Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Và Rồi Núi Vọng
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 2
H
ai
MÙA THU NĂM 1952
Cha chưa bao giờ đánh Abdullah. Vì thế khi ông ra tay, khi ông đánh vào bên đầu cậu, ngay phía trên tai - mạnh và đột ngột, bằng cả lòng bàn tay - những giọt lệ ngỡ ngàng bỗng dâng lên mắt Abdullah. Cậu vội chớp mắt ghìm lại.
“Về nhà,” cha nói qua hàm răng nghiến chặt.
Abdullah nghe thấy tiếng Pari òa khóc nức nở ngay đằng trước.
Rồi cha lại đánh cậu, mạnh hơn, lần này vào bên má trái. Đầu Abdullah lật sang bên. Mặt cậu đỏ bừng, nước mắt lại ứa ra. Tai trái cậu lùng bùng. Cha khom xuống, gí sát khuôn mặt răn rúm đen sạm vào mặt cậu, che khuất cả sa mạc lẫn dãy núi và bầu trời.
“Cha bảo con về nhà cơ mà, thằng bé này,” cha nói vẻ đau đớn.
Abdullah không thốt ra tiếng nào. Cậu nuốt đánh ực rồi nheo mắt nhìn cha, chớp chớp mắt nhìn khuôn mặt đang che khuất vầng trời.
Từ chiếc xe kéo màu đỏ nhỏ xíu phía trước, Pari thét gọi tên cậu, giọng con bé cao vút, run rẩy hãi sợ. “Abollah!”
Cha trừng mắt nhìn cậu vẻ dữ dằn, rồi lê bước trở lại xe. Từ trong xe, Pari vươn tay về phía Abdullah. Abdullah để cha và em đi trước. Rồi cậu lấy cườm tay chùi mắt, đoạn đuổi theo.
Một lát sau, cha ném một hòn đá về phía cậu, giống như lũ trẻ ở Shadbagh làm với Shuja, chú chó của Pari - có điều chúng cố ý ném trúng Shuja, cố ý làm đau nó. Hòn đá của cha thì rơi vô hại cách Abdullah chừng vài mét. Abdullah đợi, đến khi cha và Pari đi tiếp thì cậu lại làm cái đuôi nhằng nhẵng.
Cuối cùng, khi mặt trời vừa nghiêng bóng, cha lại dừng bước. Ông quay về phía Abdullah, tuồng như suy nghĩ lung lắm, rồi vẫy vẫy tay.
“Con sẽ không bỏ cuộc chứ gì,” ông nói.
Từ trong xe kéo, Pari thò tay ra luồn vào tay Abdullah. Con bé ngước nhìn cậu, đôi mắt sáng trong, và nở nụ cười với hàm răng thưa như thể sẽ chẳng có chuyện gì xấu xảy ra với nó chừng nào cậu vẫn còn đứng bên. Cậu nắm chặt tay nó, như vẫn làm hằng đêm khi cậu và em gái ngủ trên chiếc giường gấp, đầu kề đầu, chân đan vào nhau.
“Đáng lẽ con phải ở nhà,” cha nói. “Với mẹ con và Iqbal. Như cha đã bảo con ấy.”
Abdullah nghĩ, Bà ấy là vợ cha thôi. Mẹ của chúng con, chúng ta đã chôn rồi. Nhưng cậu biết đường kìm những lời lẽ đó lại trước khi chúng vọt ra ngoài.
“Được rồi. Đi nào,” cha nói. “Nhưng đừng có rỏ giọt nước mắt nào nữa đấy. Con nghe cha nói không?”
“Có ạ.”
“Cha cảnh cáo con đấy. Cha không cho phép đâu.” Pari toét miệng cười với Abdullah, cậu liền nhìn xuống đôi mắt nhạt màu và bầu má phính hồng hào, toét miệng cười lại.
Từ lúc đó, cậu nắm tay Pari bước bên chiếc xe kéo trong khi nó ì ạch bò trên mặt sa mạc lỗ rỗ. Chúng lén trao nhau những ánh nhìn hạnh phúc, anh trai và em gái, nhưng lại rất ít lời vì sợ làm cha khó chịu cũng như phá hỏng vận may của mình. Suốt bao lâu chỉ có ba người bọn họ với nhau, ngoài những hẻm núi đồng đỏ sâu hun hút và những vách sa thạch đồ sộ ra thì chẳng nhìn thấy ai hay cái gì khác. Sa mạc trải ra phía trước, rộng mở mênh mang, như thể nó được tạo ra cho họ và chỉ họ mà thôi, không khí ngột ngạt nóng giãy, bầu trời cao xanh ngút ngát. Đá lấp lánh trên những kẽ nứt. Âm thanh duy nhất Abdullah nghe được là tiếng thở của chính mình và nhịp bánh xe kẽo kẹt khi cha kéo chiếc xe đỏ về hướng Bắc.
Một lát sau, họ dừng lại nghỉ ngơi dưới bóng một tảng đá. Rên lên một tiếng, cha hạ tay cầm xuống đất. Ông nhăn nhó gập cong lưng, ngước nhìn mặt trời.
“Bao giờ mới tới Kabul ạ?” Abdullah hỏi.
Cha nhìn xuống hai đứa trẻ. Tên ông là Saboor. Ông có nước da đen sạm và khuôn mặt khắc khổ, góc cạnh xương xẩu, mũi khoằm như mỏ diều hâu sa mạc, mắt lõm sâu vào hộp sọ. Cha gầy như cây sậy, nhưng cả đời lao động khiến cơ bắp ông rất dẻo dai, săn lại như những dải mây bện quanh tay cầm của chiếc ghế liễu gai. “Chiều mai,” ông đáp, nâng bi đông nước làm từ da bò lên môi. “Nếu chúng ta đi nhanh.” Ông nuốt một ngụm dài, yết hầu nâng lên hạ xuống.
“Sao bác Nabi không chở chúng ta đi ạ?” Abdullah hỏi. “Bác ấy có xe mà.”
Cha đảo mắt về phía cậu.
“Thế thì chúng ta sẽ không phải cuốc bộ cả chặng đường.”
Cha không nói gì. Ông bỏ chiếc mũ chỏm lấm muội ra và lấy tay áo lau những giọt mồ hôi đọng trên lông mày.
Pari vung tay chỉ trỏ từ xe kéo. “Nhìn này anh Abollah!” Con bé hồ hởi reo. “Nữa kìa.”
Abdullah nhìn theo ngón tay nó tới một chỗ dưới bóng tảng đá, nằm chỏng chơ ở đó là một chiếc lông vũ dài màu xám như than đã cháy hết. Abdullah bước lại, nắm phần cuống nhặt lên. Cậu thổi những hạt bụi li ti khỏi chiếc lông. Một con chim cắt, cậu nghĩ, lật ngược nó lại. Cũng có thể là một con bồ câu, hoặc sơn ca sa mạc. Hôm đó cậu đã bắt gặp bao nhiêu chiếc lông thế này. Không, là một con chim cắt. Cậu lại thổi chiếc lông rồi đưa cho Pari, con bé hớn hở giật lấy khỏi tay anh.
Ở quê nhà Shadbagh, Pari cất dưới gối một hộp trà bằng thiếc cũ rích mà Abdullah cho con bé. Lẫy hộp đã gỉ sét, trên nắp là hình một người đàn ông Ấn Độ râu ria xồm xoàm, vấn khăn turban và mặc áo chùng đỏ, cầm chén trà bốc khói bằng cả hai tay. Bên trong hộp là toàn bộ đám lông vũ mà Pari sưu tập được. Chúng là tài sản được con bé nâng niu nhất. Những chiếc lông gà trống màu đỏ tía đậm và xanh lục sẫm; một chiếc lông đuôi trắng của chim bồ câu; một chiếc lông chim sẻ, màu nâu xỉn, lấm tấm những đốm thẫm màu; và thứ Pari tự hào nhất, một chiếc lông công xanh lục óng ánh với một con mắt lớn đẹp mê hồn ở chóp.
Chiếc lông công là món quà Abdullah tặng cho con bé hai tháng trước. Cậu nghe nói nhà một cậu bé ở làng bên có nuôi công. Một hôm khi cha vắng nhà đi đào mương ở một thị trấn nằm ở phía Nam Shadbagh, Abdullah liền tới ngôi làng đó, tìm gặp cậu bé, và hỏi xin một chiếc lông vũ. Mặc cả mãi, cuối cùng Abdullah đồng ý đổi đôi giày lấy chiếc lông vũ. Đến khi cậu trở về Shadbagh, chiếc lông công giắt trong hông quần bên dưới áo, gót chân cậu đã nứt toạc, để lại trên đất những vệt máu lấm lem. Gai và dằm đâm vào bàn chân cậu. Mỗi bước đi cậu lại cảm thấy cơn nhói buốt xuyên thẳng vào chân.
