Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Dành Hết Cho Em
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 4
K
hông ai trong hai người họ có thể nhúc nhích hoặc lên tiếng trong khi sự kinh ngạc dần chuyển thành nhận biết. Ý nghĩ đầu tiên của Dawson là trông cô sống động hơn rất nhiều so với ký ức của anh về cô. Mái tóc cô dưới ánh chiều muộn ánh lên như vàng được đánh bóng, và đôi mắt xanh của cô thật long lanh ngay cả khi nhìn từ khoảng cách xa. Nhưng khi tiếp tục thìn chăm chú, anh dần nhận ra những khác biệt nhỏ. Anh để ý thấy khuôn mặt cô đã không còn nét mềm mại của tuổi trẻ. Các góc cạnh trên gò má cô nổi rõ hơn và đôi mắt cô dường như sâu hơn, khóe mắt cô đã có những vết nhăn mờ nhạt. Anh nhận ra rằng năm tháng đã ưu ái cô rất nhiều: kể từ lần cuối anh thấy cô, vẻ đẹp của cô đã trở nên chín chắn và nổi bật hơn.
Amanda cũng cố gắng tiếp nhận những gì cô nhìn thấy. Bên trên cái quần bò, chiếc áo sơ mi màu cát anh mặc được bỏ sơ vin một cách hờ hững, phác ra những đường nét của bờ hông gầy gò và đôi vai rộng của anh. Nụ cười của anh vẫn thế, nhưng mái tóc sẫm của anh dài hơn hồi anh còn thanh niên, và cô chú ý thấy tóc ở thái dương anh đã điểm bạc. Đôi mắt đen của anh vẫn nổi bật như cô từng nhớ, nhưng cô nghĩ rằng mình đã thấy một sự thận trọng mới trong đôi mắt ấy, dấu hiệu của một người đã sống một cuộc sống khó khăn hơn so với mong đợi. Có lẽ đây và kết quả của việc nhìn thấy anh ở nơi này, ở nơi mà họ đã chia sẽ nhiều điều, nhưng cảm xúc ồ ạt khiến cô không thể nghĩ ra điều gì để nói.
“Amanda?” cuối cùng anh cũng lên tiếng, bắt đầu đi về phía cô.
Cô nghe thấy sự ngạc nhiên trong giọng nói của anh khi anh gọi tên cô, và chính điều đó, hơn bất kỳ điều gì khác, cho cô biết được rằng anh có thật. Anh ấy ở đây, cô nghĩ, đúng là anh ấy rồi, và khi anh rút ngắn khoảng cách giữa họ, cô thấy những năm tháng qua dần dần tan biến đi, dù dường như điều đó là không thể. Cuối cùng, khi tới được chỗ cô, anh dang rộng vòng tay và cô sà vào vòng tay ấy theo bản năng, như cô thường làm trước đây. Anh kéo cô lại gần, ôm cô như họ từng làm khi còn yêu nhau, và cô dựa vào anh, đột nhiên cảm thấy mình trở lại tuổi mười tám lần nữa.
“Chào anh, Dawson,” cô thì thầm.
Họ ôm nhau lất lâu, ôm chặt lấy nhau trong ánh mặt trời yếu ớt, và trong một khoảnh khắc anh nghĩ mình cảm thấy cô run rẩy. Cuối cùng, khi họ buông nhau ra, cô có thể cảm nhận được cảm xúc không nói ra của anh.
Cô chăm chú nhìn anh ở khoảng cách gần, ghi nhận những thay đổi mà năm tháng đã tạo ra. Giờ anh đã là một người đàn ông. Gương mặt anh dạn dày sương gió và rám nắng, như khuôn mặt của một người đã dành nhiều giờ dưới ánh mặt trời, và mái tóc của anh chỉ hơi thưa đi một chút.
“Em đang làm gì ở đây?” anh hỏi, chạm vào cánh tay cô như muốn trấn an mình rằng cô là có thật.
Câu hỏi giúp cô định thần lại, nhắc nhở cô về thực tế của cô lúc này, và cô lùi lại một bước nhỏ. “Em ở đây có lẽ là vì cùng một lý do giống anh. Anh vào đây khi nào?”
“Vừa nãy thôi,” anh nói, băn khoăn trước cái thôi thúc đã khiến anh thực hiện chuyến thăm viếng không định trước đến nhà của Tuck. “Anh không thể tin được là em ở đây. Trông em... thật tuyệt.”
“Cảm ơn anh.” Không ngăn được bản thân, cô có thể cảm thấy má mình nóng bừng. “Làm sao mà anh biết em sẽ ở đây?”
