Nhưng chế độ cộng sản thì vẫn còn tồn tại,” bà nói. “Najibullah là tổng thống bù nhìn của quân Xô Viết. Ông ta sẽ không đi đâu hết. Không, chiến tranh sẽ tiếp tục. Đó chưa phải là kết thúc.”
“Najibullah sẽ không còn là tổng thống nữa,” Babi nói.
“Mẹ à, bọn họ sẽ rút đi! Bọn họ sẽ rút đi thật đấy!”
“Hai người cứ việc ăn mừng nếu muốn. Nhưng tôi sẽ không yên tâm cho đến khi những chiến binh Hồi giáo tổ chức buổi diễu hành chiến thắng ngay tại đây, tại Kabul này.”
Và với niềm tin đó, bà lại nằm xuống và kéo chăn lên.
22
THÁNG MỘT, 1989
Một ngày u ám, lạnh lẽo tháng Một năm 1989, ba tháng trước khi Laila bước sang tuổi mười một, cô bé cùng bố mẹ và Hasina đi xem một trong những đoàn quân Liên Xô cuối cùng rút khỏi thành phố. Người dân đến xem đứng kín hai bên đường lớn, ở ngoài Câu lạc bộ Quân đội gần Wazir Akbar Khan. Họ đứng trong đống tuyết vấy bùn đất và quan sát một hàng xe tăng, xe bọc thép và xe jeep khi những bông tuyết nhẹ bay ngang qua trong ánh đèn pha ô tô loang loáng. Họ buông ra những lời chất vấn và chế nhạo. Quân lính Afghanistan ngăn họ tràn xuống đường. Thỉnh thoảng lại có một phát súng cảnh cáo được bắn lên.
Mammy giơ cao bức ảnh của Ahmad và Noor qua đầu. Đó là bức hình hai cậu bé đang ngồi dựa lưng vào nhau ở dưới cây lê. Có một số người đàn bà khác cũng làm như Mammy, họ giơ cao bức ảnh của những shaheed là chồng, con, anh em của họ.
Ai đó vỗ vào vai Laila và Hasina. Đó là Tariq.
“Cậu lôi thứ đó từ đâu ra vậy?” Hasina thốt lên.
“Tó nghĩ tớ sẽ ăn mặc thật bảnh cho dịp này.” Tariq nói. Cậu đang đội một chiếc mũ lông lớn kiểu Nga, hai miếng che tai rủ xuống. “Trông tó thế nào?”
“Lố bịch,” Laila phá lên cười.
“Ý tưởng chính là như thế.”
“Bố mẹ cậu cũng đến đây mà để cậu ăn mặc kiểu này à?”
“Thực ra, họ ở nhà,” cậu nói.
Ông bác của Tariq ở Ghazni đã mất do đau tim và ít tuần sau đó, bố cậu cũng trải qua một cơn đau tim, khiến ông yếu hẳn đi, mệt mỏi, dễ lo lắng và liên tục rơi vào trạng thái trầm cảm, mỗi lần kéo dài hằng tuần. Laila rất vui khi nhìn thấy Tariq trở lại như trước kia. Sau khi bố Tariq bị ốm, Laila thấy cậu cứ quét dọn khắp nhà, dáng vẻ buồn bã và nét mặt nặng trĩu lo âu.
Ba đứa trẻ lỉnh ra xa trong khi Mammy và Babi đứng xem toán quân Xô Viết. Tariq mua cho mỗi đứa một đĩa đậu luộc rưới tương ớt tại một hàng rong ven đường. Chúng ngồi ăn dưới mái hiên của một cửa hàng thảm đã đóng cửa, sau đó Hasina đi tìm gia đình mình.
Trên chuyến xe bus về nhà, Tariq và Laila ngồi sau bố mẹ cô bé. Mammy ngồi bên cửa sổ, nhìn ra ngoài, ôm chặt bức ảnh trước ngực. Bên cạnh bà, Babi bình thản nghe một người đàn ông đang tranh luận rằng quân Xô Viết có thể rời đi nhưng họ sẽ gửi vũ khí về cho Najibullah ở Kabul.
“Ông ta là con rối của chúng. Chúng sẽ duy trì cuộc chiến thông qua ông ta, hãy tin điều đó.”
Ai đó ở dãy ghế kế bên lên tiếng đồng tình.
Mammy đang lầm bầm một mình, những lời cầu nguyện dài lê thê thay nhau tuôn ra cho tới khi bà không còn hơi nữa và những từ cuối cùng được phát ra bằng một âm the thé nhỏ xíu.
Chiều muộn ngày hôm đó, Laila và Tariq tới rạp Công viên, hai đứa phải ngồi xem một bộ phim Xô Viết được lồng tiếng Farsi, vô tình tạo ra những hiệu ứng rất buồn cười. Có một chiếc tàu buôn, thuyền phó đem lòng yêu con gái của ông thuyền trưởng. Tên của cô là Alyona. Rồi một trận bão dữ dội tràn tới, sấm sét, mưa, mặt biển dậy sóng, vùi dập con tàu. Một trong số các thủy thủ bị kích động mạnh đang gào thét gì đó. Trong khi đó, một giọng Afghanistan điềm tĩnh một cách lố bịch lại dịch ra: “Ngài kính mến, xin ngài làm ơn chuyển cho tôi cái dây chão được không ạ?”
Lúc đó Tariq bật cười khúc khích. Và ngay sau đó, cả hai đứa đều cười như điên. Ngay khi một đứa thấy mệt, đứa kia lại sẽ cười phá lên và chúng lại phải tiếp tục thêm một lượt nữa. Một người đàn ông ngồi ở hai hàng ghế phía trước quay lại và suỵt cho chúng giữ yên lặng.
Có một cảnh đám cưới ở gần cuối phim. Thuyền trưởng động lòng thương và đã cho phép Alyona được cưới viên thuyền phó. Đôi vợ chồng mới cưới nhìn nhau mỉm cười. Tất cả mọi người đều uống rượu vodka chúc mừng.
“Tớ sẽ không bao giờ làm đám cưới,” Tariq thì thầm.
“Tớ cũng thế,” Laila nói, nhưng sau một chút hồi hộp, lưỡng lự. Cô bé lo rằng giọng nói của mình đã để lộ ra nỗi thất vọng trước những gì mà cậu bạn mới nói. Tim đập dồn trong ngực, cô bé thêm vào, lần này cương quyết hơn, “Không bao giờ.”
“Đám cưới là điều ngu xuẩn.”
“Cứ nhặng xị cả lên.”
“Tốn bao nhiêu tiền bạc.”
“Để làm gì chứ?”
“Cho những thứ quần áo sẽ không bao giờ mặc lại lần nữa.”
“Ha!”
“Nếu như có bao giờ tớ phải làm đám cưới,” Tariq nói, “thì họ sẽ phải để đủ chỗ cho ba người đứng trên bục kết hôn. Tớ, cô dâu và một người cầm súng chĩa vào đầu tớ.”
Người đàn ông ngồi ở hàng ghế trước lại ném cho chúng một cái nhìn cảnh cáo.
Trên màn ảnh, Alyona và người chồng mới của cô đang hôn nhau.
Nhìn nụ hôn đó, Laila tức thì nhận thấy những cảm giác khác lạ. Cô bé trở nên chú ý cao độ vào nhịp tim của mình, tiếng mạch máu thịch thịch ở hai tai và hình dáng Tariq đang ngồi cạnh, lúc này cũng đang căng thẳng, bất động. Nụ hôn vẫn tiếp tục. Laila đột ngột cảm thấy một sự thúc ép khẩn cấp, khiến cho cô bé không thể cử động hoặc gây nên một tiếng động nào. Cô bé cảm thấy Tariq đang quan sát mình - một mắt thì nhìn nụ hôn, còn mắt kia nhìn vào cô - cũng như cô đang quan sát cậu. Laila băn khoăn tự hỏi liệu cậu có nghe thấy tiếng thở gấp gáp của cô không, liệu cậu có chờ đợi một cử chỉ ngập ngừng, một thái độ bất thường nào đó để lộ ra những suy nghĩ của cô không?
Hôn Tariq thì sẽ như thế nào nhỉ, cái cảm giác khi hàng ria mỏng trên môi cậu ấy cọ vào đôi môi của cô sẽ ra sao?
Rồi Tariq cử động một cách không thoải mái trên ghế. Bằng một giọng không tự nhiên, cậu nói, “Cậu có biết rằng nếu cậu xì nước mũi ở Siberia thì nó sẽ biến thành một cột băng trước khi chạm đất không?”
Cả hai cùng cười, nhưng lần này có phần ngắn ngủi và hồi hộp. Khi bộ phim kết thúc và hai đứa bước ra ngoài, Laila cảm thấy thật nhẹ nhõm bởi vì trời đã tối và cô bé sẽ không phải chạm ánh mắt Tariq dưới ánh sáng ban ngày.
23
THÁNG TƯ, 1992
Ba năm đã trôi qua.
Trong khoảng thời gian đó, bố của Tariq đã trải qua rất nhiều cơn đau tim. Chúng khiến cánh tay trái của ông trở nên lóng ngóng và giọng nói thì có phần líu nhíu. Khi ông bị xúc động, điều vốn xảy ra khá thường xuyên, thì tật nói nhịu đó càng trở nên tệ hơn.
Tariq lớn lên và một lần nữa chiếc chân giả lại không vừa với cậu và rồi cậu được tổ chức Chữ Thập Đồ thay cho một cái chân mới, mặc dù phải chờ sáu tháng mới được nhận.
Giống như Hasina đã lo sợ, gia đình đã đưa nó đến Lahore, ở đó nó phải cưới người anh họ có một cửa hàng bán ô tô. Buổi sáng ngày họ đưa Hasina đi, Laila và Giti tới nhà nó để nói lời tạm biệt. Hasina nói với hai đứa rằng, người anh họ đó, người chồng sắp cưới của nó, đã bắt đầu chuẩn bị thủ tục để hai người chuyển tới nước Đúc, nơi những người anh em trai của anh ta đang sinh sống. Nó nghĩ trong vòng năm nay là hai người sẽ ở Frankfurt rồi. Ba đứa đã khóc khi ôm nhau tạm biệt. Giti buồn vô cùng. Lần cuối Laila nhìn thấy Hasina là khi nó được bố nó giúp chui vào hàng ghế sau chật cứng người của một chiếc taxi.
Liên bang Xô Viết sụp đổ một cách nhanh chóng đến kinh ngạc. Laila thấy dường như cứ khoảng một vài tuần, Babi lại trở về nhà mang theo tin một nước cộng hòa tuyên bố ly khai. Lithuania. Estonia. Ukraina. Lá cờ Xô Viết đã được hạ xuống ở điện Kremlin. Cộng hòa Liên bang Nga ra đời.
Ở Kabul, Najibullah thay đổi chiến thuật và cố thể hiện bản thân mình như là một người Hồi giáo mộ đạo. “Quá nhỏ nhoi, chẳng đáng kể gì và đã quá muộn rồi,” Babi nói. “Một người không thể là đầu sỏ của KHAD trong ngày này rồi ngày hôm sau lại đến cầu nguyện ở một thánh đường cùng với họ hàng thân thích của những người đã bị ông ta tra tấn và giết chết.” Cảm thấy chiếc dây thòng lọng đang ngày càng siết chặt xung quanh Kabul, Najibullah cố gắng để đạt được một hòa ước với lực lượng Chiến binh Hồi giáo, nhưng lực lượng Chiến binh Hồi giáo đã lờ đi.