Về đến nhà, cậu thấy bà mẹ kế Parwana đang ở ngoài căn nhà tranh vách đất, lom khom trước tandoor* làm món bánh naan* thường nhật. Cậu vội nấp sau cây sồi đồ sộ gần nhà đợi dì làm xong. Hé mắt sau thân cây, cậu nhìn dì nấu nướng, một người đàn bà vai thô tay dài, bàn tay chai sần, những ngón tay chuối mắn; một người đàn bà mặt núng nính chẳng sở hữu nét duyên dáng hồ điệp nào như cái tên của dì.
Lò nướng làm bằng đất sét có nguồn gốc từ Trung Á.
Loại bánh mì dẹt phổ biến ở các nước Nam Á, Trung Á và Tây Á.
Abdullah ước ao có thể yêu dì như cậu từng yêu mẹ đẻ của mình. Mẹ, ba năm rưỡi trước đã băng huyết chết khi sinh Pari, năm ấy Abdullah mới bảy tuổi. Mẹ, khuôn mặt cơ hồ đã phai nhạt trong tâm trí Abdullah. Mẹ, khum tay vùi đầu cậu vào ngực bà và vuốt ve má cậu mỗi đêm trước giấc ngủ, ngân nga khúc ru:
Tôi thấy một nàng tiên nhỏ buồn bã
Dưới bóng cây giấy.
Tôi biết một nàng tiên nhỏ buồn bã
Một đêm bị gió cuốn bay.
Cậu ước ao có thể yêu người mẹ mới của mình như vậy. Và cậu nghĩ có lẽ Parwana cũng thầm ước điều tương tự, rằng dì có thể yêu cậu. Như cách dì yêu Iqbal, đứa con trai một tuổi của dì, đứa trẻ luôn được dì thơm khắp mặt, đứa trẻ mà từng tiếng ho, tiếng hắt hơi của nó đều khiến dì lo lắng. Hay như cách dì yêu đứa con đầu Omar. Dì yêu thương nó hết mực. Nhưng nó đã chết rét vào mùa đông năm kia. Khi ấy nó mới được hai tuần tuổi. Parwana và cha còn chưa kịp đặt tên cho nó. Nó là một trong ba đứa trẻ bị mùa đông khắc nghiệt ở Shadbagh cướp đi năm ấy. Abdullah còn nhớ Parwana đã ôm chặt thi hài bé nhỏ quấn tã của Omar, nhớ những cơn vật vã của dì. Cậu còn nhớ cái ngày người ta chôn thằng bé tít trên đồi, một ụ đất nhỏ trên mặt đất đông cứng, bên dưới bầu trời màu xám thiếc, giáo sĩ Shekib nói lời cầu nguyện, gió tạt những hạt tuyết và băng vào mắt mọi người.
Abdullah đoán chừng lát nữa Parwana sẽ nổi cáu khi biết cậu đã đổi đôi giày duy nhất của mình lấy một chiếc lông công. Cha đã phải làm việc quần quật dưới nắng mới mua được giày cho cậu. Dì mà phát hiện ra cậu sẽ bị ăn mắng. Có khi còn bị đánh nữa, Abdullah nghĩ. Trước kia dì đã đánh cậu vài lần rồi. Tay dì chắc khỏe - kết quả từ bao năm bồng bế người chị gái tật nguyền, Abdullah đoán vậy - và đôi tay ấy biết vung chổi hay giáng một cú tát chuẩn xác như thế nào.
Nhưng điều đáng nói là, Parwana lại chẳng có vẻ gì là hả hê khi đánh cậu. Dì cũng không phải là không biết cách đối xử dịu dàng với hai đứa con ghẻ. Có lần dì đã dùng cuộn vải mà chồng mua cho từ Kabul may cho Pari một cái váy màu bạc và xanh lục. Có lần dì đã dạy cho Abdullah, với lòng kiên nhẫn đáng kinh ngạc, cách đập hai quả trứng cùng lúc mà không làm vỡ lòng đỏ. Và cũng có lần dì chỉ cho chúng cách xoắn bện lá ngô thành con búp bê nhỏ, như dì đã chỉ cho chị gái ruột của mình thuở bé. Dì dạy chúng may quần áo cho búp bê từ những mẩu vải rách.
Nhưng những hành động đó, Abdullah biết, chỉ là vì nghĩa vụ mà thôi, nông hơn nhiều so với độ sâu của chiếc giếng tình cảm mà dì dành cho Iqbal. Nếu một đêm nhà họ bị cháy, Abdullah biết chắc Parwana sẽ vồ lấy đứa con nào mà tháo chạy. Dì sẽ chẳng phải nghĩ đến hai lần. Suy cho cùng, đơn giản một lẽ: Cậu và Pari, hai đứa không phải con dì. Phần lớn mọi người chỉ yêu con đẻ của mình. Không thể tránh khỏi thực tế rằng cậu và em gái không thuộc về dì. Chúng chỉ là những gì còn lại của một người đàn bà khác mà thôi.
Cậu đợi Parwana mang bánh vào trong, rồi quan sát dì trở ra khỏi nhà lần nữa, một tay bế Iqbal, một tay kẹp mớ quần áo bẩn. Cậu nhìn dì thong thả đi về phía bờ sông và đợi cho đến khi dì khuất tầm mắt mới lẻn vào nhà, cứ mỗi lần chạm chân xuống đất là lại đau nhói. Vào đến trong nhà, cậu ngồi xuống xỏ chân vào đôi dép quai hậu nhựa cũ kỹ, thứ giày dép cuối cùng mà cậu có. Abdullah biết việc mình đã làm là không khôn ngoan chút nào. Nhưng khi cậu quỳ gối bên Pari, nhẹ nhàng lay nó dậy khỏi cơn chợp mắt, và chìa chiếc lông từ sau lưng ra như một nhà ảo thuật, cậu thấy việc đó xứng đáng biết bao - xứng đáng vì vẻ mặt con bé rạng ngời ra sao, ban đầu thì ngạc nhiên, sau là sung sướng; vì con bé thơm lên má cậu nồng nhiệt thế nào; vì con bé cười khúc khích khi cậu cù chóp lông mềm mại vào cằm nó - và bỗng nhiên chân cậu chẳng còn đau nữa.
Cha lại lấy tay áo lau mồ hôi lần nữa. Họ thay phiên nhau uống nước trong bi đông. Uống xong, cha nói, “Thằng bé này, con mệt rồi đấy.”
“Không đâu ạ,” Abdullah chối. Cậu mệt rã rời rồi. Và chân thì đau nhức. Đi dép quai hậu qua sa mạc thật chẳng dễ dàng gì.
Cha nói, “Trèo vào đi.”
Trong xe kéo, Abdullah ngồi sau Pari, lưng dựa vào thành gỗ mỏng, những đốt xương sống nhỏ xíu của em gái ép vào bụng và xương ngực cậu. Khi cha kéo chúng về phía trước, Abdullah chăm chú nhìn bầu trời, các dãy núi, dãy nọ kề sát dãy kia, những ngọn đồi bát úp mềm mại xa xa. Cậu ngắm lưng cha khi cha gò lưng kéo, đầu cúi thấp, chân đá tung những đám cát nâu đỏ. Một chiếc xe moóc của người du mục đi qua họ, một đoàn dài bụi bặm nào chuông leng keng nào lạc đà rên rỉ, và một phụ nữ với đôi mắt viền phấn côn và mái tóc màu lúa mì mỉm cười với Abdullah.