“Anh không biết,” anh nói. Có một cái gì đó thôi thúc anh ghé qua đây và anh nhìn thấy chiếc xe đậu trước nhà. Anh đi vòng ra sau và...”
Thấy anh không nói hết câu, Amanda tiếp lời, “Và em ở đây.”
“Phải.” Anh gật đầu, lần đầu tiên nhìn vào mắt cô. “Và em ở đây.”
Cầm xúc mãnh liệt trong ánh mắt anh vẫn không thay đổi, cô bèn lùi thêm một bước về phía sau, hy vọng khoảng cách sẽ khiến mọi chuyện dễ dàng hơn. Hy vọng anh sẽ không hiểu sai. Cô ra hiệu về phía ngôi nhà. “Anh có định ở lại đây không?”
Anh nheo mắt nhìn ngôi nhà trước khi quay lại nhìn cô. “Không, anh đã đặt một phòng tại nhà nghỉ ở trung tâm thị trấn. Còn em?”
“Em định về nhà với mẹ.” Thấy nét mặt dò hỏi của anh, cô giải thích, “Bố em đã qua đời mười một năm trước.”
“Anh rất tiếc,” anh nói.
Cô gật đầu, không nói gì thêm, và anh nhớ rằng, trong quá khứ, đó là cách cô thường đóng lại một chủ đề nói chuyện. Thấy cô liếc về phía gara, Dawson bước một bước về phía đó. “Em có phiền không,” anh hỏi. “Đã nhiều năm anh chưa nhìn qua nơi này.”
“Không, tất nhiên là không,” cô nói. “Anh cứ xem xét đi.”
Cô nhìn anh đi vượt qua và cảm thấy mình thả lỏng vai, không hề biết là vai mình đã căng cứng. Anh ngó vào văn phòng nhỏ lộn xộn, đoạn lướt tay dọc theo bàn thợ và lướt qua một cái kích bẩy lốp bằng thép đã gỉ sét. Đi lang thang chậm rãi, anh nhìn ngắm từ các bức tường ván ép, đến trần nhà có rầm lộ ra, và chiếc thùng thép đặt ở góc nhà - nơi Tuck trút dầu thừa. Một chiếc kích thủy lực và một hòm đồ nghề lắp ráp được xếp dọc theo bức tường phía sau, đằng sau một đống lốp xe. Một máy đánh bóng điện tử và thiết bị hàn choán chỗ đối diện bàn thợ. Một chiếc quạt bụi bặm được dựng ở góc gara gần máy phun sơn, những ngọn đèn thì treo lơ bửng trên dây điện, và các bộ phận nằm rải rác khắp nơi.
“Trông vẫn giống hệt ngày trước,” anh nhận xét.
Theo anh đi sâu hơn vào gara, cô vẫn còn cảm thấy hơi run rẩy, nên cố gắng giữ một khoảng cách đủ rộng giữa họ.
“Có lẽ là trông nó vẫn y như cũ. Bác ấy rất tỉ mỉ về nơi đặt dụng cụ của mình, đặc biệt là vài năm gần đây. Em nghĩ là bác ấy biết mình đang bắt đầu đãng trí.”
“Xét đến tuổi tác, anh không thể tin rằng bác ấy vần còn sửa xe.”
“Bác ấy đã giảm dần công việc rồi. Chỉ sửa chữa một hoặc hai chiếc một năm, và rồi chỉ nhận làm khi biết mình có thể hoàn thành. Bác ấy không nhận đại tu hay đại loại như thế. Đây là chiếc xe đầu tiên mà em nhìn thấy ở đây trong một khoảng thời gian dài.”
“Nghe có vẻ như em đã dành rất nhiều thời gian với bác ấy.”
“Không hẳn thế. Vài tháng một lần hoặc lâu hơn em mới gặp bác ấy. Nhưng trước đây, hai bác cháu đã không liên lạc trong một thời gian dài.”
“Bác ấy chưa bao giờ nhắc đến em trong những lá thư,” Dawson trầm ngâm.
Cô nhún vai. “Bác ấy cũng không hề nói với em về anh.”
Anh gật đầu, đoạn chuyển sự chú ý trở lại bàn thợ một lần nữa. Được xếp gọn gàng ở cuối bàn là một chiếc khăn lau tay của Tuck, anh nhấc nó lên, gõ gõ ngón tay lên bàn. “Các chữ cái đầu tiên anh mà anh khắc vẫn còn ở đây. Cả tên em nữa.”
“Em biết,” cô nói. Bên dưới chúng, cô cũng biết, là từ mãi mãi. Cô khoanh tay, cố không nhìn chằm chằm và bàn tay anh. Trông chúng dạn dày sương gió và mạnh mẽ, bàn tay của một người làm công việc nặng nhọc, nhưng đồng thời trông chúng vẫn thon gọn và thanh nhã.