Từ trên giường, Mammy nói, “Đấng tối cao phù hộ cho họ.” Bà thức đêm để trông ngóng Chiến binh Hồi giáo và chờ đợi cuộc diễu hành của bà. Chờ đợi thời khắc mà những kẻ thù của các con trai bà sụp đổ.
Và cuối cùng, họ đã sụp đổ. Vào tháng Tư năm 1992, năm Laila mười bốn tuổi.
Najibullah cuối cùng đã đầu hàng và được cấp chỗ ở trong một căn cứ của Liên Hợp Quốc, gần cung điện Darulaman, phía Nam thành phố.
Cuộc thánh chiến đã kết thúc. Các chính quyền cộng sản lên nắm quyền kể từ cái đêm Laila được sinh ra đã bị đánh bại. Những người anh hùng của Mammy, những đồng đội của Ahmad và Noor đã giành chiến thắng. Và bây giờ, sau hơn một thập kỷ phải hy sinh mọi thứ, rời bỏ gia đình để lên sống trên những vùng núi cao, chiến đấu cho quyền tự chủ của Afghanistan, những chiến binh Hồi giáo đang trở lại Kabul trong thân hình rã rời vì chiến trận.
Mammy biết tên tất cả bọn họ.
Đó là Dostum, vị chỉ huy ăn mặc lòe loẹt người Uzbek, thủ lĩnh của nhóm Junbish-i-Milli, người nổi tiếng với việc khơi dậy lòng trung thành. Là Gulbuddin Hekmatyar nóng nảy và hay cáu kỉnh, thủ lĩnh của nhóm Hezb-e-Islami, một người Pashtun theo học chuyên ngành kỹ thuật, đã từng giết chết một sinh viên theo tư tưởng Mao Trạch Đông. Rồi Rabbani, một thủ lĩnh người Tajik của nhóm Jamiat-e-Islami, người từng giảng dạy đạo Hồi ở trường Đại học Kabul thời còn dưới chế độ quân chủ. Sayyaf, một người Pashtun từ Paghman có liên hệ với người Ả rập, một người Hồi giáo dũng cảm và là thủ lĩnh của nhóm Ittehad-i-Islami. Abdul Ali Mazari, thủ lĩnh của cánh quân Hizb-e-Wahdat, người được những chiến binh người Hazara của mình gọi là Baba Mazari, có mối liên hệ mật thiết của những người dòng Shi’a với Iran.
Và, tất nhiên, còn có một người anh hùng của Mammy, đồng minh của Rabbani, thủ lĩnh người Tajik rất có uy tín, Ahmad Shah Massoud, Sư tử vùng Panjshir. Mammy đã treo một bức áp phích hình của ông ở trong phòng mình. Khuôn mặt điển trai, suy tư của Massoud với hàng lông mày nhướng lên và chiếc pakol đội nghiêng đặc trưng đã trở thành hình ảnh thường gặp khắp Kabul. Đôi mắt sâu lắng màu đen của ông nhìn chăm chú từ những tấm áp phích, từ những bức tường, từ cửa kính cửa hàng, từ những lá cờ gắn trên ăng ten của xe taxi.
Mammy đã mong ngóng cái ngày này biết bao lâu. Sau tất cả những năm tháng chờ đợi, giờ đây bà cũng đã được thỏa nguyện.
Cuối cùng thì bà đã có thể chấm dứt những đêm thức trắng chờ đợi, và những đứa con trai của bà giờ đây đã có thể yên nghỉ.
Một ngày sau hôm Najibullah đầu hàng, Mammy ra khỏi giường và thành một người đàn bà khác hẳn. Lần đầu tiên trong vòng năm năm kể từ khi Ahmad và Noor trở thành shaheed, bà không mặc đồ đen nữa. Bà khoác một tấm áo dài vải lanh màu xanh cô ban với những chấm hoa tròn màu trắng. Bà lau các cửa sổ, quét sàn nhà, đón khí vào nhà và tắm một lúc lâu. Giọng bà cứ rổn rảng vô cùng phấn khởi.
“Chuẩn bị có một bữa tiệc,” bà tuyên bố. Bà sai Laila đi mời hàng xóm. “Nói với họ rằng chúng ta sẽ có một bữa trưa thịnh soạn vào ngày mai!”
Ở trong bếp, bà đứng hai tay chống nạnh, nhìn quanh và trách yêu, “Con đã làm gì với cái bếp của mẹ thế hả Laila? Wooy. Tất cả mọi thứ đều không còn ở chỗ cũ.”
Bà bắt đầu di chuyển xoong nồi loanh quanh, điệu bộ màu mè, như thể bà đang tuyên bố lại chủ quyền, lấy lại lãnh địa của mình, khẳng định rằng bây giờ bà đã trở lại. Laila tránh ra để bà làm. Thế là tốt nhất. Lúc Mammy có hứng bà có thể cũng sẽ bất trị y như lúc bà đang nổi điên lên. Với sức lực tưng bừng, Mammy chuẩn bị cho các món: xúp aush nấu đậu và thì là khô, kofta, mantu hấp hơi nóng trộn sữa chua và rắc bạc hà lên trên.
“Con tỉa lông mày phải không?” Mammy vừa hỏi vừa mở một bao tải gạo lớn cạnh cái bàn bếp.
“Chỉ một chút thôi ạ.”
Mammy đổ gạo từ cái bao sang một xoong nước to màu đen. Bà xắn tay áo và bắt đầu vo gạo.
“Tariq thế nào?”
“Bố cậu ấy bị bệnh,” Laila nói.
“Bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?”
“Con không biết. Có lẽ sáu mươi tuổi, con đoán thế.”
“Ý mẹ hỏi Tariq kia.”
“Ồ. Mười sáu.”
“Cậu ấy là một cậu bé tốt đấy. Con có nghĩ thế không?” Laila nhún vai.
“Thực ra cũng chẳng còn là một cậu bé nữa rồi, phải không? Mười sáu. Sắp trở thành một người đàn ông rồi. Con có nghĩ thế không?”
“Mẹ đang ám chỉ điều gì thế, Mammy?”
“Chả có gì,” Mammy nói, mỉm cười vẻ ngây thơ. “Chả có gì cả. Chỉ là con... À, không. Tốt hơn là mẹ không nên nói.”
“Con thấy là mẹ muốn nói đấy,” Laila nói, cáu tiết bởi sự trêu chọc lòng vòng này.
“Được rồi.” Mammy nắm tay vào thành xoong. Laila nhận ra một vẻ không tự nhiên, gần như là diễn tập, cái cách mà bà nói “Được rồi” và nắm hai bàn tay. Cô sợ sắp sửa có một bài diễn thuyết.
“Đó là chuyện khi còn nhỏ các con chơi đùa bên nhau. Không có gì có hại cả. Như thế thật hay. Nhưng bây giờ. Bây giờ. Mẹ thấy là con đã mặc áo ngực rồi Laila.”
Laila bị bắt quả tang.
“Và dù sao con cũng nên nói cho mẹ biết, về cái áo ngực ấy. Mẹ đã không biết. Mẹ thất vọng vì con đã không nói với mẹ.” Nhận thấy mình đang có ưu thế, Mammy gia tăng sức ép. “Dù sao, chuyện này cũng không phải về mẹ hay về cái coóc-xê. Nó là về con và Tariq. Nó là con trai, con thấy đấy, và như thế, sao nó phải quan tâm tới chuyện danh tiếng? Nhưng đối với con? Danh tiếng của một cô gái, đặc biệt là một cô gái xinh đẹp như con, là một thứ rất mỏng manh, Laila ạ. Giống như một con chim yểng ở trong tay con. Lỏng tay buông thì nó sẽ bay đi mất.”
“Thế còn tất cả những trò trèo tường, lẻn trốn trong vườn với Babi của Mammy thì sao?” Laila hỏi lại, sung sướng với sự phản đòn mau chóng của mình.
“Bọn ta là anh em. Và chúng ta đã cưới nhau. Còn cậu đó đã cầu hôn con chưa?”
“Cậu ấy là một người bạn. Một rafiq. Chuyện của chúng con không phải thế,” Laila nói giọng biện hộ và không mấy thuyết phục. “Cậu ấy giống như một người anh trai của con,” cô bé thêm vào một cách sai lầm. Và cô biết mình đã sai, thậm chí trước cả khi mặt Mammy tối sầm lại.
“Cậu ta không phải thế,” Mammy nói thẳng thừng. “Con không được so sánh thằng bé một chân con ông thợ mộc đó với các anh của con. Không có ai như các anh của con cả.”
“Con không nói rằng cậu ấy... Đó không phải là điều con định nói.”
Mammy thở dài và nghiến chặt hàm răng.
“Dù sao,” bà lại tiếp tục, nhưng lần này không với vẻ ý tứ như một phút trước đây, “điều mẹ muốn nói là nếu con không cẩn thận thì người ta sẽ bàn tán đấy.”
Laila mở miệng định nói. Không phải là Mammy không có lý. Laila biết rằng những ngày ngây thơ, hồn nhiên được tự do trên đường phố với Tariq đã qua đi. Bây giờ thỉnh thoảng Laila đã bắt đầu cảm thấy sự khác lạ khi hai đứa đi cùng nhau tới chỗ đông người. Cái cảm giác bị người ta nhìn ngó, soi mói và thì thầm với nhau mà Laila chưa từng cảm thấy trước kia. Và có một điều cốt yếu mà thậm chí đến lúc này cô vẫn chưa nghĩ tới: Cô đã phải lòng Tariq. Một cách khôn cưỡng và tuyệt vọng. Khi anh ở gần, cô không thể gạt đi được những ý nghĩ đáng hổ thẹn về tấm thân gầy, không quần áo của anh quấn lấy thân cô. Buổi tối, nằm trên giường, cô tưởng tượng cảnh anh đang hôn lên bụng mình, tự hỏi mình về sự mềm mại của đôi môi anh, về cảm giác của đôi tay anh trên cổ, trên ngực, trên lưng mình và thấp hơn nữa. Khi nghĩ về Tariq theo cách đó, cô thấy thật tội lỗi, nhưng cũng có những cảm giác kỳ lạ và ấm áp lan tỏa từ bụng cô lên trên, cho tới khi mặt cô ửng hồng.
Không. Mammy có lý. Thực ra, có lẽ còn có lý hơn cô biết. Laila ngờ rằng, đã có vài người, nếu không phải là hầu hết hàng xóm đã tán chuyện về cô và Tariq. Laila đã nhận ra những cái cười ranh mãnh, đã để ý thấy những lời thì thào của hàng xóm gọi họ là một đôi. Chăng hạn, một ngày nọ, khi cô và Tariq đang đi cùng nhau trên đường phố thì tình cờ gặp Rasheed, người thợ đóng giày, với cô vợ mặc burqa của ông ta, Mariam. Khi đi ngang qua hai người, Rasheed nói đầy châm chọc, “Chẳng phải đó là Laili và Majnoon sao,” ý bóng gió tới đôi tình nhân bất hạnh trong một bài thơ tình nổi tiếng của Nezami ở thế kỷ mười hai - một phiên bản tiếng Farsi của Romeo và Juliet, Babi đã nói như vậy, dù ông thêm vào rằng Nezami đã viết câu chuyện về đôi tình nhân bất hạnh này trước cả bốn thế kỷ so với Shakespeare.