Tóc bà gợi Abdullah nhớ đến mẹ, và lòng cậu lại trỗi dậy nỗi khao khát được có mẹ, lòng dịu dàng, sự vui vẻ bẩm sinh, cả nỗi hoang mang của bà trước sự tàn bạo của con người. Cậu nhớ tiếng cười nấc lên của bà, và cách bà thi thoảng bẽn lẽn nghiêng đầu. Mẹ cậu thật mong manh, cả dáng vóc lẫn bản tính, một phụ nữ thắt đáy lưng ong với mớ tóc bồng lúc nào cũng tràn ra khỏi khăn. Trước đây cậu cứ băn khoăn mãi sao một cơ thể mảnh mai như vậy lại có thể chứa nhiều niềm vui đến thế. Không thể. Nó trào khỏi bà, trào khỏi đôi mắt bà. Cha thì khác. Ở cha có sự cứng rắn. Đôi mắt cha cùng nhìn ra một thế giới như mẹ, nhưng chỉ thấy nỗi dửng dưng. Công việc nhọc nhằn bất tận. Thế giới của cha thật khắc nghiệt. Chẳng có gì từ trên trời rơi xuống. Kể cả tình yêu. Ta phải chi trả cho tất cả mọi thứ. Và nếu ta nghèo, thì nỗi cơ cực chính là tiền bạc của ta. Abdullah nhìn xuống đường ngôi tóc đầy vảy của em gái, nhìn cổ tay gầy của em vắt trên thành xe kéo, và cậu biết rằng khi mẹ cậu mất, có gì đó ở bà đã truyền sang cho Pari. Nét gì đó trong sự tận tụy hết lòng, vẻ ngây thơ, niềm hy vọng hồn nhiên của bà. Pari là người duy nhất trên đời này không bao giờ có thể làm cậu tổn thương, và sẽ không bao giờ làm cậu tổn thương. Có những ngày, Abdullah cảm thấy con bé là gia đình thực sự duy nhất mà cậu có.
Sắc ngày ngả dần sang xám, và những đỉnh núi xa xa biến thành những bóng mờ mang dáng hình kẻ khổng lồ lom khom. Trước đó họ đã băng qua vài ngôi làng, phần lớn đều xa xôi và lấm bụi hệt như Shadbagh. Những ngôi nhà vuông nhỏ xíu làm từ bùn nung, lác đác có cái ăn vào sườn núi, khói bếp bảng lảng từ mái nhà bay lên. Nào dây phơi quần áo, nào những người đàn bà ngồi xổm bên bếp lửa. Mấy cây dương, vài con gà, dăm con bò con dê, và đâu đâu cũng thấy đền thờ. Ngôi làng cuối cùng họ đi qua nằm kề một cánh đồng anh túc, một cụ già đang bóc vỏ quả trên đồng vẫy tay với họ. Cụ hét gì đó với Abdullah mà cậu nghe không ra. Cha vẫy tay đáp lại.
Pari gọi, “Anh Abollah ơi?”
“Ơi.”
“Không biết Shuja có buồn không nhỉ?”
“Chắc nó không sao đâu.”
“Không ai làm hại nó chứ?”
“Nó bự con lắm đấy, Pari. Nó tự vệ được mà.”
Shuja là một chú chó bự. Cha nói chắc hẳn có thời nó là chó chọi vì tai và đuôi của nó đã bị cắt cụt. Nhưng nó có tự vệ, hay có thể tự vệ hay không lại là vấn đề khác. Khi chú chó lạc lần đầu xuất hiện ở Shadbagh, lũ trẻ đã ném đá nó, lấy cành cây hay nan hoa xe đạp gỉ sét thọc nó. Shuja chưa lần nào đánh trả. Dần dà, lũ trẻ trong làng đã chán hành hạ mà để nó yên, dù vậy Shuja vẫn giữ thái độ cẩn trọng và nghi ngờ, như thể nó chưa quên chúng đã tệ bạc với mình thế nào trong quá khứ.
Nó né tránh tất cả mọi người ở Shadbagh, trừ Pari. Vì Pari mà Shuja quýnh quáng hết cả lên. Tình yêu nó dành cho con bé mênh mang không chút vẩn đục. Con bé là cả vũ trụ với nó. Sáng sáng, khi thấy Pari ra khỏi nhà là Shuja bật dậy, toàn thân run lên. Mẩu đuôi cụt vẫy rối rít, và nó nhảy tưng tưng như giẫm phải than nóng. Nó hớn hở nhảy cỡn quanh con bé. Cả ngày chú chó đi theo Pari, khụt khịt ngửi gót chân con bé, và đêm xuống, khi hai đứa bị chia cắt, nó lại cô quạnh nằm ngoài cửa, đợi trời sáng.
“Anh Abollah ơi?”
“Ơi.”
“Khi nào lớn, em ở với anh nhé?”
Abdullah nhìn vầng mặt trời màu cam đang buông tàn, nhích dần xuống chân trời. “Tùy em. Nhưng em sẽ không muốn đâu.”
“Em có muốn mà.”
“Em sẽ muốn có nhà riêng cơ.”
“Nhưng bọn mình có thể làm hàng xóm mà.”
“Có lẽ.”
“Anh sẽ không sống xa em.”
“Nhỡ em chán anh thì sao?”
Con bé thúc khuỷu tay vào sườn cậu. “Không đâu mà.”
Abdullah toét miệng cười với chính mình. “Được rồi, được rồi.”
“Anh sẽ ở gần em.”
“Ừ.”
“Đến khi bọn mình già.”
“Già chát luôn.”
“Mãi mãi.”
“Ừ, mãi mãi.”
Từ đầu xe kéo, con bé quay lại nhìn cậu. “Anh hứa nhé, anh Abollah?”
“Mãi mãi và mãi mãi.”
Lát sau, cha cõng Pari lên lưng, còn Abdullah đi sau, kéo chiếc xe không. Trong lúc họ đi, cậu cứ thần người ra. Cậu chỉ nhận thấy đầu gối mình nhấp nhô và những giọt mồ hôi lăn dài từ mép mũ chỏm. Bàn chân nhỏ xíu của Pari vung vẩy đập vào hông cha. Chỉ nhận thấy cái bóng của cha và con gái trải dài trên mặt sa mạc xám ngắt, cứ thế bỏ xa cậu nếu cậu chậm bước.
Chính bác Nabi đã tìm công việc mới nhất cho cha - bác Nabi là anh ruột của Parwana, thành ra đương nhiên là bác của Abdullah. Bác Nabi là đầu bếp kiêm tài xế ở Kabul. Mỗi tháng một lần, bác lại lái xe từ Kabul về thăm người nhà ở Shadbagh, lần nào bác về cũng được báo hiệu bởi tràng còi giật cục và tiếng hò la của đám trẻ làng đuổi theo chiếc xe to oành màu xanh dương với mui xe vàng cát và vành bánh xe bóng loáng. Chúng vỗ đồm độp lên thanh chắn bùn và cửa sổ cho đến khi bác tắt máy, chui ra khỏi xe cười toe toét, bác Nabi điển trai với hàng râu quai nón dài và mái tóc đen lượn sóng chải ngược ra sau, vận bộ com lê ngoại cỡ màu ô liu mặc ngoài áo sơ mi trắng và đi đôi giày lười màu nâu. Ai cũng ra nhìn bác vì bác lái ô tô, dù đấy là xe của chủ, và vì bác mặc com lê và làm việc ở một thành phố lớn, Kabul.
Chính trong chuyến thăm gần đây nhất, bác Nabi đã mách việc cho cha. Những người giàu có mà bác làm thuê cho tính xây thêm một gian nhà nữa - một nhà khách nhỏ ở sân sau, đầy đủ phòng tắm, tách biệt hẳn với nhà chính - và bác Nabi đã gợi ý họ thuê cha, một người rất thạo việc ở công trường xây dựng. Bác nói họ sẽ trả công rất hậu và chỉ mất khoảng một tháng là xong thôi.
Cha quả rất thạo việc ở công trường xây dựng. Cha đã lăn lộn khắp chốn. Từ lâu lắm rồi, cha đã đi tìm việc, gõ cửa hết nhà này đến nhà khác xin làm công nhật. Có lần, cậu vô tình nghe thấy cha nói với một bác trong làng, giáo sĩ Shekib, rằng Nếu tôi sinh ra là con vật, giáo sĩ Sahib* à, tôi thề rằng mình sẽ là con la đấy. Đôi khi cha đưa Abdullah đi làm cùng. Một bận họ hái táo ở một thị trấn cách Shadbagh cả ngày đi bộ. Abdullah còn nhớ cha đã ở tít trên thang cho đến khi mặt trời lặn, nhớ đôi vai khom, chiếc gáy nhăn nheo bỏng rát dưới nắng, làn da cánh tay ram ráp, những ngón tay thô kệch thoăn thoắt vặt từng trái táo một. Bận khác họ lại làm gạch xây đền thờ ở một thị trấn nọ. Cha đã chỉ cho Abdullah cách lượm đất tốt, thứ đất có màu nhạt hơn. Họ cùng nhau sàng đất, trộn thêm rơm, và cha đã kiên nhẫn dạy cậu đong nước vừa chuẩn để hỗn hợp không bị nhão. Năm ngoái thì cha thồ đá. Ông xúc đất, lần đầu thử cày ruộng. Ông còn tham gia vào đội làm đường lo việc rải nhựa.