“Anh không thể tin rằng bác ấy đã ra đi,” anh nói.
“Em biết.”
“Em nói là bác ấy đã dần đãng trí đi à?”
“Chỉ là những thứ nhỏ nhặt thôi. Xét đến tuổi tác và số thuốc lá bác ấy hút, thì lần cuối em gặp, bác ấy vẫn khá khỏe mạnh.”
“Đó là khi nào?”
“Cuối tháng Hai thì phải.”
Anh chỉ về phía chiếc Stingray. “Em có biết bất cứ điều gì về chiếc xe này không?”
Cô lắc đầu. “Em chỉ biết là bác Tuck đang phục hồi nó. Có trình tự công việc trên bìa kẹp hồ sơ với những ghi chú của bác ấy về chiếc xe, nhưng ngoài tên chủ xe ra thì em không biết thêm được gì. Nó ở ngay đằng kia kìa.”
Dawson tìm bản ghi trình tự công việc, và liếc qua danh sách trước khi xem xét chiếc xe. Cô nhìn anh mở mui xe và cúi xuống nhìn vào trong, áo sơ mi căng ra trên đôi vai anh, cô bèn quay đi, không muốn anh nhận ra là cô đã chú ý thấy. Sau một phút, anh chuyển sự chú ý đến những chiếc hộp nhỏ trên bàn thợ. Anh mở các nắp hộp, gật gù khi sắp xếp các bộ phận, lông mày anh nhíu lại.
“Lạ thật,” Dawson nói.
“Cái gì lạ cơ?”
“Đó không phải là sửa chữa. Chủ yếu là làm lại động cơ, và thay các bộ phận nhỏ. Bộ chế hòa khí, các khớp 1y hợp, một vài thứ khác nữa. Anh đoán là bác ấy chỉ đang chờ các bộ phận này được đưa đến. Đôi khi, với những chiếc xe kiểu cũ như thế này, có thể phải mất một thời gian.”
“Thế nghĩa là sao?”
“Ngoài những thứ khác ra thì, nó có nghĩa là không có chuyện chủ sở hữu có thể lái chiếc xe ra khỏi đây.”
“Em sẽ bảo luật sư liên hệ với chủ sở hữu.” Cô gạt một món tóc vướng vào mắt. “Dẫu sao thì em cũng phải gặp ông ta.”
“Gặp luật sư à?”
“Vâng.” Cô gật đầu. “Ông ta là người đã gọi cho em để báo tin về bác Tuck. Ông ta nói việc em đến đây là rất quan trọng.”
Dawson hạ mui xe xuống. “Tên ông ta không tình cờ là Morgan Tanner đấy chứ?”
“Anh biết ông ta à?” cô hỏi, giật mình.
“Chỉ là anh cũng phải gặp ông ta vào ngày mai.”
“Lúc mấy giờ?”
“Mười một giờ. Anh đoán là cùng thời điểm với cuộc hẹn của em, phải không?”
Phải mất một vài giây cô mới hiểu được những gì Dawson đã đoán ra, rằng Tuck rõ ràng đã lên kế hoạch trước cho cuộc tái ngộ này. Nếu họ không gặp nhau ở đây tại nhà ông, thì họ cũng sẽ gặp mặt vào ngày mai. Khi nhận thức rõ được điều đó, cô đột nhiên không biết là mình muốn thụi vào tay Tuck hay hôn cảm ơn ông vì đã làm thế.
Vẻ mặt cô hẳn đã thể hiện những gì cô cảm thấy, vì Dawson nói, “Anh cho là em không hề biết bác Tuck định làm gì.”
“Đúng vậy.”
Một đàn chim sáo đá bay ùa ra từ tán cây, và Amanda ngắm chúng bay lượn trên không, đổi hướng, tạo nên những hình thù trừu tượng trên nền trời. Đến lúc cô quay lại nhìn, Dawson đang tựa vào bàn thợ, nửa khuôn mặt anh khuất trong bóng tối. Ở vị trí này, với rất nhiều ký ức bao quanh họ, cô thề là mình có thể nhìn thấy Dawson như thời trai trẻ, nhưng cô cố nhắc nhở bản thân rằng giờ đây họ đã khác xưa. Giờ họ là những người xa lạ.
“Đã quá lâu rồi,” anh nói, phá vỡ sự im lặng.
“Phải, đúng vậy.”
“Anh có không một nghìn câu hỏi.”
Cô nhướng mày. “Chỉ có một nghìn thôi ư?”