Mammy có lý.
Điều giày vò Laila là Mammy không có quyền để nói thế. Nếu Babi là người đưa ra vấn đề thì lại là chuyện khác. Nhưng còn Mammy? Tất cả những năm tháng tách biệt, tự giam mình đó của bà, chẳng hề quan tâm Laila đi đâu, gặp ai và suy nghĩ gì... Thật không công bằng. Laila cảm thấy như thể cô chẳng hơn gì những thứ xoong chảo đó, những thứ người ta có thể lờ đi, rồi lại quay lại khẳng định chủ quyền một khi có hứng thú.
Nhưng ngày hôm đó là một ngày tuyệt vời, một ngày quan trọng đối với tất cả bọn họ. Không nên để cho những cái nhỏ nhặt làm hỏng nó. Với suy nghĩ đó, Laila để cho nó qua đi.
“Con hiểu ý mẹ,” cô nói.
“Tốt!” Mammy nói. “Thế là mọi việc đã được giải quyết. Bầy giờ thì xem Hakim ở đâu nhỉ? Ở đâu, ôi, ông chồng bé nhỏ đáng yêu của tôi ở đâu?”
Đó là một ngày nắng rực rỡ, bầu trời không một gợn mây, thật là một ngày tuyệt hảo cho tiệc tùng. Cánh đàn ông ngồi trên những chiếc ghế xếp ọp ẹp ở trong sân. Họ uống chè, hút thuốc và chuyện trò tếu táo ầm ĩ về kế hoạch của lực lượng Chiến binh Hồi giáo. Laila đã được nghe Babi nói sơ sơ về cái kế hoạch đó: Afghanistan giờ đây được gọi là Nhà nước Hồi giáo Afghanistan. Một Hội đồng Thánh chiến Hồi giáo được thành lập ở Peshawar bởi một vài nhóm Chiến binh Hồi giáo và nằm dưới sự lãnh đạo của Sibghatullah Mojadidi sẽ quán xuyến mọi việc trong vòng hai tháng. Sau đó nó sẽ được tiếp tục bởi một hội đồng lãnh đạo do Rabbani đứng đầu, người sẽ tiếp quản vị trí này trong vòng bốn tháng. Trong sáu tháng đó, một loya jirga* sẽ được thành lập, một hội đồng lớn bao gồm những nhà lãnh đạo và những người lớn tuổi, họ sẽ hình thành một chính phủ lâm thời và nắm giữ quyền lực trong vòng hai năm, hướng tới tuyển cử dân chủ.
Hội đồng Hồi giáo.
Một người đàn ông đang quạt những xiên thịt cừu xèo xèo trên một cái lò nướng tạm. Babi và bố của Tariq đang chơi cờ dưới bóng mát một cây lê già. Gương mặt họ đầy vẻ tập trung. Tariq cũng ngồi ở bàn cờ, xem ván cờ rồi sau đấy lắng nghe những bàn tán về chính trị từ bàn bên cạnh.
Cánh đàn bà tụ tập ở phòng khách, ở hành lang và ở trong bếp. Họ vừa bế con vừa tán chuyện, vừa lắc hông một cách tài tình né tránh bọn trẻ con đang lùa nhau chạy huỳnh huỵch xung quanh nhà. Một bài ghazal của Ustad Sarahang đang phát ra om sòm từ đài cát xét.
Laila ở trong bếp, đang cùng với Giti làm một bình dogh*. Giti không còn hay xấu hổ hoặc nghiêm trọng như trước nữa. Khoảng một vài tháng trở lại đây, vẻ cau có thường trực đã biến mất trên trán cô bạn. Dạo này cô cười thoải mái và thường xuyên hơn và Laila thấy ở đó có một vẻ gì lả lơi. Cô cũng đã vứt bỏ cái đuôi ngựa tẻ nhạt, để tóc dài ra và thêm vào mấy dải tóc màu đỏ. Laila cuối cùng cũng biết được rằng động lực thúc đẩy những thay đổi đó là một chàng trai mười tám tuổi, Giti đã phát hiện ra anh ta đang để ý mình. Tên anh ta là Sabir, thủ môn trong đội bóng đá của anh trai Giti.
Sữa chua uống.
“Ôi, anh ấy có điệu cười đẹp lắm, và mái tóc đen dày, dày chừng này!” Giti khoe với Laila. Tất nhiên là không ai biết họ để ý đến nhau. Giti đã bí mật gặp chàng trai hai lần để uống trà, mỗi lần mười lăm phút, ở một quán trà nhỏ nằm ở Taimani, đầu kia thành phố.
“Anh ấy sẽ cầu hôn tớ, Laila ạ! Sớm thì có thể vào ngay mùa hè này. Cậu có tin không? Tớ thề là tớ không tài nào không nghĩ về anh ấy.”
“Thế còn chuyện học hành thì sao?” Laila hỏi. Giti nghiêng đầu và nhìn cô một cái nhìn kiểu như Chúng ta đều biết mà.
Hasina vẫn thường nói, Khi chúng ta hai mươi tuổi, Giti và tớ, mỗi đứa bọn tớ đã cho ra lò bốn, năm đứa trẻ con rồi. Nhưng cậu, Laila ạ, cậu sẽ làm cho hai đứa ngu ngốc chúng tớ tự hào. Cậu sẽ trở thành người có tên tuổi. Tớ biết rằng một ngày nào đấy, tớ sẽ cầm một tờ báo và thấy hình cậu ở trang đầu.
Giti giờ đang đứng bên cạnh Laila và thái dưa chuột, với một vẻ mơ mộng, lãng đãng, xa xôi trên khuôn mặt.
Mammy ở gần đấy, trong bộ váy áo mùa hè rực rỡ, đang bóc trứng luộc với Wajma, bà đỡ của Laila, và mẹ của Tariq.
“Tôi sẽ đến gặp Thủ lĩnh Massoud với tấm hình của Ahmad và Noor,” Mammy nói điều đó với Wajma và bà này gật đầu, cố tỏ ra hứng thú và chân thành.
“Chính ông ấy là người đã coi sóc việc chôn cất. Ông ấy đã cầu nguyện tại mộ của chúng. Đó sẽ là biểu hiện của sự cám ơn cho sự chu tất của ông ấy.” Mammy đập một quả trứng luộc nữa. “Tôi nghe nói ông ấy là một người thấu hiểu, một người cao quý. Tôi nghĩ ông ấy sẽ cảm kích trước hành động này.”
Xung quanh họ, những người phụ nữ liên tục ra vào bếp, mang theo bát đựng qurma, đĩa masiawa, bánh mì và bày tất cả trên tấm sofrah trải ở nền phòng khách.
Thi thoảng, Tariq lại thong thả đi vào. Anh nhặt cái này, cắn cái kia.
“Đàn ông không được phép ở đây,” Giti nói.
“Đi ra, đi ra, đi ra,” Wajma gào lên.
Tariq mỉm cười với những lời đuổi trêu của đám phụ nữ. Dường như anh không để ý gì đến việc mình không được chào mừng ở nơi này, việc anh làm vẩn bầu không khí của đàn bà này với nụ cười nửa miệng và sự bất kính của đàn ông.
Laila cố hết sức để không nhìn anh, không để cho những người đàn bà này có thêm cơ hội buôn chuyện. Bởi thế cô cứ cụp mắt xuống và không nói gì với anh, nhưng cô lại nhớ về một giấc mơ cô đã mơ vài đêm trước, về gương mặt của anh và của cô bên cạnh nhau ở trong gương, dưới một tấm mạng mềm màu xanh. Và những hạt gạo rơi xuống từ tóc anh, nảy trên mặt kính thành từng chuỗi.
Tariq với sang lấy một miếng thịt bê nấu với khoai tây.
“Ho bacha!*” Giti đánh vào mu bàn tay anh. Dù sao Tariq cũng đã lấy được nó và cười lổn.
Này, hư thân!
Bây giờ anh đã cao hơn Laila đến mấy phân. Anh đã cạo râu. Gương mặt anh gầy hơn, có phần góc cạnh hơn. Vai anh nở nang hơn. Tariq thích mặc quần có ly, đi giày đen bóng và mặc áo ngắn tay khoe hai cánh tay nổi lên những cơ bắp mới - quà tặng của những quả tạ gỉ sét mà hằng ngày anh nâng ở trong sân nhà mình. Gương mặt anh gần đây đã có thêm những nét ngỗ ngược vui vẻ. Anh cũng có thêm một chút e dè, cái đầu hơi nghiêng về một bên khi nói chuyện và hàng lông mày nhướng lên mỗi khi cười. Anh để tóc và đã nhiễm thói quen hất mớ tóc bồng bềnh một cách thường xuyên và không cần thiết. Nụ cười nửa miệng cũng là một thú mới nữa.
Lần cuối cùng Tariq bị đuổi ra khỏi bếp, mẹ anh bắt gặp Laila liếc trộm anh. Trái tim Laila nhảy múa trong ngực và đôi mắt cô bối rối vẻ tội lỗi. Cô vội làm mình bận rộn băng việc bỏ dưa chuột đã thái vào trong bình nước có hòa lẫn muối và sữa chua. Nhưng cô có thể cảm thấy mẹ Tariq đang nhìn mình với nụ cười nửa miệng đầy thấu hiểu và hài lòng.
Đám đàn ông lấy thức ăn, đồ uống rồi mang ra ngoài sân ngồi. Sau khi họ đã lấy phần của mình, tới lượt đàn bà và trẻ con ngồi xuống dưới sàn, xung quanh chiếc sofrah và bắt đầu ăn uống.
Rồi sau khi chiếc sofrah đầy ắp đã được xử lý sạch sành sanh, đống đĩa đã được xếp thành chồng ở trong bếp và sau một hồi cứ loạn cả lên để pha trà, nhớ người này uống chè xanh, người kia uống chè đen, Tariq hất đầu ra dấu cho cô và lẻn ra khỏi cửa.
Laila đợi năm phút rồi ra theo.
Cô tìm thấy anh cách đấy ba nhà, đang đứng tựa vào tường ở một ngõ nhỏ giữa hai ngôi nhà. Anh đang hát khe khẽ một bài ca Pashto cũ của Ustad Awal Mir:
Da ze ma ziba watan,
da ze ma dada watan.
Đây là mảnh đất tươi đẹp của chúng ta,
đây là mảnh đất chúng ta yêu quý.
Và anh đang hút thuốc, cũng là một thói quen mới, học được từ mấy anh chàng mà Laila nhìn thấy thường tụ tập cùng anh dạo gần đây. Laila không chịu được họ, những người bạn mới của Tariq. Tất cả bọn họ đều ăn mặc cùng một kiểu, quần gấp ly, áo bó sát làm nổi bật cánh tay và ngực. Cả hội đều dùng quá nhiều nước hoa và ai cũng hút thuốc. Họ đi thành nhóm khệnh khạng khắp nơi, cười đùa ầm ĩ, đôi khi còn gọi trêu các cô gái với cùng một điệu cười nhăn nhở, ngu ngốc và tự mãn trên mặt. Một trong những người bạn của Tariq, thoáng nhìn có nét giống Sylvester Stallone, cứ đòi thiên hạ gọi mình là Rambo.