Danh xưng gọi những người có vai vế trong xã hội.
Abdullah biết cha tự trách bản thân vì chuyện Omar. Nếu ông tìm được nhiều việc hơn, hoặc việc khá khẩm hơn, thì ông đã có thể mua cho nó những bộ quần áo mùa đông tử tế hơn, chăn dày hơn, thậm chí là cả một chiếc lò sưởi đàng hoàng để sưởi ấm ngôi nhà. Đó là điều cha nghĩ. Ông không hề nhắc đến Omar một lời với Abdullah từ sau lễ chôn cất, nhưng Abdullah biết.
Cậu nhớ có lần nhìn thấy cha, vài ngày sau khi Omar mất, đứng một mình dưới cây sồi đồ sộ. Cây sồi cao vượt hết thảy mọi thứ ở Shadbagh và là sinh vật sống lâu đời nhất làng. Cha nói ông sẽ chẳng lấy làm ngạc nhiên nếu nó từng chứng kiến vua Babur dẫn quân chiếm Kabul. Cha kể rằng ông đã dành cả nửa tuổi thơ dưới tán cây rộng lớn này hay trèo lên những cành cây cong. Cha của cha, ông nội của Abdullah, đã buộc mấy sợi dây thừng dài lên một cành cây chắc khỏe và treo một chiếc xích đu, món đồ chơi đã sống sót qua bao tiết mùa khắc nghiệt và lâu hơn cả chính ông nội. Cha nói thuở nhỏ ông với Parwana và chị gái dì, Masooma, đã thay nhau chơi đùa trên chiếc xích đu ấy.
Nhưng dạo này, cha lúc nào cũng trong tình trạng lao lực khi Pari giật giật tay áo ông và đòi ông đẩy xích đu cho nó.
Có khi để mai đi, Pari.
Chỉ một xíu thôi, Baba*. Đứng lên đi mà.
Giờ không được. Lần sau đi con.
Cha (tiếng Farsi).
Cuối cùng con bé cũng đành thôi, buông tay áo cha ra mà ngậm ngùi bỏ đi. Có những lúc khuôn mặt hẹp của cha xịu xuống khi ông nhìn theo bóng nó. Rồi ông lật người quay mặt về phía bên kia giường, kéo chăn lên, và nhắm đôi mắt mỏi mệt lại.
Abdullah không hình dung nổi cha lại có thời chơi xích đu. Cậu không thể tưởng tượng ra cha hồi bé, như cậu. Một cậu bé. Vô tư, lanh lẹ. Lao đầu chạy ra cánh đồng bát ngát với đám bạn cùng chơi. Cha, người có đôi bàn tay đầy sẹo, khuôn mặt chằng chịt những nếp nhăn mỏi mệt in hằn. Cha, người có lẽ đã sinh ra với cái xẻng trong tay và bùn đất trong kẽ móng tay.
Đêm đó họ phải ngủ trên sa mạc. Họ ăn bánh mì và những củ khoai tây luộc cuối cùng mà Parwana đã gói ghém cho họ. Cha nhóm lửa rồi bắc ấm đun nước uống trà.
Abdullah nằm bên lò sưởi, cuộn tròn dưới tấm chăn len đằng sau Pari, lòng bàn chân lạnh lẽo của con bé áp vào cậu.
Cha cúi xuống đống lửa châm một điếu thuốc.
Abdullah trở mình nằm ngửa, Pari cũng điều chỉnh tư thế, má áp vừa khít vào vết hõm quen thuộc bên dưới xương quai xanh của cậu. Cậu hít vào mùi đồng của bụi sa mạc và ngước nhìn bầu trời đầy sao tựa những tinh thể băng, lung linh, lấp lánh. Mảnh trăng lưỡi liềm mỏng manh ấp ôm đường viền lờ mờ ma quái của cả mặt trăng.
Abdullah nhớ lại mùa đông năm kia, mọi thứ đều chìm trong bóng tối, gió lùa qua cửa, rít từng hồi chậm, dài, ào ào, và rít từ mọi kẽ nứt trên trần nhà. Ngoài trời, những đường nét của ngôi làng bị tuyết xóa nhòa. Những đêm dài không sao, ngày thì ngắn lại, u ám, mặt trời hầu như không ló dạng, và rồi chỉ xuất hiện thoáng qua rồi biến mất. Cậu nhớ tiếng khóc mệt nhọc của Omar, đến sự câm lặng của nó, rồi cha ảo não khắc một mảnh trăng lưỡi liềm lên chiếc bảng gỗ, giống hệt mảnh trăng treo trên đầu họ bây giờ, cắm cái bảng xuống nền đất cứng sạm màu vì băng tuyết trên đầu ngôi mộ nhỏ.
Và giờ một lần nữa lại tới lúc thu tàn. Mùa đông đã náu sẵn quanh đây, dù cả cha lẫn Parwana đều không nhắc đến, như thể nói ra từ đó thôi cũng có thể thúc nó đến nhanh hơn.
“Cha ơi,” cậu lên tiếng.
Từ bên kia đống lửa, cha khẽ cất tiếng rên trầm.
“Cha cho phép con giúp cha nhé? Ý con là xây nhà khách ấy?”
Khói cuộn tròn bay lên từ điếu thuốc của cha. Ông đang nhìn đăm đăm vào bóng tối.
“Cha ơi?”
Cha cựa mình trên tảng đá ông đang ngồi. “Cha nghĩ là con có thể giúp trộn vữa,” ông nói.
“Con không biết cách làm.”
“Cha sẽ chỉ cho con. Con sẽ học được thôi.”
“Thế còn con?” Pari hỏi.
“Con ư?” cha chậm rãi nói. Ông rít một hơi thuốc dài rồi lấy cành cây cời lửa. Rải rác những tia lửa nhỏ phơ phất bay lên vào bóng tối. “Con lo chuyện nước uống nhé. Đảm bảo rằng chúng ta không bao giờ bị khát. Vì người ta không thể làm việc được nếu khát.”
Pari im lặng.
“Cha nói đúng đấy,” Abdullah nói. Cậu biết Pari muốn làm việc nặng như lội xuống bùn, và rằng con bé thất vọng với nhiệm vụ mà cha giao cho. “Em mà không tiếp nước cho anh và cha thì chúng ta còn lâu mới xây xong nhà.”
Cha luồn cành cây vào bên dưới quai ấm, nhấc nó ra khỏi bếp. Ông đặt ấm sang bên cho nguội.
“Thế này đi,” ông nói. “Con cho cha thấy con có thể lo ổn thỏa chuyện nước uống thì cha sẽ tìm cho con việc khác.”
Pari nghếch cằm nhìn Abdullah, mặt nó sáng bừng với nụ cười răng thưa.
Cậu nhớ hồi nó còn bé, hồi nó còn ngủ trên ngực cậu, thi thoảng cậu mở mắt giữa đêm thì thấy nó lặng lẽ toét miệng cười với mình, hệt như lúc này.
Cậu chính là người đã nuôi nó. Đúng vậy. Dẫu bản thân cậu vẫn là một đứa trẻ. Mười tuổi. Khi Pari còn ẵm ngửa, cậu chính là người đêm hôm thức dậy vì tiếng quấy khóc và rên rỉ của nó, chính cậu phải bế nó đi rong và vỗ về nó trong bóng tối. Cậu thay tã bẩn cho nó. Cậu là người tắm cho Pari. Đó không phải việc của cha - cha là đàn ông - vả lại, công việc đã vắt kiệt sức của cha rồi. Parwana, dạo ấy đã mang thai Omar, tỉnh dậy chăm Pari thì còn mất thời gian chán. Dì chẳng bao giờ có sự kiên nhẫn hay sinh lực cả. Vậy là việc chăm sóc đổ lên vai Abdullah, nhưng cậu chẳng mảy may ngại ngần. Cậu vui vẻ làm. Cậu thích lắm khi được là người giúp em đi bước đầu tiên, sửng sốt trước từ đầu tiên em nói ra trong đời. Đó là mục đích của cậu, cậu tin thế, lý do mà Chúa tạo ra cậu, để cậu chăm sóc Pari khi Người đưa mẹ chúng đi.