Anh bật cười, nhưng cô nghĩ rằng cô nghe thấy một nỗi buồn ẩn trong nó. “Em cũng có những câu hỏi,” cô tiếp tục, “nhưng trước hết... anh nên biết rằng em đã kết hôn.”
“Anh biết,” anh nói. “Anh có thấy em đeo nhẫn cưới.” Anh ngoắc một ngón tay cái vào túi quần rồi lại dựa vào bàn thợ và bắt tréo chân. “Em kết hôn được bao lâu rồi?”
“Tháng tới là được hai mươi năm.”
“Còn con cái?”
Cô dừng lại, nghĩ tới Bea, cô chưa bao giờ biết nên trả lời câu hỏi này của mọi người thế nào. “Ba đứa,” cuối cùng cô cũng đáp lại. Anh nhận thấy sự do dự của cô, không biết nên hiểu ra sao. “Còn chồng em? Liệu anh có thích anh ta không?”
“Frank ư?” Cô chợt nhớ đến những cuộc nói chuyện khổ sở của cô với Tuck về Frank và tự hỏi không biết Dawson đã biết được bao nhiêu. Không phải vì cô không tin tưởng Tuck giữ được bí mật, mà là vì cô đột nhiên có cảm giác rằng Dawson sẽ biết ngay nếu cô nói dối.
“Bọn em đã ở bên nhau một thời gian dài.”
Dawson dường như ngẫm nghĩ về lựa chọn từ ngữ của cô trước khi anh đứng lên khỏi bàn thợ. Anh đi ngang qua cô, hướng về phía ngôi nhà, bước đi với dáng vẻ uyển chuyển của một vận động viên. “Anh đoán là bác Tuck đã đưa em chìa khóa, phải không? Anh cần thứ gì đó để uống.” Cô chớp mắt ngạc nhiên.
“Đợi đã! Bác Tuck đã nói với anh chuyện đó à?”
Dawson quay người lại, tiếp tục đi giật lùi. “Không.”
“Vậy thì làm sao anh biết được?”
“Bởi vì bác ấy không gửi chìa khóa cho anh, và chắc hẳn một trong hai người chúng ta phải giữ nó.”
Cô đứng yên tại chỗ, suy nghĩ, vẫn cố gắng đoán xem làm thế nào mà anh biết được, cuối cùng thì cô cũng đi theo anh lên lối dẫn lên nhà.
Anh thong thả bước lên bậc thềm dẫn lên hiên nhà, và dừng lại ở cửa. Amanda lục tìm chìa khóa trong ví, chạm lướt qua người anh khi cô ta chìa khóa vào ổ. Cánh cửa lạch cạch bật mở.
Không khí bên trong nhà thật mát mẻ, và ý nghĩ đầu tiên của Dawson là nội thất của ngôi nhà là một phần nối tiếp của bản thân cánh rừng: toàn là gỗ, đất, và các vết ố tự nhiên. Các bức tường bằng ván gỗ và sàn nhà bằng gỗ thông đã xỉn màu và nứt ra theo thời gian, những tấm rèm cửa màu nâu không che hết được những khe hở bên dưới các cửa sổ. Các tay vịn và đến tựa lưng trên chiếc xô pha kẻ sọc đã bị sờn gần hết. Lớp vữa trên lò sưởi đã bắt đầu bị nứt, và những viên gạch xung quanh cửa lò đen lại, ám khói, tàn dư của hàng nghìn ngọn lửa bập bùng. Cạnh cửa là một chiếc bàn nhỏ, trên bàn bày một loạt album ảnh, một máy nghe nhạc mà có lẽ còn nhiều tuổi hơn cả Dawson, và một chiếc quạt ọp ẹp bằng thép. Không khí đượm mùi thuốc lá, và sau khi mở một cái cửa sổ, Dawson bật quạt, lắng nghe tiếng cánh quạt bắt đầu quay lạch cạch. Đế quạt hơi lắc lư.
Lúc đó, Amanda đang đứng gần lò sưởi, nhìn chăm chú vào bức ảnh trên bệ lò. Bức ảnh chụp Tuck và Clara, vào dịp kỷ niệm hai mươi năm ngày cưới của họ.
Anh đi về phía Amanda, dừng lại bên cạnh cô. “Anh nhớ lần đầu tiên thấy bức ảnh đó,” anh đưa tay ra. “Anh ở đây suốt một tháng, sau đó bác Tuck mới để anh vào trong nhà, và anh nhớ mình đã hỏi bác ấy đây là ai. Anh thậm chí còn không biết bác ấy đã lập gia đình.”