“Mẹ anh sẽ giết anh nếu bà ấy nhìn thấy anh hút thuốc,” Laila nói, nhìn quanh rồi lẩn vào trong ngõ.
“Nhưng mẹ anh sẽ không thấy,” anh nói. Rồi anh dịch sang một bên để có chỗ cho cô đứng.
“Có thể sẽ khác đấy.”
“Ai sẽ nói nào? Em à?”
Laila nhịp nhịp bàn chân. “Hãy nói bí mật của bạn với gió, nhưng đừng buộc tội gió kể cho cây.”
Tariq mỉm cười, một bên mày nhướng lên. “Ai đã nói thế?”
“Khalil Gibran.”
“Em là người khoe khoang.”
“Cho em một điếu thuốc.”
Anh lắc đầu và khoanh tay trước ngực. Đây cũng là một món mới trong các tiết mục tạo dáng của anh: dựa người vào tường, hai tay khoanh lại, điếu thuốc hờ hững ở khóe miệng, cái chân thật chùng xuống.
“Sao lại không?”
“Không tốt cho em,” anh nói.
“Thế nó tốt cho anh à?”
“Anh làm thế là vì các cô gái.”
“Các cô nào?”
Anh cười điệu. “Bọn con gái thấy như thế rất hấp dẫn.”
“Không phải thế.”
“Không phải ư?”
“Em đảm bảo với anh.”
“Không hấp dẫn á?”
“Anh nhìn như là khila, giống như một thằng ngốc ấy.”
“Đau lòng,” anh nói.
“Nhưng là các cô nào cơ?”
“Em đang ghen.”
“Em tò mò một cách thờ ơ thôi.”
“Em không thể có cả hai thứ ấy cùng một lúc.” Anh rít một hơi nữa và nheo mắt qua làn khói. “Anh cá là mọi người bây giờ đang bàn tán về chúng mình.”
Trong đầu Laila, tiếng Mammy vọng lên. Giống như một con chim yểng trong tay con. Lỏng tay buông thì nó sẽ bay mất. Cảm giác tội lỗi gặm nhấm cô. Rồi Laila dập tắt tiếng của Mammy. Thay vì đó cô nhấm nháp sự dễ chịu với cách Tariq nói từ chúng mình. Lời nói đó mới hồi hộp làm sao, bí ẩn làm sao khi được thốt ra từ anh. Và nghe anh nói như thế, cô cảm thấy thật yên dạ làm sao - thật thân thuộc, thật tự nhiên. Chúng mình. Nó là sự thừa nhận, sự kết tinh mối liên hệ giữa họ.
“Vậy họ nói gì?”
“Rằng chúng mình đang bơi thuyền trên Dòng sông Tội lỗi,” anh nói. “Đang ăn một lát của Chiếc bánh Nghịch đạo.”
“Đang cưỡi trên cỗ xe Đồi bại?” Laila phụ họa.
“Đang làm món Qurma Báng bổ.”
Cả hai cùng cười. Sau đó Tariq nhận xét rằng tóc cô đang dài ra. “Trông rất đẹp,” anh nói.
Laila hy vọng rằng mình đã không đỏ mặt. “Anh chuyển đề tài rồi.”
“Từ cái gì nhỉ?”
“Những cô gái đầu óc trống rỗng nghĩ rằng anh thật hấp dẫn ấy.”
“Anh biết mà.”
“Biết gì?”
“Là em chỉ có tình cảm với anh thôi.”
Laila ngây ngất. Cô nhìn mặt anh cố đoán xem anh đang nghĩ gì, nhưng chỉ gặp một vẻ không thể thấu được: một điệu cười toe toét vừa hớn hở vừa ngu ngốc, cùng một vẻ là lạ với cái nhìn có một chút tuyệt vọng trong mắt anh. Một vẻ thông minh, vừa mang nét khôi hài vừa thể hiện sự chân thành.
Tariq di di điếu thuốc dưới gót cái chân thật. “Thế em nghĩ thế nào về tất cả những điều này?”
“Về bữa tiệc á?”
“Bây giờ thì ai là người ngu ngốc nhỉ? Anh nói về Lực lượng Chiến binh Hồi giáo, Laila ạ. Họ đang tiến vào Kabul.”
“Ồ.”
Khi cô bắt đầu kể cho anh nghe điều Babi đã nói, về những rắc rối giữa súng đạn và bản ngã, thì cô nghe thấy tiếng ầm ĩ từ nhà mình. Những giọng lớn tiếng. Những tiếng gào thét.
Laila vội vã chạy về. Tariq tập tễnh theo sau cô.
Đang có một cuộc loạn đả ở trong sân. Ở giữa sân, hai người đàn ông đang lăn lộn trên mặt đất, miệng gầm gừ, một con dao ở giữa họ. Laila nhận ra một người là người ở bàn kế bên khi nãy nói chuyện chính trị. Người còn lại là người đứng quạt lò nướng thịt. Mấy người đàn ông đang cố lôi họ ra. Babi không ở trong số đó. Ông đứng gần bức tường, ở một khoảng cách an toàn cách xa chỗ đánh nhau, cùng với bố của Tariq lúc này đang khóc.
Từ những giọng nói kích động xung quanh, Laila chắp nối những mẩu thông tin rời rạc lại với nhau: ông ngồi nói chuyện chính trị ở bàn, một người Pashtun, đã gọi Ahmad Shah Massoud là kẻ phản bội vì đã “thỏa thuận” với người Liên Xô vào những năm 1980. Ông nướng thịt, một người Tajik, coi những lời lẽ đó là một sự xúc phạm và yêu cầu ông kia phải rút lại lời nói. Ông Pashtun không nghe. Ông Tajik nói rằng nếu không nhờ có Massoud thì những chị em gái của ông kia có lẽ bây giờ vẫn còn đang phải “hiến cái ấy” cho lính Xô Viết. Rồi họ xông vào đấm nhau. Một trong hai người đã lôi một con dao ra; mọi người chưa thống nhất được chuyện ai đã là người lôi dao ra.
Laila hoảng sợ khi thấy Tariq cũng xông vào chỗ đánh nhau. Cô thấy một vài người vào can bây giờ cũng đang vung nắm đấm. Cô nghĩ rằng mình đã nhìn thấy một con dao nữa.
Tối đó, Laila nhớ lại cuộc đánh nhau đã kết thúc thế nào, với những người đàn ông ngã nhào lên nhau, giữa những tiếng kêu khóc, la hét và những quả đấm, và ở giữa mớ hỗn độn đó, một Tariq mặt mũi nhăn nhó, đầu tóc rối bời, cái chân giả long ra, đang cố gắng bò ra ngoài.
Mọi thứ thay đổi nhanh đến hoa mắt chóng mặt.
Hội đồng lãnh đạo được thành lập một cách hấp tấp. Họ cử Rabbani làm tổng thống. Những phe cánh khác thì hô hào đòi quyền lực. Massoud kêu gọi hòa bình và sự kiên nhẫn.
Hekmatyar, vốn bị gạt ra rìa, đã nổi điên lên. Những người Hazara, vốn đã luôn bị đàn áp và coi thường trong quá khứ, giờ đây cũng trở nên sôi sục.
Những lời xúc phạm được tuôn ra. Những ngón tay trỏ vào nhau. Những lời buộc tội không chút e dè. Những cuộc hội họp bị ngừng lại một cách giận dữ cùng với những cánh cửa đóng sầm. Cả thành phố nín thở. Trên núi, những băng đạn cũng đã được nạp vào các khẩu AK.
Những chiến binh Hồi giáo vốn được vũ trang đến tận răng, giờ đây khi không còn kẻ thù chung nữa thì lại quay ra coi nhau là kẻ thù.
Cái ngày được dự liệu của Kabul cuối cùng đã tới.
Và khi những quả rocket vãi như mưa xuống Kabul, người ta chạy đi tìm chỗ trú ẩn. Mammy cũng đi trú, thực sự thế. Bà mặc lại bộ đồ đen, chui vào phòng mình, đóng rèm cửa lại và kéo tấm chăn trùm qua đầu.
24
“Đó là tiếng rít,” Laila nói với Tariq, “tiếng rít quỷ quái, tó ghét nó hơn bất cứ thứ gì.”
Tariq gật đầu thấu hiểu.
Ngay lúc tiếng rít vang lên thì cũng chẳng có gì, Laila nghĩ, nhưng chỉ vài giây sau cô đã thấy ảnh hưởng của nó. Cái ngắn ngủi và cái vô hạn của thời gian như treo lơ lửng. Sự không thể biết. Sự chờ đợi. Giống như một bị cáo đang chờ nghe lời tuyên án.
Thường thì chuyện ấy xảy ra vào bữa tối, khi cô và Babi ngồi ở bàn ăn. Khi nó bắt đầu, họ nhướng đầu lên. Họ lắng nghe tiếng rít, thìa dĩa vẫn cầm nguyên trong tay, miệng ngừng nhai. Laila nhìn thấy những gương mặt nửa sáng nửa tối của họ phản chiếu trên khung cửa sổ tối đen như mực, những cái bóng bất động trên tường. Tiếng rít. Rồi sau đấy là tiếng reo, một cách sung sướng ở một nơi nào đó, theo sau là tiếng thở phào và biết rằng thế là họ đã thoát lần này, trong khi ở một nơi nào đó, giữa những tiếng kêu khóc và những cột khói bốc lên, người ta đang bò trên mặt đất, những bàn tay trần đang đào bới điên cuồng, đang lôi ra những phần thân thể nát vụn của một người chị, một đứa em, một đứa cháu.
Nhưng mặt bên kia của sự sống sót là nỗi đau đớn tột cùng khi không biết những người khác ra sao. Sau mỗi tiếng nổ rocket, Laila chạy ra đường phố, lắp bắp cầu nguyện, có thể lần này, có thể lắm, lần này người ta sẽ tìm thấy Tariq bị vùi dưới gạch đá và khói bụi.
Đêm xuống, Laila nằm trên giường nhìn những tia sáng trắng bất chợt phản chiếu vào cửa sổ. Cô lắng nghe tiếng lạch tạch của từng tràng súng tự động và đếm những quả rocket vụt qua trên cao trong khi ngôi nhà rung chuyển và những mảng hồ vữa từ trên trần nhà rơi như mưa xuống người cô. Có đêm, khi ánh sáng từ những quả rocket rực lên đến nỗi có thể soi cho người ta đọc sách thì cô không tài nào ngủ được. Và nếu như có thể ngủ, thì những giấc mơ của Laila luôn ngập đầy lửa và tay, chân bị cắt rời cùng với tiếng kêu rên của người bị thương.