“Baba ơi,” Pari nói. “Kể chuyện đi.”
“Muộn rồi,” cha nói.
“Đi mà.”
Cha vốn là người kiệm lời. Ông hiếm khi nói nhiều hơn hai câu liên tiếp. Nhưng thi thoảng, Abdullah không hiểu sao cha lại mở lòng và những câu chuyện đột ngột tuôn trào. Đôi khi ông để Abdullah và Pari ngồi say sưa trước mặt ông, trong khi Parwana xủng xoảng nồi xoong trong bếp, và kể cho chúng nghe những câu chuyện mà thuở bé ông được bà nội truyền lại, đưa chúng đến những vùng đất nơi các vị sultan*, jinn, div ác tâm, và những thầy tu Hồi giáo thông tuệ cư trú. Bận khác ông lại sáng tác chuyện. Ông sáng tác ngay tại chỗ, những câu chuyện của ông bộc lộ thứ khả năng tưởng tượng và mơ mộng luôn khiến Abdullah ngỡ ngàng. Cha chưa bao giờ đem lại cảm giác hiện hữu rõ rệt đến thế với Abdullah, sôi nổi, cởi mở, chân thực tới vậy khi ông kể chuyện, như thể những câu chuyện là những lỗ kim thâm nhập vào thế giới mờ đục, bí hiểm của ông.
Vua (ở các nước Hồi giáo).
Nhưng nhìn nét mặt cha là Abdullah biết tối nay sẽ chẳng có câu chuyện nào.
“Muộn rồi,” cha nhắc lại. Ông lót mép chiếc khăn đang choàng quanh vai vào quai ấm, nhấc lên rót cho mình một chén trà. Ông thổi khói rồi nhấp một ngụm, khuôn mặt bừng sắc cam trong ánh lửa. “Đến lúc ngủ rồi. Ngày mai dài đấy.”
Abdullah kéo chăn trùm đầu hai đứa. Dưới lớp chăn, cậu hát vào gáy Pari.
Tôi thấy một nàng tiên nhỏ buồn bã
Dưới bóng cây giấy.
Pari, đã lên cơn buồn ngủ, lờ đờ hát đoạn của mình.
Tôi biết một nàng tiên nhỏ buồn bã
Một đêm bị gió cuốn bay.
Gần như ngay lập tức, nó cất tiếng ngáy.
Lát sau Abdullah tỉnh giấc thì không thấy cha đâu cả. Cậu hoảng hốt ngồi dậy. Lửa đã gần vạc, chẳng còn lại gì ngoài mấy đốm tàn đỏ thẫm. Abdullah lia mắt sang trái rồi sang phải nhưng chẳng thể xuyên thấu bóng tối, vừa mênh mông vừa trùm phủ. Cậu cảm thấy mặt mình trắng bệch. Tim đập gấp gáp, cậu dỏng tai lên, nín thở.
“Cha ơi?” cậu thì thầm.
Lặng phắc.
Cơn hoảng loạn nhanh chóng bám sâu vào ngực cậu. Cậu ngồi im như tượng, người thẳng đơ, căng cứng, lắng nghe hồi lâu. Cậu chẳng nghe thấy gì. Chúng đơn độc, cậu và Pari, trong vòng vây bóng tối. Chúng bị bỏ rơi. Cha đã bỏ rơi chúng. Lần đầu tiên trong đời Abdullah cảm thấy sự mênh mang của sa mạc, và của thế giới. Người ta thật dễ lạc lối trong không gian ấy. Không có ai giúp đỡ, không có ai chỉ đường. Rồi một suy nghĩ tệ hơn chui vào đầu cậu. Cha đã chết. Ai đó đã cắt cổ cha. Bọn cướp. Chúng đã giết cha và giờ đang bao vây cậu và Pari, cứ từ từ, khoái trá, giở trò trêu đùa.
“Cha ơi?” cậu gọi lại, lần này giọng chói lói.
Không lời đáp.
“Cha ơi?”
Cậu gọi đi gọi lại, khí quản như bị bóp nghẹt. Cậu không biết mình đã gọi cha bao lâu và bao lần mà không có lời đáp nào từ bóng tối. Cậu hình dung ra những khuôn mặt, ẩn náu trong những ngọn núi phình ra từ đất, quan sát, nhăn nhở cười ác hiểm với cậu và Pari. Nỗi hoảng loạn xâm chiếm cậu, khiến lòng cậu thắt lại. Cậu bắt đầu run rẩy, và khẽ thút thít. Cậu cảm thấy mình chực thét lên.
Rồi có tiếng bước chân. Một dáng hình hiện ra từ bóng tối.
“Con tưởng cha đi rồi,” Abdullah run run nói.
Cha ngồi xuống bên đám lửa tàn.
“Nãy cha đi đâu thế?”
“Ngủ đi, thằng bé này.”
“Cha đừng bỏ chúng con. Đừng làm thế cha ơi.”
Cha nhìn cậu, nhưng trong bóng tối khuôn mặt cha nhòa mờ thành một biểu cảm mà Abdullah không đoán ra. “Con làm em thức bây giờ.”
“Đừng bỏ chúng con.”
“Đủ rồi đấy.”
Abdullah lại nằm xuống, ôm chặt em gái trong vòng tay, tim đập thình thịch.
Abdullah chưa bao giờ tới Kabul. Những gì cậu biết về Kabul đều là qua lời kể của bác Nabi. Cậu từng cùng cha đến mấy thị trấn nhỏ hơn làm thuê, nhưng chưa bao giờ đặt chân tới một thành phố thực sự, và chắc chắn không có gì trong lời kể của bác Nabi chuẩn bị tinh thần cho cậu trước sự hối hả tấp nập của một thành phố lớn và nhộn nhịp hơn hết thảy. Đâu đâu cậu cũng thấy đèn giao thông, quán trà, nhà hàng, cửa hiệu mặt tiền lắp kính với biển hiệu rực rỡ đủ màu. Ô tô chạy rầm rầm dọc các con phố đông đúc, lạng lách từng chút một giữa đám xe buýt, khách bộ hành và xe đạp. Những chiếc gari* ngựa kéo lóc cóc ngược xuôi đại lộ, bánh xe vành sắt nẩy trên đường phố. Những vỉa hè mà cậu đi qua cùng Pari và cha đông nghẹt người bán thuốc lá và kẹo cao su, quầy báo, những bác thợ rèn đóng móng ngựa. Ở các giao lộ, cảnh sát giao thông trong bộ đồng phục chẳng mấy vừa vặn thổi còi và ra các hiệu lệnh mà xem ra chẳng ai để ý.
Một loại xe súc vật kéo.
Với Pari gọn lỏn trong lòng, Abdullah ngồi trên ghế băng vỉa hè gần một hàng thịt, chia nhau món đậu hầm và chutney* ngò rí đựng trong chiếc đĩa thiếc mà cha mua cho chúng ở một quán cóc ven đường.
Món truyền thống của ẩm thực Nam Á, gồm các loại rau củ, gia vị, hoa quả trộn lẫn với nhau.
“Nhìn kìa, anh Abollah,” Pari vừa nói vừa chỉ một cửa hàng bên kia đường. Đứng sau cửa kính là một cô gái diện bộ váy thêu màu lục tuyệt đẹp đính kim sa hạt cườm nhỏ xíu. Cô quàng một chiếc khăn dài rất hợp, với trang sức bạc và quần màu huyết dụ. Cô đứng im phắc, thờ ơ nhìn khách qua đường mà không một lần chớp mắt. Cô còn không động đậy ngón tay trong khi Abdullah và Pari ăn hết món đậu, và sau đó cũng vẫn bất động. Dọc theo khối phố, Abdullah thấy một tấm áp phích khổng lồ rủ xuống từ mặt tiền một tòa nhà cao tầng. Trên đó có hình một cô gái Ấn Độ xinh xắn giữa cánh đồng tulip, đứng dưới cơn mưa tầm tã, nghịch ngợm thụp xuống sau một bungalow. Cô cười bẽn lẽn, chiếc sari ướt ôm sát các đường cong. Abdullah tự hỏi liệu đây có phải thứ mà bác Nabi gọi là rạp chiếu bóng, nơi người ta đến xem phim, và hy vọng rằng tháng sau bác Nabi sẽ dẫn cậu và Pari đi xem. Cậu toét miệng cười trước suy nghĩ ấy.