Cảm nhận được hơi nóng tỏa ra từ cơ thể anh, cô cố lờ nó đi. “Làm sao anh lại không biết điều đó chứ?”
“Bởi vì anh không biết bác ấy. Trước khi xuất hiện ở nhà bác Tuck đêm đó, anh chưa từng nói chuyện với bác ấy.”
“Tại sao lúc đó anh lại đến đây?”
“Anh không biết,” anh lắc đầu nói. “Mà anh cũng không biết tại sao bác ấy lại cho anh ở lại.”
“Bởi vì bác ấy muốn anh ở đây.”
“Bác ấy bảo em thế à?”
“Không nói thẳng ra. Nhưng lúc anh xuất hiện thì bác Clara qua đời đã lâu, và em nghĩ rằng anh chính là điều mà bác ấy cần.”
“Còn anh thì nghĩ chỉ là vì đêm đó bác ấy đã có rượu vào. Nếu không nói và hầu như đêm nào cũng vậy.”
Cô lục tìm trong ký ức. “Bác Tuck không phải là sâu rượu, phải không?”
Anh chạm vào bức ảnh nằm trong chiếc khung gỗ đơn giản, như thể vẫn đang cố tiếp nhận một thế giới mà không có Tuck. Đó là trước khi em biết bác ấy. Khi đó bác ấy thích uống rượu Jim Beam, và đôi khi bác ấy loạng choạng bước vào gara, tay vẫn cầm một chai rượu đã uống hết một nửa. Bác ấy thường lấy khăn lau mặt và bảo anh rằng tốt hơn hết anh nên tìm một chỗ khác để ở. Suốt sáu tháng đầu anh ngủ ở đó, đêm nào bác ấy cũng nói thế. Và suốt đêm anh nằm đó, hy vọng rằng đến sáng hôm sau bác ấy sẽ quên hết những gì đã nói với anh. Và rồi một ngày, bác ấy ngừng uống rượu, và bác ấy không bao giờ nhắc lại chuyện đó nữa.” Anh quay sang phía cô, khuôn mặt anh chỉ cách mặt cô vài phân. “Bác ấy là một người tốt,” anh nói.
“Em biết,” cô đáp. Anh đủ gần để cô có thể ngửi thấy mùi anh; mùi xà phòng và xạ hương, hòa quyện với nhau. Quá gần. “Em cũng nhớ bác ấy.”
Cô bước ra xa, với tay mân mê một trong những chiếc gối tựa cũ sờn trên xô pha, tạo khoảng cách lần nữa. Bên ngoài, mặt trời đã hạ xuống sau những tán cây, khiến căn phòng nhỏ càng trở nên tối hơn. Cô nghe thấy Dawson hắng giọng.
“Tìm đồ uống thôi. Anh chắc rằng bác Tuck có một ít trà ngọt trong tủ lạnh.”
“Bác Tuck không uống trà ngọt đâu. Nhưng có thể bác ấy có mấy lon Pepsi.”
“Để xem nào,” anh nói, bước vào bếp.
Anh bước đi, uyển chuyển như một vận động viên, và cô khẽ lắc đầu, cố xua ý nghĩ đó đi. “Anh có chắc chúng ta nên làm điều này không?”
“Anh chắc đó chính xác là điều mà bác Tuck muốn.”
Cũng như phòng khách, nhà bếp như thể được ủ kín trong một chiếc hộp thời gian, các vật dụng như bước ra từ cuốn catalog Sears, Roebuck những năm 1940, có một cái lò nướng bánh mì với kích thước bằng lò vi sóng, và một cái tủ lạnh hình hộp có tay nắm gài chốt. Mặt bàn bếp bằng gỗ màu đen có các vệt nước gần bồn rửa, và lớp sơn trắng của tủ đựng đồ ăn đã bong ra ở chỗ gần những tay nắm. Những chiếc rèm cửa hình hoa lá - hiển nhiên là do bà Clara treo - đã chuyển sang màu vàng xám xịt, bị biến màu do khói thuốc lá của Tuck. Có một chiếc bàn tròn nhỏ đủ chỗ cho hai người ngồi ăn và một xấp giấy ăn được nhét dưới chân bàn để giữ cho nó khỏi bập bênh. Dawson mở chốt trên cánh cửa tủ lạnh, với tay lôi ra một bình trà. Anh vừa đặt bình trà lên bàn bếp thì Amanda bước vào.
“Làm sao mà anh biết bác Tuck có trà ngọt?” cô hỏi.
“Cũng giống như anh biết em có chìa khóa thôi,” anh vừa trả lời vừa thò tay vào tủ và lấy ra hai cái hũ thuỷ tinh từng được dùng để chứa mứt.