Bình minh đến cũng chẳng mang lại sự nhẹ nhõm. Tiếng gọi cầu kinh namaz vang lên và các chiến binh Hồi giáo buông súng, mặt hướng về phía Tây cầu nguyện. Sau đó, những chiếc thảm cầu nguyện được gấp lại, súng lại được nạp đạn, những ngọn núi lại khai hỏa vào Kabul và Kabul bắn trả những ngọn núi, trong khi Laila và phần còn lại của thành phố dõi theo một cách tuyệt vọng như khi ông già Santiago đang nhìn lũ cá mập rỉa hết con cá khổng lồ của ông.
Đi đến đâu, Laila cũng thấy người của Massoud. Cô nhìn thấy họ đi lại trên phố và cứ khoảng vài trăm mét lại chặn vài chiếc xe để hỏi giấy tờ. Họ ngồi hút thuốc trên nóc xe tăng, mặc quần áo dã chiến và những chiếc pakol giờ đây ở đâu cũng có. Họ kín đáo quan sát người qua đường từ phía sau những ụ bao cát ở các giao lộ.
Laila không còn thường xuyên nữa ra ngoài. Và, nếu như có ra ngoài, cô luôn có Tariq đi cùng, có vẻ như anh rất hứng thú với nhiệm vụ của một hiệp sĩ này.
Một hôm anh nói, “Anh đã mua một khẩu súng”. Khi đó họ đang ngồi dưới gốc cây lê trong vườn nhà Laila. Anh chìa cho cô xem. Anh nói rằng nó là một khẩu Beretta bán tự động. Laila chỉ nhìn thấy nó là một khối đen sì và chết chóc.
“Em không thích nó,” cô nói. “Súng đạn làm em sợ.”
Tariq giở tờ tạp chí đang cầm trên tay.
“Tuần trước, người ta đã tìm thấy ba xác người trong một căn nhà ở Karteh-Seh,” anh nói. “Em có nghe thấy chuyện đó chưa? Ba chị em gái. Tất cả đều bị hãm hiếp. Bị cắt cổ. Kẻ nào đó đã cắn những chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay họ. Có thể thấy như thế vì còn có những vết răng ở đó...”
“Em không muốn nghe chuyện này nữa.”
“Anh không muốn làm em lo lắng,” Tariq nói. “Nhưng anh thấy... tốt hơn anh nên mang theo cái này.”
Bây giờ anh là sứ giả của cô ngoài đường phố. Anh nghe những lời bàn tán rồi nói lại với cô. Chẳng hạn như chính Tariq đã nói với cô chuyện những người có vũ trang đồn trú trên một dãy núi rèn luyện khả năng xạ kích của mình - và đánh cuộc với nhau - bằng cách bắn vào những người bên dưới, đàn ông, đàn bà, trẻ con, được chọn một cách ngẫu nhiên. Anh cũng kể lại chuyện bọn họ nã rocket vào xe ô tô, nhưng vì một lý do nào đó, bọn họ không bắn vào những chiếc taxi, điều đó lý giải cho Laila việc tại sao gần đây đột nhiên bao nhiêu người cứ cầu cho chiếc xe của mình biến thành màu vàng.
Tariq giải thích cho cô sự thay đổi, sự dịch chuyển của các đường biên giới trong lòng Kabul. Laila đã biết được những điều này từ anh, chẳng hạn đường phố này, kể từ cái cây keo thứ hai bên phía trái, thuộc về một tư lệnh; còn bốn khu nhà tiếp theo, kết thúc chỗ cửa hàng bánh kẹo gần chỗ cái hiệu thuốc đã bị phá hủy là khu vực của một tư lệnh khác, và nếu như vượt qua đường phố đó đi nửa dặm về phía Tây, cô sẽ thấy mình lọt vào lãnh địa của một tư lệnh khác nữa, và bởi thế cô sẽ thành mồi cho các tay bắn tỉa. Đó là cách giờ đây người ta gọi các anh hùng của Mammy. Tư lệnh. Laila còn nghe thấy họ được gọi là tofangdar. Những tay súng. Cũng có nhiều người vẫn gọi họ là chiến binh Hồi giáo, các chiến binh Hồi giáo, nhưng kèm theo một điệu bộ, một vẻ mặt nhạo báng, khó chịu, và lời đó tỏa ra sự ác cảm và khinh bỉ sâu sắc. Như một câu chửi.
Tariq đặt lại tờ báo lên trên khẩu súng.
“Anh có mang nó theo người không?” Laila hỏi.
“Để làm gì?”
“Để sử dụng nó. Để giết chóc.”
Tariq nhét khẩu súng vào trong cạp quần. Anh nói một câu vừa đáng yêu vừa đáng sợ. “Vì em,” anh nói. “Anh có thể dùng nó để giết người vì em, Laila ạ.”
Anh dịch lại gần cô hơn và bàn tay họ chạm nhẹ vào nhau, một lần, rồi lại lần nữa. Khi những ngón tay của Tariq ngập ngừng chạm vào ngón tay cô, Laila để mặc cho anh làm. Và rồi đột nhiên anh nghiêng qua và ấn môi mình vào môi cô, cô cũng lại để mặc cho anh làm.
Vào khoảnh khắc đó, tất cả những lời Mammy nói về danh dự và những con chim yểng trở thành vô nghĩa đối với Laila. Thậm chí còn ngớ ngẩn nữa. Giữa tất cả những sự giết chóc và cướp bóc, giữa tất cả những thứ xấu xa này, chẳng có chút tội lỗi gì khi ngồi nơi đây, dưới một gốc cây và hôn Tariq. Một chuyện nhỏ. Một niềm đam mê có thể tha thứ được. Bởi thế cô để cho anh hôn cô, và khi anh rời ra thì cô nghiêng người sang và hôn anh, tim đập thình thịch, mặt râm ran như kiến bò, bụng nóng bừng như lửa cháy.
Vào tháng Sáu năm đó, năm 1992, có một trận đánh lớn ở phía Tây Kabul giữa lực lượng những người Pashtun của quân Sayyaf và những người Haraza của quân Wahdat. Đạn pháo quật ngã đường dây điện, nghiền nát những dãy cửa hàng và nhà cửa. Laila nghe nói những người Pashtun có vũ trang đang tấn công nhà cửa của người Hazara, vào nhà và bắn giết toàn bộ gia đình theo kiểu xử tử, còn người Hazara trả đũa bằng cách bắt cóc những thường dân Pashtun, hãm hiếp các cô gái Pashtun, vãi đạn vào các khu dân cư và giết chóc một cách bừa bãi. Ngày nào người ta cũng phát hiện ra những thân người bị trói vào cây, đôi khi bị thiêu cháy đến mức không thể nhận ra. Họ thường bị bắn vào đầu, hai mắt bị móc và lưỡi bị cắt.
Babi lại một lần nữa cố gắng thuyết phục Mammy rời khỏi Kabul.
“Họ sẽ giải quyết chuyện này ổn thôi,” Mammy đáp. “Đánh đấm này chỉ là tạm thời. Họ sẽ ngồi xuống, cùng nhau tìm ra giải pháp.”
“Fariba, tất cả những gì mà những người đó biết là chiến tranh,” Babi nói. “Những kẻ đã tập đi với một bình sữa ở tay này còn khẩu súng ở tay kia.”
“Ông là ai mà nói vậy?” Mammy phản pháo. “Ông có chiến đấu cho cuộc thánh chiến không? Ông có từ bỏ tất cả những gì mình có và mạo hiểm cuộc sống của mình không? Nếu không nhờ Chiến binh Hồi giáo thì bây giờ chúng ta vẫn còn là đày tớ của bọn Liên Xô, ông nhớ chứ? Thế mà bây giờ ông muốn chúng ta phản bội họ!”
“Chúng ta không phải là kẻ phản bội, Fariba.”
“Vậy thì ông đi đi. Đưa con gái của ông chạy cho xa. Gửi bưu thiếp cho tôi nhé. Nhưng hòa bình sắp đến rồi, và tôi, tôi sẽ chờ nó đến.”
Đường phố trở nên quá nguy hiểm đến nỗi Babi đã quyết định một điều không thể tưởng tượng nổi: Ông bắt Laila nghỉ học.
Rồi tự ông nhận lấy trách nhiệm dạy dỗ cô. Laila vào phòng làm việc của ông mỗi ngày sau khi mặt trời lặn, cũng là khi Hekmatyar bắn rocket vào Massoud từ ngoại ô phía Nam thành phố. Babi và cô cùng bàn luận về những bài ghazal của Hafez và những tác phẩm của nhà thơ người Afghanistan được yêu thích Ustad Khalilullah Khalili. Babi dạy cô cách giải phương trình bậc hai, chỉ cho cô cách khai triển đa thức và vẽ đồ thị hàm số. Khi giảng bài, Babi trở thành một người khác. Giữa những nguyên lý, những quyển sách của ông, Laila thấy ông cao lớn hơn hẳn. Giọng ông như vọng từ một nơi tĩnh lặng hơn, sâu thẳm hơn, và ông không chớp mắt nhiều như thường lệ. Laila tưởng tượng ra hình ảnh ông, như có thời ông hẳn đã như thế, đang xóa chiếc bảng đen một cách duyên dáng, nhìn khắp lượt học trò với cái nhìn nhân ái và ân cần.
Nhưng cũng không dễ tập trung. Laila vẫn bị xao lãng.
“Tính diện tích của hình chóp như thế nào?” Babi hỏi và tất cả những gì Laila có thể nghĩ đến là sự đầy đặn của đôi môi Tariq, hơi nóng của hơi thở anh trên miệng mình và hình ảnh cô phản chiếu trong đôi mắt màu lục nhạt của anh. Cô đã hôn anh hai lần nữa kể từ sau lần họ hôn nhau dưới gốc cây, lâu hơn, đam mê hơn, và cô nghĩ rằng đỡ vụng về hơn. Cả hai lần đó cô bí mật gặp anh ở cái ngõ tối, nơi anh đứng hút thuốc trong ngày Mammy tổ chức bữa tiệc. Vào lần thứ hai, cô để cho anh sờ vào ngực mình.
“Laila?”
“Dạ, Babi.”
“Hình chóp. Diện tích. Con đang mơ màng ở đâu thế?”
“Con xin lỗi, Babi. Con đang, à... Xem nào. Hình chóp. Hình chóp. Một phần ba diện tích mặt đáy nhân với chiều cao.”
Babi ngập ngừng gật đầu, nhìn cô một lúc lâu, còn Laila lại nghĩ về đôi tay của Tariq đang nắn bóp hai bầu ngực rồi trượt xuống chỗ thắt lưng của cô khi hai người đang ngấu nghiến hôn nhau.
Vào một ngày cũng tháng Sáu đó, Giti trên đường về nhà cùng hai người bạn cùng lớp. Chỉ còn ba chỗ rẽ nữa là tới nhà Giti thì một viên rocket lạc đã rơi trúng chỗ các cô gái. Buổi chiều muộn của cái ngày tồi tệ ấy, Laila được biết rằng Nila, mẹ của Giti, đã chạy lên chạy xuống con phố nơi Giti bị giết chết, thu nhặt những mảnh da thịt con mình vào trong một tấm tạp dề, gào thét một cách cuồng loạn. Bàn chân phải đang phân hủy của Giti, vẫn còn ở trong tất ni lông và chiếc giày màu tím, mãi hai tuần sau đó mới tìm thấy trên nóc một ngôi nhà.