Ngay sau hồi chuông cầu kinh gióng lên từ một thánh đường lát đá xanh dương trên phố, Abdullah thấy bác Nabi tấp xe vào lề đường. Bác Nabi chui ra từ ghế lái, vận bộ com lê màu ô liu, cửa xe suýt đập phải một thanh niên mặc chapan* đi xe đạp, người này kịp tránh trong tích tắc.
Áo choàng.
Bác Nabi vội vòng qua đầu xe và ôm cha. Khi bác thấy Abdullah và Pari, khuôn mặt bác bừng nở nụ cười rạng rỡ. Bác khom người xuống cho vừa tầm chúng.
“Mấy đứa thấy Kabul thế nào?”
“Ồn quá ạ,” Pari nói, bác Nabi liền phá lên cười.
“Đúng vậy đấy. Nào, vào xe đi. Các cháu sẽ thấy nhiều thứ hơn từ trong xe đấy. Lau giày dép đã rồi hẵng vào. Saboor, chú ngồi đằng trước đi.”
Ghế sau mát, cứng, và có màu xanh nhạt hòa hợp với bề ngoài xe. Abdullah trượt sang phía cửa sổ đằng sau ghế lái và đỡ Pari ngồi vào lòng mình. Cậu thấy khách qua đường nhìn chiếc xe với vẻ ghen tị. Pari quay đầu sang anh, và chúng lại toét miệng cười với nhau.
Chúng ngắm thành phố lướt qua trong khi bác Nabi lái xe. Bác nói bác sẽ đi tuyến đường dài hơn để chúng có thể thấy một phần nhỏ Kabul. Bác chỉ một chỏm đồi mang tên Tapa Maranjan và một lăng mộ mái vòm trên đỉnh trông xuống thành phố. Bác nói rằng Nāder Shah*, cha của vua Zahir Shah, được chôn cất tại đây. Bác chỉ cho chúng pháo đài Bala Hissar trên đỉnh núi Koh-e-Shirdawaza, nơi người Anh đã sử dụng trong cuộc chiến tranh với Afghanistan lần hai, theo lời bác nói.
Shah là danh hiệu được trao cho các hoàng đế / vua / lãnh chúa Ba Tư (ND). Ở đây nhân vật được nói đến là vua của Afghanistan (Caruri).
“Cái gì kia hở bác Nabi?” Abdullah gõ gõ lên cửa kính, chỉ vào một tòa nhà hình chữ nhật lớn màu vàng.
“Silo đấy. Nhà máy bánh mì mới mở.” Bác Nabi lái xe bằng một tay đoạn rướn cổ ra sau nháy mắt với cậu. “Món quà từ những người bạn Nga của chúng ta.”
Một nhà máy làm bánh mì, Abdullah kinh ngạc, hình dung ra cảnh Parwana ở Shadbagh trát những phần bột được dàn mỏng vào thành chiếc tandoor làm từ bùn.
Cuối cùng, bác Nabi rẽ vào một con phố rộng rãi, sạch sẽ, hai bên đường là những cây bách cách đều nhau. Nhà ở đây thanh lịch và lớn hơn bất cứ ngôi nhà nào Abdullah từng thấy. Chúng có màu trắng, vàng, xanh nhạt. Phần lớn là nhà hai tầng, được bao quanh bởi những bức tường cao và khóa kín sau cánh cổng kim loại đôi. Abdullah nhận ra mấy chiếc xe như của bác Nabi đỗ dọc phố.
Bác Nabi đỗ tại lối vào được tô điểm với những bụi cây cắt tỉa gọn gàng. Bên kia lối vào là một ngôi nhà hai tầng quét vôi trắng hiện ra sừng sững đến khó tin.
“Nhà bác to quá,” Pari thốt lên, mắt mở to thích thú.
Đầu bác Nabi ngật ra sau vai khi bác cười. “Được thế thì tuyệt quá. Không, đây là nhà của ông chủ bác. Cháu sắp gặp họ rồi. Phải thật ngoan vào đấy.”
Ngôi nhà trông còn ấn tượng hơn khi bác Nabi dẫn Abdullah, Pari và cha vào trong. Abdullah ước chừng nó đủ lớn để chứa ít nhất nửa số nhà ở Shadbagh. Cậu cảm giác như bước vào cung điện của div vậy. Khu vườn, nằm tít phía sau, được tạo kiểu tuyệt đẹp, với những luống hoa đủ màu cắt tỉa gọn gàng, những bụi cây cao đến đầu gối và chi chít cây ăn quả - Abdullah nhận ra anh đào, táo, mơ và lựu. Một khoảng thềm lợp mái dẫn từ nhà ra vườn - bác Nabi bảo rằng nó được gọi là sân hiên - và được bao quanh bởi một hàng rào thấp phủ chằng chịt dây leo xanh mướt. Trên đường tới căn phòng nơi ông bà Wahdati đang đợi họ đến, Abdullah nhìn thấy buồng tắm với bồn cầu bằng gốm mà bác Nabi từng kể với chúng, cũng như bồn rửa tay sáng lấp lánh với vòi nước màu đồng. Abdullah, đứa trẻ tuần nào cũng mất hàng tiếng ròng xách nước từ cái giếng chung ở Shadbagh, ngỡ ngàng xiết bao trước cuộc sống nơi nước ở ngay trong tầm tay.
Giờ họ ngồi trên một chiếc đi văng đồ sộ có tua rua bằng vàng, Abdullah, Pari và cha. Những chiếc gối tựa êm ái sau lưng họ điểm những hạt kim sa nhỏ xíu hình bát giác. Bên kia đi văng là một bức tranh choán gần hết tường. Trong tranh là một người thợ khắc đá lớn tuổi gò lưng bên bàn thợ, cầm dùi đục đẽo một khối đá. Rèm cửa xếp nếp màu đỏ tía khoác lên những cánh cửa sổ rộng rãi lúc này đang mở ra một ban công với lan can sắt cao ngang thắt lưng. Mọi thứ trong căn phòng này đều bóng loáng, không một hạt bụi.
Chưa bao giờ trong đời Abdullah thấy rõ sự bẩn thỉu của chính mình đến thế.
Ông chủ của bác Nabi, ông Wahdati, ngồi trên chiếc ghế da, khoanh tay trước ngực. Ông nhìn họ với thái độ không hẳn là thiếu thân thiện nhưng xa cách, khó đoán biết. Ông cao hơn cha; Abdullah đã nhận thấy điều đó ngay khi ông đứng lên chào họ. Ông có bờ vai hẹp, môi mỏng, và vầng trán cao bóng lưỡng. Ông mặc com lê trắng, thắt lại ở phần eo, với sơ mi màu lục cổ mở mà cổ tay áo được cài kín bằng những viên đá xanh dương hình bầu dục. Suốt buổi gặp, ông không nói quá chục từ.
Pari nhìn xuống đĩa bánh quy trên chiếc bàn thủy tinh trước mặt họ. Abdullah chưa bao giờ tưởng tượng trên đời lại có nhiều loại bánh đến vậy. Bánh quy sô cô la hình ngón tay với lớp kem xoăn, bánh tròn nhỏ nhân cam, bánh xanh lục hình thù như chiếc lá, và còn nhiều nữa.
“Cháu muốn thử không?” bà Wahdati nói. Bà là người gánh hết nhiệm vụ trò chuyện. “Ăn đi. Cả hai cháu. Bác mang ra cho các cháu đấy.”
Abdullah quay sang cha xin phép, Pari cũng làm theo. Điều này có vẻ khiến bà Wahdati thích thú, bà nhíu mày, nghiêng đầu, và mỉm cười.
Cha gật nhẹ. “Mỗi đứa một cái,” ông khẽ nói.
“Ôi, thế sao được,” bà Wahdati nói. “Tôi đã bảo Nabi đi nửa vòng Kabul đến hiệu bánh này mua về đấy.”
Cha ngại ngùng ngoảnh đi. Ông ngồi trên mép đi văng, hai tay vò chiếc mũ chỏm rách nát. Ông nghiêng đầu gối tránh bà Wahdati và hướng sự chú ý vào chồng bà.
Abdullah nhón tay lấy hai chiếc bánh và đưa một chiếc cho Pari.
“Lấy nữa đi nào. Chúng ta không muốn Nabi nhọc công vô ích đâu,” bà Wahdati mắng yêu. Bà mỉm cười với bác Nabi.
“Có gì nhọc công đâu ạ,” bác Nabi đỏ mặt.