“Anh đang nói gì vậy?”
Dawson rót trà vào hũ. “Bác Tuck biết chúng ta sẽ đến đây, và bác ấy nhớ là anh thích uống trà ngọt. Thế nên bác ấy chuẩn bị sẵn một ít trà để trong tủ lạnh.”
Tất nhiên là ông đã làm thế. Cũng giống như chuyện ông đã dàn xếp với luật sư. Nhưng cô còn chưa kịp đào sâu vấn đề này, Dawson đã đưa hũ trà cho cô, đem cô trở lại hiện tại. Những ngón tay của họ khẽ chạm vào nhau khi cô nhận lấy nó.
Dawson giơ hũ trà lên. “Uống vì bác Tuck,” anh nói.
Amanda chạm cốc với anh, và tất cả những chuyện này việc đứng gần Dawson, sự giằng xé của quá khứ, cảm nhận của cô khi anh ôm cô, việc hai người ở riêng trong nhà - tất cả khiến cô gần như không thể chịu đựng nổi. Một giọng nói nhỏ bên trong thì thầm với cô rằng cô phải cẩn thận, rằng sẽ chẳng có kết cục gì hay ho sau chuyện này, và nhắc nhở rằng cô là người đã có chồng có con. Nhưng nó chỉ khiến mọi chuyện càng rối rắm hơn.
“Vậy là hai mươi năm, phải không?” Dawson cuối cùng cũng hỏi.
Anh đang hỏi về cuộc hôn nhân của cô, nhưng trong trạng thái lơ đảng, phải mất một lúc cô mới định thần được. “Gần hai mươi năm. Còn anh? Anh đã kết hôn chưa?”
“Anh không nghĩ chuyện đó có thể xảy ra với anh.”
Cô nhìn anh qua miệng hũ. “Vẫn quen hết cô này đến cô khác sao?”
“Thời gian gần đây anh chỉ có một mình.”
Cô dựa vào bàn bếp, không biết nên hiểu thế nào về câu trả lời của anh. “Giờ anh sống ở đâu?”
“Louisiana. Trong một giáo xứ ngoài New Orleans.”
“Anh có thích sống ở đó không?”
“Cũng tạm. Anh đã quên là nơi đó giống Oriental thế nào cho đến khi trở lại đây. Ở đây có nhiều thông hơn trong khi ở đó có nhiều rêu Tây Ban Nha, nhưng ngoài điểm đó ra thì anh không chắc là có thể nêu ra sự khác biệt giữa hai nơi.”
“Ngoại trừ nhưng con cá sấu.”
“Ừ. Ngoại trừ điều đó.” Anh cười nhẹ. “Đến lượt em. Giờ em sống ở đâu?”
“Durham. Kết hôn xong thì em sống ở đó.”
“Và mỗi năm em trở lại đây vài lần để gặp mẹ em à?”
Cô gật đầu. “Khi bố em còn sống, bố mẹ em thường đến thăm bọn em vì bọn em còn vướng lũ trẻ. Nhưng sau khi bố em qua đời thì chuyện đó khó khăn hơn. Mẹ em chưa bao giờ thích lái xe, vì vậy bây giờ em phải tới đây.” Cô nhấp một ngụm trà đoạn hất hàm về phía bàn. “Anh không phiền nếu em ngồi xuống chứ? Chân em đang mỏi muốn chết.”
“Cứ tự nhiên. Nhưng anh sẽ đứng một chút. Anh đã mắc kẹt trên máy bay cả ngày rồi.”
Cô cầm cốc trà của mình bên và đi tới chiếc bàn, cảm thấy ánh mắt anh dõi theo cô.
“Anh làm gì ở Louisiana?” cô hỏi, ngồi lên ghế.
“Anh điều khiển cần trục trên một giàn khoan dầu, về cơ bản là anh hỗ trợ thợ khoan dầu. Anh hướng dẫn đưa ống khoan vào và ra khỏi thang máy, kiểm tra để chắc chắn các mối nối đều ổn, kiểm soát máy bơm để chắc chắn chúng chạy tốt. Anh chắc rằng nói thế thì thà không nói còn hơn, vì có lẽ em chưa bao giờ ở trên một giàn khoan dầu, nhưng thật khó để giải thích mà không chỉ cho em thấy tận mắt.”
“Công việc đó khác xa việc sửa chữa xe hơi.”
“Nó ít khác nhau hơn em nghĩ đấy. Về cơ bản, anh làm việc với các động cơ và máy móc. Và anh cũng vẫn sửa chữa ô tô, lúc rảnh. Chiếc Fastback vẫn chạy như còn mới.”