Tại lễ fatiha của Giti, sau ngày cô bị giết, Laila ngồi chết lặng trong một căn phòng đầy những người phụ nữ đang khóc lóc. Đây là lần đầu tiên một người Laila đã biết, đã ở gần, đã yêu quý chết đi. Cô không thể trốn tránh sự thật vô cùng khắc nghiệt rằng Giti đã không còn sống nữa. Giti, người Laila đã trao đổi những tờ giấy bí mật trong lớp, người cô đã sơn móng tay cho, người cô đã dùng nhíp nhổ cho những sợi lông ở cằm. Giti, người chuẩn bị cưới anh chàng thủ môn Sabir. Giti đã chết. Chết. Thân thể nát tan ra từng mảnh. Cuối cùng, Laila bắt đầu khóc cho người bạn của mình. Và tất cả những giọt nước mắt cô đã không thể khóc ở lễ tang các anh trai mình giờ tuôn trào.
25
Laila hầu như không cử động được, như thể xi măng đã đóng cứng tất cả các khớp xương của cô. Cuộc đối thoại vẫn đang tiếp tục và Laila biết rằng mình đang ở một đầu của nó, nhưng cô cảm thấy tách rời khỏi nó, như thể cô chỉ là người nghe trộm. Trong khi Tariq nói, Laila tưởng tượng cuộc đời mình như một cái dây thừng bị ruỗng, đang đứt rời ra, xổ từng sợi, tách khỏi nhau và rơi xuống.
Đó là một buổi chiều nóng nực, oi bức của tháng Tám năm 1992, và hai người đang ở trong phòng khách nhà Laila. Mammy đã bị đau bụng cả ngày, và vài phút trước đây, bất chấp rocket của Hekmatyar đang bắn vào từ phía Nam, Babi đã đưa bà tới gặp bác sĩ. Bây giờ, Tariq đang ở đây, ngồi bên cạnh Laila trên trường kỷ, mắt nhìn xuống đất, hai tay kẹp giữa hai đầu gối.
Anh đang nói rằng anh sẽ rời đi.
Không phải khu này. Không phải Kabul. Mà là đi hẳn khỏi Afghanistan.
Rời đi.
Mắt Laila như bị lòa đi.
“Đi đâu? Anh sẽ đi đâu?”
“Đầu tiên là Pakistan. Peshawar. Sau đấy thì anh không biết. Có thể là Ấn Độ. Iran.”
“Bao lâu?”
“Anh không biết.”
“Ý em hỏi là anh đã biết chuyện này từ bao lâu?”
“Một vài ngày. Anh định nói với em, Laila ạ, anh thề đấy, nhưng anh không thể làm việc đó. Anh biết em sẽ buồn thế nào.”
“Khi nào?”
“Ngày mai.”
“Ngày mai?”
“Laila. Nhìn anh này.”
“Ngày mai.”
“Đó là vì bố anh. Tim ông ấy không thể chịu đựng thêm nữa, tất cả những chuyện đánh nhau và giết chóc này.”
Laila vùi mặt vào hai bàn tay, nỗi sợ hãi dâng đầy trong ngực.
Cô nghĩ lẽ ra cô phải lường trước điều này. Hau hết những người cô biết đã thu vén đồ đạc và rời đi. Những người trong khu đã đi cả, chỉ còn sót lại vài gương mặt quen thuộc, và bây giờ, chỉ sau bốn tháng nổ ra cuộc chiến giữa các phe cánh Chiến binh Hồi giáo, Laila hầu như không còn nhận ra ai trên phố nữa. Gia đình Hasina đã di tản sang Tehran từ tháng Năm. Wajma và gia đình bà đã tới Islamabad cùng tháng đó. Bố mẹ Giti và các chị em của cô rời đi từ tháng Sáu, không lâu sau khi Giti bị giết chết. Laila không biết họ đã đi đâu - cô nghe đồn rằng họ tới Mashad ở Iran. Sau khi mọi người rời đi, nhà cửa của họ để trống trong một vài ngày, sau đó thì hoặc là quân đội tới chiếm, hoặc là người lạ chuyển vào.
Tất cả mọi người đều ra đi. Và bây giờ cả Tariq nữa.
“Mẹ anh cũng đã không còn trẻ nữa,” anh nói. “Họ luôn rất sợ hãi. Laila, nhìn anh này.”
“Anh nên nói cho em biết.”
“Nhìn anh đi.”
Laila bật ra một tiếng rên. Rồi òa khóc. Và rồi, khi cô đang khóc, khi anh dịch lại lấy ngón tay cái lau nước mắt trên má cô thì cô hất tay anh ra. Như thế thật ích kỷ và vô lý, nhưng cô giận dữ vì anh đang rời bỏ cô, Tariq, người cô coi như một phần thân thể mình, người mà hình bóng luôn theo cô trong từng dòng ký ức. Làm sao anh có thể rời xa cô? Cô tát anh. Rồi cô lại tát anh lần nữa và kéo tóc anh, anh phải nắm lấy cổ tay cô và nói điều gì mà cô không nghe ra, anh nói nhẹ nhàng, vừa phải, và không hiểu bằng cách nào đó, trán họ sát vào nhau, mũi kề vào mũi, và cô lại có thể cảm thấy hơi thở nóng hổi của anh ở trên môi mình.
Và rồi, đột nhiên, anh ngả người, và cô cũng thế.
Trong những ngày và những tuần tiếp theo, Laila điên cuồng nhặt nhạnh tất cả để lưu giữ trong trí nhớ, những gì xảy ra tiếp theo. Giống như người yêu nghệ thuật chạy ra khỏi một bảo tàng đang cháy, cô vồ lấy bất cứ thứ gì có thể - một cái nhìn, một tiếng thì thầm, một tiếng kêu rên - để cứu vãn từ cái tàn lụi, để giữ gìn. Nhưng thời gian là một ngọn lửa tàn nhẫn, và cuối cùng cô đã không thể cứu được tất cả mọi thứ. Nhưng giờ đây, cô vẫn còn thứ này: đó là sự đau nhói vô cùng đầu tiên ở phía dưới. Ánh nắng chiếu xiên trên thảm. Gót chân cô sượt qua phần kim loại lạnh giá ở cái chân giả của anh, lúc này được tháo ra một cách hấp tấp để bên cạnh họ. Hai bàn tay cô đỡ lấy khuỷu tay anh. Cái bớt hình chiếc đàn mandolin lộn ngược bên dưới xương đòn của anh ửng đỏ. Khuôn mặt của anh lượn phía trên mặt cô. Những lọn tóc đen của anh rủ xuống cù vào môi cô, cằm cô. Sự lo sợ rằng họ sẽ bị phát hiện. Cảm giác không tin nổi trước sự liều lĩnh, dũng khí của họ. Sự lạ lẫm và sự sung sướng không sao tả xiết. Tất cả quyện vào với cơn đau. Và cái nhìn, vô số cái nhìn của Tariq: của sự e sợ, sự âu yếm, sự hối lỗi, sự ngượng ngập, nhưng nhiều hơn tất cả, hơn tất cả, là của sự thèm khát.
Sau đó là sự điên cuồng. Những chiếc cúc áo được gài lại, thắt lưng được siết lại, tóc được vuốt lại. Sau đó họ ngồi dậy, họ ngồi cạnh nhau, ngửi mùi của nhau, những khuôn mặt ửng hồng, cả hai cùng ngây ngất, cả hai cùng không nói nên lời trước cái điều tội lỗi vừa mới diễn ra. Điều họ vừa làm.
Laila nhìn thấy ba giọt máu ở trên thảm, máu của cô, và nghĩ tới cảnh bố mẹ mình ngồi trên đi văng sau đó, không biết gì về tội lỗi cô đã phạm phải. Sự xấu hổ ùa tới, cả cảm giác tội lỗi, còn trên tầng, tiếng kim đồng hồ tích tắc to đến phi lý vang trong tai Laila. Chúng như tiếng búa của quan tòa gõ đi gõ lại, kết tội cô.
Rồi Tariq nói, “Đi với anh.”
Trong một thoáng, Laila hầu như đã nghĩ rằng mọi việc có thể được thu xếp. Cô, Tariq và bố mẹ anh sẽ cùng ra đi. Đóng gói hành lý của họ, trèo lên một chiếc xe bus, bỏ lại sau lưng tất cả những thứ bạo lực này, ra đi để tìm kiếm hạnh phúc, hay là những rắc rối, và dù bất cứ thứ gì có tới thì họ sẽ đối mặt cùng nhau. Sự xa cách hoang vắng, nỗi cô đơn khủng khiếp đang chờ đợi cô, cô không đáng phải chịu như thế.
Cô có thể đi. Họ có thể ra đi cùng nhau.
Họ sẽ có thêm nhiều buổi chiều như thế này.
“Anh muốn cưới em, Laila.”
Lần đầu tiên kể từ khi họ nằm dưới sàn, cô hướng đôi mắt lên nhìn vào mắt anh. Cô nhìn khắp gương mặt anh. Ở đó bây giờ đã không còn niềm vui thích. Cái nhìn của anh đầy vẻ đoan chắc, vẻ chân thật và sự nghiêm chỉnh sắt đá.
“Tariq...”
“Hãy cho phép anh cưới em, Laila. Ngày hôm nay. Chúng mình có thể cưới nhau hôm nay.”
Anh bắt đầu nói nhiều hơn, nói về việc nhanh chóng đi tới giáo đường, tìm một vị giáo sĩ, hai người làm chứng, một nikka chóng vánh...
Nhưng Laila đang nghĩ về Mammy, ngoan cố và không nhượng bộ y như những chiến binh Hồi giáo, bầu không khí xung quanh bà ngập đầy thù hằn và tuyệt vọng, và cô cũng nghĩ đến Babi, người từ lâu đã đầu hàng, người bị biến thành một đối thủ ủ ê đáng thương của Mammy.
Có những lúc... bố cảm thấy con là tất cả những gì bố có, Laila ạ.
Đó là cuộc đời cô, những sự thật không thể né tránh được.
“Anh sẽ tới xin phép Kaka Hakim được cưới em. Bố em sẽ ban phước cho chúng ta, Laila à, anh biết điều đó.”
Anh nói đúng. Babi sẽ làm thế. Nhưng điều đó sẽ làm ông quỵ ngã.
Tariq vẫn đang nói, giọng anh trầm rồi lại bổng, lúc van nài, khi nói lý; mặt anh đầy hy vọng, rồi lại buồn khố.
“Em không thể,” Laila nói.
“Đừng nói vậy. Anh yêu em.”
“Em xin lỗi...”
“Anh yêu em.”
Cô đã chờ đợi những lời này từ anh bao lâu rồi? Đã bao nhiêu lần cô mơ thấy chúng được thốt ra? Đây, cuối cùng thì cô cũng nghe thấy chúng, và sự ngang trái bóp nghẹt cô.
“Vì bố em, em không thể ra đi,” Laila nói. “Em là tất cả những gì còn lại của ông. Trái tim ông cũng sẽ không chịu đựng nổi.”
Tariq biết điều đó. Anh hiểu rằng cô không thể rũ bỏ bổn phận cuộc đời mình cũng như anh không thể rũ bỏ bổn phận của chính anh, nhưng mọi thứ vẫn tiếp tục như thế, những lời anh biện hộ và những lời cô bác bỏ, những lời anh cầu hôn và những lời cô xin lỗi, nước mắt của anh và nước mắt của cô.