Bác Nabi đang đứng gần cửa, cạnh một tủ gỗ cao lắp kính dày. Trên các ngăn bên trong, Abdullah thấy những bức ảnh chụp ông bà Wahdati lồng khung bạc. Họ đây, bên một cặp đôi khác, choàng khăn dày và áo khoác nặng nề, sau lưng là một dòng sông chảy sủi bọt. Trong một bức ảnh khác, bà Wahdati cầm một chiếc ly, cười tươi, cánh tay trần khoác eo một người đàn ông mà, Abdullah không sao thể tưởng tượng được, không phải ông Wahdati. Có cả ảnh cưới của họ nữa, ông cao ráo bảnh bao trong bộ com lê đen, bà diện váy trắng thướt tha, cả hai đều cười mỉm.
Abdullah lén liếc nhìn bà, nhìn bờ eo mảnh mai, khuôn miệng nhỏ xinh và đôi mày cong hoàn mỹ, móng chân hồng và son môi tiệp màu. Cậu nhớ đã gặp bà hai năm trước, khi Pari gần hai tuổi. Bác Nabi đã đưa bà tới Shadbagh vì bà nói là muốn gặp gia đình bác. Hôm ấy bà mặc bộ váy không tay màu đào - cậu vẫn nhớ vẻ mặt sững sờ của cha - và đeo chiếc kính mát đen có gọng dày màu trắng. Bà mỉm cười suốt, hỏi han về ngôi làng, cuộc sống của họ, hỏi tên tuổi lũ trẻ. Bà cư xử như thể bà thuộc về căn nhà trát bùn trần thấp của họ, lưng dựa vào bức vách lấm muội đen sì, ngồi bên cửa sổ lốm đốm vết phân ruồi và tấm mành nhựa hoen ố ngăn gian chính với bếp, cũng là chỗ ngủ của Abdullah và Pari. Bà đã thể hiện một màn thăm hỏi ra trò, nhất quyết bỏ đôi giày cao gót ngoài cửa, chọn sàn nhà khi cha tế nhị mời bà ngồi ghế. Như một người bọn họ. Hồi đó Abdullah mới tám tuổi, nhưng đã nhìn thấu sự việc.
Điều mà Abdullah nhớ nhất về chuyến thăm là Parwana - dạo ấy đã mang thai Iqbal - cứ thu mình lại, lặng người ngồi trong góc, co co quắp quắp. Dì ngồi đó với đôi vai so lại, chân nhét dưới bụng bầu, như đang cố nhòa lẫn vào tường. Khuôn mặt dì được che sau tấm mạng bẩn. Dì nắm mớ vải rúm ró dưới cằm. Abdullah gần như thấy nỗi tủi nhục bốc lên trong dì như hơi nước, thấy niềm xấu hổ, cảm nhận được dì cảm thấy mình nhỏ bé chừng nào, và lòng cậu trào lên một nỗi cảm thông đáng ngạc nhiên với bà mẹ kế của mình.
Bà Wahdati với lấy cái bao kế bên đĩa bánh và châm cho mình một điếu thuốc.
“Chúng tôi đã chọn một con đường vòng khá dài, và tôi đã cho họ thấy một phần nhỏ thành phố,” bác Nabi nói.
“Tốt! Tốt!” bà Wahdati thốt lên. “Anh đã bao giờ tới Kabul chưa, Saboor?”
Cha đáp, “Độ một hai lần, thưa Bibi* Sahib.”
Cách gọi tôn trọng phụ nữ trong tiếng Ba Tư.
“Vậy xin hỏi, anh có ấn tượng thế nào?”
Cha nhún vai, “Đông quá.”
“Phải.”
Ông Wahdati nhặt mẩu xơ vải trên tay áo khoác rồi nhìn xuống thảm.
“Đông, phải rồi, và đôi khi còn gây mệt mỏi nữa,” vợ ông nói.
Cha gật đầu như thể ông hiểu.
“Kabul là một hòn đảo, thật vậy. Có người nói nơi đây tiến bộ, có lẽ đúng. Theo tôi thì tạm đúng, nhưng nó cũng cách biệt với phần còn lại của đất nước.”
Cha nhìn xuống chiếc mũ chỏm trong tay và chớp mắt.
“Đừng hiểu lầm tôi,” bà nói. “Tôi toàn tâm toàn ý ủng hộ bất cứ cải cách nào mà thành phố này mang lại. Chúa biết là đất nước này có thể tận dụng điều đó. Tuy nhiên, đôi khi nó hơi quá phô trương so với gu của tôi. Tôi thề đấy, sự xa hoa ở chốn này.” Bà thở dài. “Đúng là ngày càng khiến người ta mệt mỏi. Bản thân tôi luôn ngưỡng mộ vùng thôn quê. Tôi yêu mến nơi ấy vô cùng. Những tỉnh lỵ xa xôi, những qaria - ngôi làng nhỏ. Một Afghanistan đích thực, có thể coi như vậy.”
Cha ngập ngừng gật đầu.
“Tôi có thể không tán đồng tất cả hoặc thậm chí phần lớn những truyền thống bộ lạc, nhưng xem ra tôi thấy sống ngoài đó thật hơn. Ở họ có sự vững vàng. Cung cách khiêm nhường khác lạ. Cả lòng hiếu khách nữa. Tính kiên cường. Niềm kiêu hãnh. Em dùng từ đúng không, Suleiman? Kiêu hãnh?”
“Thôi đi, Nila,” chồng bà khẽ lên tiếng.
Bầu im lặng đặc quánh trùm xuống sau câu nói của ông. Abdullah nhìn ông Wahdati gõ ngón tay lên tay ghế, còn vợ ông thì mỉm cười cứng nhắc, một vệt son hồng lem trên đầu thuốc lá, chân bà bắt tréo nơi mắt cá, khuỷu tay đặt trên tay ghế.
“Chắc không đúng từ rồi,” bà nói, phá vỡ im lặng. “Có lẽ là lòng tự trọng.” Bà mỉm cười, khoe hàm răng trắng tinh thẳng tắp. Abdullah chưa bao giờ thấy một hàm răng như vậy. “Đúng rồi. Hay hơn nhiều. Người dân quê rất tự trọng. Họ mang nó trên người phải không? Như một tấm huy hiệu? Tôi thật lòng đấy. Tôi thấy điều đó ở anh, Saboor à.”
“Cảm ơn, Bibi Sahib,” cha lí nhí, cựa mình trên ghế, vẫn nhìn xuống chiếc mũ chỏm.
Bà Wahdati gật đầu. Bà quay sang nhìn Pari. “À, cho phép bác nói câu này nhé, cháu đáng yêu quá.” Pari nhích lại gần Abdullah hơn.
Khoan thai, bà Wahdati cất giọng đọc, “Hôm nay tôi đã gặp một khuôn mặt diễm kiều, mỹ lệ, duyên dáng vô ngần mà mình tìm kiếm bấy lâu.” Bà mủn cười. “Rumi*. Cháu có biết ông ấy không? Cháu sẽ thấy ông ấy sáng tác bài này dành riêng cho cháu, cháu yêu.”
Rumi (1207-1273): nhà thần học, nhà thơ vĩ đại sinh ra tại Balkh, nay thuộc Afghanistan.
“Bà Wahdati là một nhà thơ tài hoa,” bác Nabi nói.
Bên kia phòng, ông Wahdati với lấy một cái bánh, bẻ đôi, rồi cắn một miếng nhỏ.
“Nabi, anh thật khéo miệng,” bà Wahdati nói, trao cho bác một ánh nhìn ấm áp. Abdullah lại bắt gặp sắc hồng ửng lên trên má bác Nabi.
Bà Wahdati dụi điếu thuốc, day mạnh đầu mẩu thuốc lá vào gạt tàn vài lần. “Tôi dẫn lũ trẻ đi đâu đó nhé?” bà hỏi.
Ông Wahdati trút một hơi thở bực dọc, đập cả hai lòng bàn tay vào tay ghế, ra vẻ định đứng dậy, dù không phải.
“Tôi sẽ đưa chúng ra chợ,” giờ bà Wahdati nói với cha. “Nếu anh đồng ý, Saboor. Nabi sẽ chở chúng tôi đi. Suleiman có thể dẫn anh đến nơi thi công sau nhà. Để anh tự mình xem thế nào.”
Cha gật đầu.
Ông Wahdati chầm chậm khép mắt lại.
Họ đứng lên chuẩn bị đi.