“Anh vẫn giữ nó à?”
Anh cười toe toét. “Anh thích chiếc xe đó.”
“Không,” cô phản bác lại, “Anh yêu chiếc xe đó. Em thường phải kéo anh ra xa nó mỗi khi em ghé qua. Và nửa số lần em đã không thành công. Em sẽ rất ngạc nhiên nếu anh không mang theo một bức ảnh chụp nó trong ví đấy.”
“Có chứ.”
“Thật không?”
“Anh chỉ đùa thôi.”
Cô cười, tiếng cười tự do thoải mái giống như trước kia. “Anh làm việc trên giàn khoan bao lâu rồi?”
“Mười bốn năm. Anh bắt đầu với vị trí lon con, rồi làm lực sĩ, và bây giờ anh làm cần trục.”
“Từ lon con thành lực sĩ rồi làm cần trục à?”
“Anh có thể nói gì chứ? Ngoài đó, giữa biển khơi, bọn anh không dùng ngôn ngữ của đất liền.” Anh lơ đãng chọc chọc vào một trong những đường rãnh khắc trên mặt bàn bếp cũ kỹ. “Còn em thì sao? Em làm gì? Em thường nói về chuyện trở thành giáo viên.”
Cô thấp một ngụm trà, gật đầu. “Em đã dạy học một năm, nhưng rồi em sinh Jared, con trai lớn của em, và em muốn ở nhà chăm sóc nó. Sau đó Lynn ra đời và rồi... đã có vài năm chúng em trải qua nhiều chuyện, bao gồm cả việc bố em qua đời, đó là một quãng thời gian thật sự khó khăn.” Cô dừng lại, nhận ra có những điều mình đã không nói với anh, cô biết giờ không phải lúc cũng không phải chỗ để nói về Bea. Cô đứng lên, giữ cho giọng mình bình thường. “Một vài năm sau đó, Annette ra đời, đến khi ấy thì không còn lý do gì để em quay trở lại làm việc. Nhưng em đã dành rất nhiều thời gian trong suốt mười năm qua để làm tình nguyện viên tại Bệnh viện Đại học Duke. Em cũng tổ chức một số bữa ăn trưa gây quỹ cho họ. Đôi khi thật khó khăn, nhưng nó khiến em cảm thấy mình đang tạo nên một chút khác biệt.”
“Bọn trẻ nhà em bao nhiêu tuổi rồi?”
Cô dùng ngón tay đếm lần lượt. tháng Tám này Jared bước sang tuổi mười chín, nó vừa học xong năm đầu đại học, Lynn mười bảy tuổi và đang bắt đầu năm cuối trung học. Annette, chín tuổi, vừa học xong lớp ba. Nó là một con bé ngọt ngào, vui vẻ và vô tư. Mặt khác, Jared và Lynn đang ở độ tuổi mà chúng nghĩ rằng chúng biết tất cả mọi thứ và em, tất nhiên, hoàn toàn chẳng biết gì cả.”
“Nói cách khác, ý em và chúng giống chúng ta trước kia à?”
Cô nghĩ về điều đó, nét mặt của cô gần như là tiếc nuối. “Có thể.”
Dawson im lặng, nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ, và cô nhìn theo ánh mắt của anh. Nhánh sông đã chuyển sang màu của sắt và dòng nước lững lờ trôi phản chiếu bầu trời đang tối dần. Cây sồi già gần bờ sông không thay đổi nhiều so với lần cuối cùng anh ở đây, nhưng bến tàu đã mục nát, chỉ để trơ lại những chiếc cột.
“Có rất thiều kỷ niệm ở đó, Amanda nhỉ,” anh quan sát, nhẹ nhàng nói.
Có lẽ là do giọng anh, nhưng cô cảm thấy lòng mình xao động khi nghe anh nói như thế, giống như có một cái chìa khóa vừa bật mở một ổ khóa xa xôi nào đó.
“Em biết,” cô nói. Cô dừng lại, vòng tay ôm lấy người, và suốt một lúc, tiếng kêu ro ro của tủ lạnh là âm thanh duy nhất trong nhà bếp. Ngọn đèn trên đầu tỏa ánh sáng màu vàng dịu lên các bức tường, phản chiếu bóng họ thành những hình trừu tượng. “Anh định ở lại đây bao lâu?” cuối cùng cô cũng lên tiếng.
“Anh đặt chuyến bay về vào sáng sớm thứ Hai. Còn em?”
“Em không ở lâu. Em đã nói với Frank là Chủ nhật sẽ về. Tuy nhiên, theo ý mẹ em, bà muốn em ở lại Durham cuối tuần này. Bà nói đến dự tang lễ này không phải là một ý hay.”