Cuối cùng, Laila đành phải bắt anh về.
Ở cửa, cô bắt anh phải hứa sẽ ra đi mà không nói lời tạm biệt. Cô đóng cửa ngay trước mặt anh. Laila dựa lưng vào cánh cửa, người rung lên khi anh đấm tay vào đó, một tay cô ôm lấy bụng mình còn một tay ôm miệng khi anh nói qua cửa rằng anh hứa anh sẽ trở lại, rằng anh sẽ trở lại vì cô. Cô đứng đó cho tới lúc anh đã mệt, cho tới lúc anh chịu thua và sau đấy cô lắng nghe tiếng những bước chân không đều của anh cho tới khi chúng mất hẳn, cho tới khi tất cả đã yên ắng, nhường chỗ cho những loạt đạn nổ giòn trên những ngọn đồi và từng nhịp đập thình thịch trong bụng cô, trong hai mắt cô, trong xương cốt cô.
26
Hôm đó là ngày nóng nhất trong năm. Những ngọn núi bị thiêu đốt trong cái nóng dội đến tận xương tủy, làm thành phố ngột ngạt như cái lò hơi. Điện đã mất từ nhiều ngày trước. Khắp mọi nơi ở Kabul, những chiếc quạt điện nằm không như thể đang nhạo báng.
Laila nằm bất động trên đi văng phòng khách, mồ hôi thấm ướt áo cô. Mỗi một hơi thở ra lại làm đầu mũi cô nóng bỏng. Cô để ý thấy bố mẹ mình đang nói chuyện ở trong phòng của Mammy. Hai đêm trước đây, rồi lại đêm qua nữa, cô tỉnh dậy và nghĩ rằng mình đã nghe thấy tiếng họ từ dưới tầng. Bây giờ ngày nào họ cũng nói chuyện, liên tục kể từ khi một viên đạn xuyên thủng một lỗ trên cánh cổng.
Ở bên ngoài, những tiếng bùm xa xa của đạn pháo, sau đó, gần hơn là những loạt đạn đì dẹt, loạt này nối tiếp loạt kia.
Bên trong Laila, một trận chiến cũng dang diễn ra, một bên là cảm giác tội lỗi liên minh với sự hổ thẹn, bên kia là sự tin tưởng rằng những gì cô và Tariq đã làm là vô tội; rằng đó là một việc tự nhiên, là điều tốt, đẹp đẽ, thậm chí là không thể tránh khỏi, được hỗ trợ bởi ý nghĩ rằng có thể họ sẽ không bao giờ còn gặp lại nhau.
Laila xoay người trên đi văng và cố nhớ một điều: Vào một lúc nào đó, khi họ đang nằm trên sàn, Tariq đã đặt trán anh xuống trán cô. Rồi anh nói hổn hển một điều gì, như là Anh có làm đau em không? hoặc là Nó có làm em đau không?
Laila không thể xác định được anh đã nói câu nào.
Anh cổ làm đau em không?
Nó có làm em đau không?
Chỉ hai tuần sau khi anh ra đi mà điều này đã diễn ra. Thời gian đang bào mòn những ký ức ấy. Laila buồn bực trong lòng. Anh đã nói gì nhỉ? Đột nhiên cô thấy điều đó rất quan trọng.
Laila nhắm hai mắt. Tập trung tâm trí.
Thời gian trôi qua, rồi cô sẽ dần dần cảm thấy mệt với bài tập này. Cô rồi sẽ thấy ngày càng kiệt sức khi phải gợi nhớ lại, phủi đi lớp bụi mờ, làm tỉnh lại những điều đã chết từ lâu. Thực ra, rồi sẽ đến một ngày nào đó, có thể sau mấy năm, Laila sẽ không còn khóc than cho sự ra đi của anh nữa. Hay sẽ không còn quá quay quắt nữa; không đến như thế. Rồi sẽ tới ngày đường nét khuôn mặt anh tuột khỏi trí nhó của cô, rồi sẽ tới ngày cô không còn bâng khuâng khi chợt nghe một bà mẹ gọi đứa con mình trên phố bằng cái tên Tariq. Cô sẽ không còn nhớ anh như bây giờ, khi nỗi đau đớn vì sự vắng xa anh cứ như kẻ đồng hành đeo đẳng cô mãi - như bóng ma nỗi đau luôn ám ảnh một người cụt chân.
Ngoại trừ lúc này lúc kia, khi Laila đã là một phụ nữ trưởng thành, khi đang là quần áo hay khi đang đẩy xích đu cho lũ con của cô, những điều gì đó rất nhỏ nhặt, có thể là hơi ấm từ tấm thảm dưới chân cô trong một ngày nóng bức hay đường cong trên trán của một người lạ cũng làm bật dậy ký ức về buổi chiều hôm đó. Và nó sẽ ùa về. Sự tự phát đầy hoang dại của bản năng. Sự khinh suất đáng kinh ngạc của họ. Sự vụng về của họ. Sự đau đớn khi họ cùng nhau, khoái lạc của nó và nỗi buồn của nó. Sức nóng từ hai tấm thân đang quấn vào nhau.
Nó sẽ tràn ngập trong cô, làm cô không thở được.
Nhưng rồi nó sẽ qua đi. Khoảnh khắc đó sẽ qua đi. Để lại cô xẹp xuống, không cảm thấy gì nữa ngoài sự bồn chồn mơ hồ.
Cô kết luận rằng lúc ấy anh đã nói Anh có làm đau em không? Đúng. Chính là câu đó. Laila hạnh phúc vì mình đã nhớ ra.
Có tiếng Babi ở hành lang, gọi tên cô từ trên cầu thang, bảo cô lên nhanh.
“Bà ấy đồng ý rồi!” ông nói, giọng run lên vì sự phấn khích đang kìm nén. “Chúng ta sẽ đi, Laila ạ. Cả ba chúng ta. Chúng ta sẽ rời khỏi Kabul.”
Ba người ngồi trên chiếc giường trong phòng của Mammy. Ngoài kia những loạt rocket vẫn đang rít trên bầu trời vì lực lượng của Hekmatyar và Massoud vẫn cứ giao chiến không mệt mỏi. Laila biết rằng ở một nơi nào đó trong thành phố, có người nào đó lại vừa bỏ mạng, và một làn khói đen đang bay lên từ một tòa nhà vừa sụp xuống làm bùng lên bao nhiêu cát bụi. Lại có những xác người phải bước tránh qua vào buổi sáng. Có những cái xác sẽ được thu nhặt. Một số khác thì không. Rồi thì lũ chó của Kabul, giờ đây đã thêm vào khẩu vị của chúng món thịt người, sẽ lại được đánh chén.
Giống như mọi lần, Laila khao khát chạy vòng quanh đường phố. Cô khó mà có thể kìm nén niềm hạnh phúc trong lòng. Cô phải cố gắng để ngồi xuống, để không la hét với niềm phấn khích. Babi nói họ sẽ tới Pakistan trước, để xin visa. Pakistan, nơi Tariq ở đó. Tariq mới chỉ đi được mười bảy ngày, Laila nhẩm tính một cách phấn khích. Giá như Mammy thay đổi ý định mười bảy ngày trước đây thôi thì họ đã có thể ra đi cùng nhau rồi. Cô đã có thể ở cùng với Tariq lúc này! Nhưng điều đó bây giờ cũng không vấn đề gì. Họ sẽ đi tới Peshawar - cô, Mammy và Babi - và họ sẽ tìm thấy Tariq cùng bố mẹ anh ở đó. Chắc chắn họ sẽ tìm thấy. Rồi họ sẽ làm thủ tục giấy tờ cùng nhau. Rồi sau đó, ai mà biết được? Ai mà biết được? Châu Âu chăng? Hay là Mỹ? Có thể thế, vì như Babi đã luôn nói, một nơi nào đó gần biển...
Mammy nửa nằm nửa ngồi tựa vào thành giường. Đôi mắt bà sưng húp. Bà nâng mớ tóc lên.
Ba ngày trước, Laila đi ra ngoài để hít thở. Cô đang đứng ở cổng trước, tựa người vào đó thì nghe có tiếng nổ lớn và có cái gì bay vèo qua tai phải cô, làm cho những mẩu gỗ nhỏ bay qua trước mắt cô. Sau cái chết của Giti, sau hàng ngàn loạt đạn và vô số những quả rocket đã rơi xuống Kabul, giờ đây là một cái lỗ tròn trên cánh cổng, cách nơi Laila tựa vào chưa đầy ba ngón tay, đã làm Mammy thức tỉnh. Nó đã cho bà thấy rằng một cuộc chiến đã lấy đi hai đứa con của bà rồi; cuộc chiến sau cùng này có thể lấy đi nốt đứa còn lại.
Từ trên những bức tường của căn phòng, Ahmad và Noor đang nhìn xuống mỉm cười. Laila nhìn mắt Mammy đang đưa từ bức hình này sang bức hình khác vẻ hối lỗi. Như thể tìm kiếm sự cho phép của họ. Sự ban phước của họ. Như thể bà đang cầu xin sự tha thứ của họ.
“Chẳng còn gì cho chúng ta ở đây nữa cả,” Babi nói. “Các con trai của chúng ta đã mất rồi, nhưng chúng ta vẫn còn Laila. Chúng ta vẫn còn có nhau, Fariba ạ. Chúng ta có thể tạo dựng cuộc sống mới.”
Babi với ngang qua giường. Khi ông nghiêng người nắm tay bà, Mammy để yên. Trên gương mặt bà có vẻ nhượng bộ. Vẻ cam chịu. Họ nắm tay nhau, nhè nhẹ, và rồi ôm nhau đung đưa khe khẽ. Mammy vùi đầu vào cổ ông. Bà nắm chặt áo ông trong tay mình.
Trong nhiều giờ liền tối hôm đó, niềm phấn khích đã cướp mất giấc ngủ của Laila. Cô nằm trên giường ngắm chân trời bừng chói màu cam và màu vàng. Rồi đến một lúc nào đó, mặc cho niềm hồ hởi trong lòng và tiếng đạn pháo nổ ở bên ngoài, cô chìm vào giấc ngủ.
Và mơ.
Họ đang ở bên bờ biển, ngồi trên một chiếc chăn bông. Đó là một ngày lạnh lẽo và u ám, nhưng thật ấm áp khi ngồi cạnh Tariq dưới một tấm chăn trùm qua vai. Cô có thể nhìn thấy những chiếc xe đậu đằng sau một hàng rào gỗ thấp sơn màu trắng bên dưới một hàng dừa đung đưa trong gió. Gió thổi làm cô chảy nước mắt và thả cát lên giày họ, mang những cọng cỏ chết từ đỉnh đụn cát này sang đụn cát khác. Họ ngắm nhìn những chiếc thuyền buồm nhấp nhô ở phía xa xa. Xung quanh họ, những chú hải âu kêu quác quác và rùng mình vì gió. Cơn gió dồn một đợt cát nữa vào những chỗ trũng, những sườn dốc. Có một âm thanh nghe như tiếng cầu kinh, và cô nói với anh điều Babi đã dạy cô nhiều năm trước đây về những cồn cát biết hát.