“Tại sao?”
“Bởi vì bà không thích bác Tuck.”
“Ý em là bà ấy không thích anh.”
“Bà chưa bao giờ hiểu được anh,” Amanda nói. “Bà chưa bao giờ cho anh lấy một cơ hội. Bà luôn muốn em phải sống theo ý của bà. Dường như những gì em muốn chưa bao giờ là quan trọng với bà. Mặc dù em đã là một người trưởng thành, bà vẫn cố bảo em phải làm gì. Bà không hề thay đổi chút nào.” Cô xoa những giọt nước tụ lại lên hũ trà. “Mấy năm trước, em đã sai lầm khi nói với bà rằng em ghé thăm bác Tuck, thế là bà làm như thể em vừa phạm tội vậy. Bà liên tục lên lớp em, hỏi em tại sao lại đến thăm bác ấy, muốn biết hai bác cháu đã nói những chuyện gì, đồng thời la mắng em như thể em vẫn còn là trẻ con vậy. Nên sau chuyện đó, em không kể với bà về việc thăm nom nữa. Thay vào đó, em kể với bà là em đi mua sắm, hay em muốn ăn trưa cùng bạn em, Martha, ở bãi biển. Martha và em là bạn cùng phòng hồi đại học và cô ấy sống ở Salter Path, nhưng dù chúng em vẫn nói chuyện với nhau, thực ra nhiều năm rồi em không gặp cô ấy. Em không muốn đối mặt với nhưng câu hỏi soi mói của mẹ, thế nên em đã nói dối bà.”
Dawson lắc hũ trà của mình, suy nghĩ về những gì cô nói, ngắm nước trà cho đến khi nó ngừng sóng sánh. “Khi lái xe tới đây, anh không thể ngừng nghĩ về bố anh, và cái kiểu ông ta luôn muốn kiểm soát mọi chuyện. Anh không nói bà mẹ em giống ông ta, có lẽ đó chỉ là cách của bà để cố ngăn em phạm sai lầm.”
“Anh nói việc đến thăm bác Tuck là sai lầm à?”
“Không phải vì bác Tuck,” anh nói. “Mà là vì em chăng? Nó phụ thuộc vào việc em hy vọng sẽ tìm thấy gì ở đây, và chỉ em mới có thể trả lời câu hỏi đó.”
Cô cảm thấy muốn phản bác, nhưng cô còn chưa kịp phản ứng thì cảm giác đó đã tan đi khi cô nhận ra cái cách họ thường nói chuyện với nhau trước đây. Một người sẽ nói điều gì đó để thách thức người kia, và thường thì nó dẫn tới một cuộc tranh luận, và cô nhận ra mình nhớ chuyện đó nhiều đến thế nào. Không phải là vì họ tranh cãi, mà là vì sự tin tưởng hàm chứa trong đó và sự tha thứ tất yếu sau này. Bởi vì, rốt cuộc, họ đã luôn tha thứ cho nhau.
Một phần trong cô nghi ngờ rằng anh đang thử cô, nhưng cô không bình luận gì. Thay vào đó, trước sự ngạc nhiên của chính mình, cô nghiêng người qua chiếc bàn, những từ tiếp theo gần như là tự động tuôn ra.
“Anh định ăn gì tối nay?”
“Anh không có kế hoạch nào cả. Tại sao?”
“Có một ít thịt bò để làm bít tết trong tủ lạnh nếu anh muốn ăn ở đây.”
“Thế còn mẹ em?”
“Em sẽ gọi và nói với bà rằng em xuất phát muộn.”
“Em có chắc đó là một ý hay không?”
“Không,” cô nói. “Ngay lúc này em không chắc chắn về bất kỳ điều gì cả.”
Anh gại gại ngón tay cái lên hủ trà, chăm chú nhìn cô mà không nói gì. “Được thôi.” Anh gật đầu. “Ta sẽ ăn bít tết.”
“Nếu thịt chưa bị ôi.”
“Chúng mới được đưa đến hôm thứ Hai mà,” cô nói, nhớ lại thững gì Tuck đã nói với cô. “Bếp nướng ở phía sau nếu anh muốn nhóm bếp nướng thịt.”
Ngay sau đó, anh bước ra ngoài, tuy nhiên, sự hiện diện của anh như vẫn còn vương lại trong phòng, ngay cả trong lúc cô lục tìm điện thoại di động của mình trong túi xách.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Dành Hết Cho Em
Nicholas Sparks
Dành Hết Cho Em - Nicholas Sparks
https://isach.info/story.php?story=danh_het_cho_em__nicholas_sparks