Anh lau trán cô, phủi những hạt cát trên đó. Cô thấy ánh sáng lấp lánh trên chiếc nhẫn đeo ở ngón tay anh. Nó giống hệt chiếc của cô - làm bằng vàng với những họa tiết cầu kỳ khắc xung quanh.
Thật thế đấy, cô nói với anh. Đó là do ma sát, từng hạt từng hạt cọ vào nhau. Hãy nghe. Anh lắng nghe. Anh cau mày. Họ chờ đợi. Rồi họ lại nghe thấy lần nữa. Một tiếng rên nhỏ khi gió nhẹ, và khi gió thổi mạnh nó trở thành một tiếng thút thít, một dàn hợp xướng nốt cao.
Babi nói rằng họ chỉ nên mang theo những gì thật cần thiết. Những thứ còn lại sẽ bán đi.
“Thế sẽ đủ cho chúng ta ở Peshawar cho đến khi tôi có việc làm.”
Hai ngày tiếp theo, họ thu thập những thứ sẽ mang bán. Họ dồn chúng lại thành những đống lớn.
Trong phòng mình, Laila để riêng áo cánh, giày cũ, sách và đồ chơi. Cô tìm thấy dưới gầm giường một con bò nhỏ bằng pha lê màu vàng mà Hasina đã tặng cô ngày hết lớp Năm. Một dây đeo chìa khóa với một quả bóng nhỏ xíu, đó là quà của Giti. Một con ngựa vằn nhỏ bằng gỗ có bánh xe. Một phi hành gia bằng sứ mà cô và Tariq một hôm đã tìm thấy ở rãnh nước. Lúc đó cô lên sáu còn anh lên tám.
Mammy cũng tập hợp đồ đạc của bà. Cử động của bà có vẻ lưỡng lự và đôi mắt bà có vẻ thờ ơ, xa xăm khi nhìn mọi thứ. Bà bỏ đi những cái đĩa quý của mình, khăn ăn, những thứ trang sức bà dành dụm từ đám cưới và hầu hết quần áo cũ của bà.
“Mẹ không định bán cái này đấy chứ, hả mẹ?” Laila hỏi và nhấc chiếc áo cưới của Mammy lên. Nó mở xòe ra trong tay cô. Cô chạm vào những dây buộc và dải đăng ten dọc theo đường viền cổ áo, những hạt ngọc trai được đính vào ống tay áo.
Mammy nhún vai và lấy nó từ tay cô. Bà lẳng nó một cách cộc cằn vào đống quần áo. Như là lột bỏ một miếng băng dán vết thương vậy, Laila nghĩ thế.
Babi là người có nhiệm vụ nặng nề nhất.
Laila thấy ông đang đứng trong phòng làm việc, vẻ thiểu não hiện trên khuôn mặt khi ông xem xét các giá sách. Ông mặc một chiếc áo phông hàng thùng in hình cây cầu màu đỏ của San Francisco. Lớp sương mù dày đặc tỏa lên từ những con sóng bạc đầu ôm lấy những tháp cầu.
“Con biết câu chuyện này đấy,” ông nói. “Khi ta ở trên một hoang đảo và ta được chọn năm quyển sách. Quyển nào ta sẽ chọn? Bố chưa bao giờ nghĩ rằng mình thực sự phải làm thế này.”
“Chúng ta sẽ bắt đầu một bộ sưu tập mới cho bố, Babi.”
“Hừm.” Ông cười buồn. “Bố không thể tin rằng mình đang rời bỏ Kabul. Bố học ở đây, kiếm được công việc đầu tiên ở đây, trở thành một người bố ở thành phố này. Thật lạ lùng khi nghĩ đến chuyện chẳng bao lâu bố sẽ ngủ dưới một bầu trời thành phố khác.”
“Con cũng thấy khác lạ như thế.”
“Cả ngày nay, bài thơ về Kabul này cứ vang vọng trong đầu bố. Saib-e-Tabrizi đã viết nó vào thế kỷ mười bảy, bố nghĩ thế. Bố biết toàn bộ bài thơ, nhưng bây giờ bố chỉ có thể nhớ được hai dòng:
“Không ai đếm được bao nhiêu mặt trăng tỏa sáng trên những mái ngói của nàng,
Hay ngàn mặt trời rực rỡ trốn sau những bức tường của nàng.”
Laila ngước lên và thấy ông đang khóc. Cô vòng tay ôm lấy hông ông. “Ôi, Babi. Chúng ta sẽ trở lại. Khi cuộc chiến này qua đi. Chúng ta sẽ trở lại Kabul, inshallah. Bố sẽ thấy.”
Buổi sáng ngày thứ ba, Laila bắt đầu chuyển các đống đồ ra sân rồi đặt chúng ở cổng trước. Lát nữa họ sẽ gọi taxi và mang tất cả tới hiệu cầm đồ.
Laila đi đi lại lại giữa nhà và sân, mang theo những chồng quần áo, bát đĩa và hết thùng sách này đến thùng sách khác của Babi. Cô sắp kiệt sức vào buổi trưa, khi đống đồ ở cổng đã cao đến thắt lưng. Nhưng mỗi một lần bê ra, cô lại biết rằng mình lại ở gần Tariq hơn, và mỗi lần bê ra, đôi chân cô càng hoạt bát, đôi tay cô càng không biết mệt mỏi.
“Chúng ta sẽ cần một chiếc taxi lớn.”
Laila nhìn lên. Mammy nói với cô từ phòng ngủ của bà trên tầng. Bà đang ngả người ra cửa sổ, khuỷu tay chống lên bệ cửa. Mặt trời rực rỡ ấm áp chiêu sáng trên tóc bà, chiếu trên khuôn mặt hốc hác, buồn rầu của bà. Mammy mặc chiếc áo dài màu xanh cô ban mà bà đã mặc ngày tổ chức bữa tiệc bốn tháng trước, một bộ áo tươi trẻ dành cho một phụ nữ trẻ, nhưng giờ phút này, Laila thấy bà đã như một bà già. Một bà già với hai cánh tay gầy guộc, hai má hóp lại và đôi mắt lờ đờ được tô viền bằng những vòng tròn tím thẫm của sự mệt mỏi, khác hẳn với người phụ nữ mập mạp, khuôn mặt tròn rạng rỡ trong những bức ảnh cưới đã sần sùi.
“Hai chiếc taxi lớn,” Laila đáp lại.
Cô cũng có thể thấy cả Babi, đang ở trong phòng khách chất những cái hộp lên nhau.
“Lên đây khi nào con xong mấy thứ đó nhé,” Mammy nói. “Chúng ta sẽ ngồi ăn trưa. Có trứng luộc và đậu còn thừa hôm qua.”
“Con thích lắm.” Laila nói.
Cô đột nhiên nghĩ về giấc mơ của mình. Cô và Tariq trên một tấm mền bông. Đại dương. Gió. Những cồn cát.
Chúng nghe như thế nào nhỉ, cô tự hỏi, những cồn cát biết hát ấy?
Laila dừng lại. Cô nhìn thấy một con thằn lằn màu xám bò ra từ một chỗ nứt dưới đất. Cái đầu của nó ngó nghiêng từ bên này sang bên kia. Nó chớp mắt. Lao mình xuống dưới một hòn đá.
Laila tưởng tượng lại bãi biển một lần nữa. Ngoại trừ lần này tiếng hát ở khắp xung quanh. Và lớn dần. To dần và to dần theo từng khoảnh khắc, cao hơn và cao hơn. Nó ngập trong đôi tai cô. Nhấn chìm tất cả mọi thứ khác. Những con hải âu giờ đang rỉa lông, những chiếc mỏ mở ra rồi khép lại không tiếng động, và những con sóng đang xô vào cùng bọt trắng và nước té lên nhưng không còn gầm gào. Cát vẫn tiếp tục hát. Bây giờ đã là gào thét. Một âm thanh giống như... tiếng leng keng?
Không phải tiếng leng keng. Không. Một tiếng rít.
Laila thả rơi những quyển sách xuống chân. Cô nhìn lên trời và lấy một tay che mắt.
Rồi một tiếng gầm khủng khiếp.
Đằng sau cô, một ánh chớp trắng.
Mặt đất tròng trành dưới chân cô.
Cái gì đó nóng và rất mạnh đập vào cô từ phía sau. Nó đánh bay cô ra khỏi đôi xăng đan. Nhấc cô lên. Và bây giờ cô đang bay, đang xoắn và quay trong không khí, nhìn thấy bầu trời, rồi mặt đất, rồi bầu trời, rồi mặt đất. Một khúc gỗ lớn đang cháy vụt qua. Và rồi cả hàng ngàn mảnh kính nữa, và Laila cảm thấy dường như cô có thể nhìn thấy từng mảnh một bay xung quanh cô, chậm chậm lật từ mặt này sang mặt kia, ánh sáng mặt trời chiếu vào từng mặt. Những chiếc cầu vồng nhỏ bé, xinh đẹp.
Rồi người Laila đập vào tường. Rơi xuống đất. Một trận mưa rào đất, sỏi và kính rơi lên mặt và hai cánh tay cô. Điều cuối cùng cô nhận thấy là có một tiếng rơi huỵch gần đấy. Một khúc gì đó ướt đẫm máu. Trên đó, đỉnh của cây cầu màu đỏ chọc ra khỏi màn sương dày.
Những hình dáng đang di chuyển xung quanh. Một ngọn đèn huỳnh quang chiếu sáng từ trên trần nhà. Một khuôn mặt phụ nữ hiện ra, bên trên mặt cô.
Laila lại chìm vào bóng tối.
Một khuôn mặt. Lần này là khuôn mặt đàn ông. Dáng ông ta dường nhu to lớn và ủ rũ. Môi ông ta cử động nhung không thấy tiếng. Tất cả những gì Laila nghe thấy là tiếng o o.
Người đàn ông hoa tay trước mắt cô. Nhăn mặt. Môi ông ta lại động đậy.
Đau. Đau khi thở. Đau khắp nơi.
Một cốc nước. Một viên thuốc màu hồng.
Lại quay về bóng tối.
Lại là người đàn bà. Khuôn mặt dài, cặp mắt hẹp. Bà nói điều gì đó. Laila không thể nghe được gì, chỉ thấy tai ù ù. Nhưng cô có thể nhìn thấy các từ bà nói, như nước xi rô đặc trào ra khỏi miệng bà.
Ngực cô đau. Tay chân cô đau.
Xung quanh, những hình dáng đang di chuyển.
Tariq đâu?
Sao anh không ở đây?
Bóng tối. Một chòm sao.
Babi và cô đang ở đâu đó trên cao. Ông đang trỏ vào một cánh đồng lúa mạch. Một chiếc máy phát điện bắt đầu chạy.
Người đàn bà mặt dài đang đứng nhìn xuống cô.
Đau khi thở.
Ở đâu đó, một chiếc đàn accordion đang tấu lên.
Nhân từ thay, lại một viên màu hồng nữa. Rồi một sự im lặng thật sâu, bao trùm lên tất cả.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ
Khailed Hosseini
Ngàn Mặt Trời Rực Rỡ - Khailed Hosseini
https://isach.info/story.php?story=ngan_mat_troi_ruc_ro__khailed_hosseini