Bỗng nhiên, Abdullah ước gì cha sẽ cảm ơn những người này vì món bánh quy và trà, rồi nắm tay cậu và Pari rời khỏi ngôi nhà này, khỏi đám tranh, rèm cũng như sự tiện nghi và xa hoa vô độ của nó. Họ có thể đổ đầy nước vào bi đông, mua bánh mì và mấy quả trứng luộc, và trở lại con đường đã đưa họ đến đây. Trở về qua sa mạc, những tảng đá, những ngọn đồi, cha lại kể chuyện cho chúng nghe. Họ sẽ thay phiên nhau kéo Pari ngồi trong xe. Và trong vòng hai hoặc ba ngày, dù phổi bám bụi và tứ chi rã rời, họ cũng sẽ trở lại Shadbagh. Shuja sẽ thấy họ về và cuống quýt chạy tới, nhảy cẫng quanh Pari. Họ sẽ ở nhà.
Cha nói, “Đi đi, các con.”
Abdullah tiến lên một bước, định nói gì đó, nhưng bàn tay thô kệch của bác Nabi đã đặt lên vai cậu, xoay cậu lại, bác Nabi vừa dẫn cậu đi dọc hành lang vừa nói, “Đợi mà xem chợ ở đây thế nào nhé. Các cháu chưa thấy nơi nào như vậy đâu, cả hai đứa.”
Bà Wahdati ngồi cùng chúng ở ghế sau, không khí nồng nàn hương nước hoa của bà và một mùi gì đó mà Abdullah không nhận ra, thứ mùi ngọt ngào, hơi gắt. Bà hỏi chúng hết câu này đến câu khác trong khi bác Nabi lái xe. Bạn chúng là những ai? Chúng có đi học không? Các câu hỏi về việc nhà, hàng xóm, những trò chúng chơi. Nắng chiếu xuống phần mặt phải của bà. Abdullah có thể thấy những sợi lông tơ trên má bà và đường viền mờ của lớp trang điểm bên dưới quai hàm bà.
“Cháu có một con chó,” Pari nói.
“Thế à?”
“Nó là một con chó hết sảy đấy,” bác Nabi nói từ ghế trước.
“Tên nó là Shuja. Lúc nào cháu buồn là nó đều biết.”
“Chó là thế mà,” bà Wahdati nói. “Về điểm đó chúng giỏi hơn một số người mà bác từng gặp.”
Họ lái xe qua một tốp ba cô nữ sinh trung học nhảy chân sáo dọc vỉa hè. Họ vận đồng phục đen với khăn trắng thắt dưới cằm.
“Bác biết vừa nãy mình nói gì, nhưng Kabul không tệ đến mức ấy đâu,” bà Wahdati lơ đãng vân vê chuỗi vòng cổ. Bà đang nhìn ra ngoài cửa sổ, nét mặt u buồn. “Ở đây bác thích nhất là lúc cuối xuân, sau những cơn mưa. Không khí thật trong lành. Khúc dạo đầu của mùa hè. Cái cách nắng chiếu xuống núi.” Bà mỉm cười uể oải. “Có đứa trẻ trong nhà thì tốt. Ồn ào một chút, để thay đổi không khí. Có sức sống một chút.”
Abdullah nhìn bà và cảm thấy có gì đó đáng báo động ở người phụ nữ này, bên dưới lớp trang điểm và nước hoa và vẻ mong cầu cảm thông, có gì đó vụn vỡ. Cậu thấy mình nghĩ về mùi khói bếp của Parwana, cái kệ bếp bừa bãi chai lọ, những chiếc đĩa không đồng bộ và xoong nồi nhem nhuốc. Cậu nhớ tấm đệm dùng chung với Pari, dù nó bẩn, và mớ lò xo lúc nào cũng chỉ chực lòi ra. Cậu nhớ tất cả những thứ đó. Chưa bao giờ trong đời cậu nhớ nhà da diết đến vậy.
Bà Wahdati thở dài ngồi lút vào ghế, ấp chiếc ví vào lòng như bà bầu ôm cái bụng to tròn.
Bác Nabi tấp vào một vỉa hè đông đúc. Bên kia đường, cạnh một thánh đường với những ngọn tháp cao vút là chợ, được tạo thành từ mê cung các lối đi hẹp chật cứng như nêm, cả mái vòm lẫn lộ thiên. Họ thong thả đi qua những lối đi đầy quầy hàng bán áo khoác da, nhẫn nạm ngọc và đá màu mè, cùng gia vị đủ mọi chủng loại, bác Nabi đi sau, bà Wahdati và hai anh em chúng đi trước. Giờ đã ra ngoài, bà Wahdati bèn đeo chiếc kính mát khiến mặt bà trông giống mèo đến kỳ quặc.
Tiếng mặc cả oang oang khắp nơi. Tiếng nhạc ầm ĩ vọng ra từ hầu hết mọi quầy hàng. Họ đi qua những quầy bán sách, đài, đèn bàn, nồi xoong màu bạc. Abdullah thấy hai người lính đi đôi ủng bụi bặm và mặc áo khoác màu nâu sẫm vừa hút chung điếu thuốc vừa quan sát mọi người với vẻ thờ ơ chán chường.
Họ ghé vào một sạp giày. Bà Wahdati bới tung hàng dãy giày bày trên mấy chiếc thùng ra. Bác Nabi đi vu vơ sang quầy bên cạnh, tay chắp sau lưng, khinh bỉ nhìn xuống mấy đồng xu cũ kỹ.
“Đôi này thế nào?” bà Wahdati nói với Pari. Bà giơ một đôi giày thể thao màu vàng mới tinh lên.
“Xinh quá ạ,” Pari nói, nhìn đôi giày vẻ ngỡ ngàng.
“Cháu thử đi.”
Bà Wahdati giúp Pari xỏ chân vào giày, kéo quai, cài khóa cho nó. Bà hé mắt nhìn Abdullah qua cặp kính. “Cháu cũng chọn một đôi đi. Bác thật không tin nổi là cháu đi đôi dép quai hậu đó suốt cả quãng đường từ làng cháu đến đây.”
Abdullah lắc đầu ngoảnh đi. Cuối lối đi, một ông già với chòm râu bờm xờm và đôi chân khoèo xin người qua lại bố thí.
“Nhìn này, anh Abollah!” Pari giơ một chân lên, rồi đến chân kia. Nó giậm chân xuống đất, nhảy tưng tưng. Bà Wahdati gọi bác Nabi lại và bảo bác dẫn Pari đi dọc lối nhỏ, xem có êm chân không. Bác Nabi nắm tay Pari dẫn đi.
Bà Wahdati nhìn xuống Abdullah.
“Cháu nghĩ bác là người xấu,” bà nói. “Cách nói năng của bác lúc trước ấy.”
Abdullah nhìn Pari và bác Nabi đi qua ông già ăn xin khoèo chân. Ông nói gì đó với Pari, Pari lại ngước mặt lên nói gì đó với bác Nabi, và bác Nabi bèn thảy cho ông một đồng xu.
Abdullah bắt đầu khóc không thành tiếng.
“Ôi, cháu ngoan,” bà Wahdati nói, giật mình. “Cháu yêu tội nghiệp.” Bà lấy khăn tay từ ví ra đưa cho cậu.
Abdullah gạt đi. “Xin bác đừng làm thế,” cậu nói, giọng vỡ vụn.
Giờ bà khom người bên cậu, kính gài lên tóc. Mắt bà cũng ướt, và khi bà chấm khăn lên mắt, nó bị lem mấy vết màu đen. “Bác không trách cháu nếu cháu có ghét bác. Đó là quyền của cháu. Nhưng - giờ bác không mong cháu hiểu - thế này là tốt nhất. Thật đấy, Abdullah. Thế này tốt nhất. Có ngày cháu sẽ hiểu.”
Abdullah ngửa mặt lên trời rên rỉ vừa đúng lúc Pari nhảy chân sáo lại phía cậu, đôi mắt ngập tràn biết ơn, khuôn mặt sáng bừng hạnh phúc.
Một sáng mùa đông năm ấy, cha lấy rìu đốn cây sồi khổng lồ. Con trai của giáo sĩ Shekib, Baitullah, và vài người đàn ông nữa cùng giúp cha. Không ai tìm cách can thiệp. Abdullah đứng bên mấy thằng bé khác nhìn họ. Điều đầu tiên cha làm là hạ chiếc xích đu xuống. Cha trèo lên cây dùng dao cứa đứt sợi thừng. Rồi ông và những người đàn ông khác đốn cái thân cây đồ sộ đến tận chiều muộn, khi cái cây già nua cuối cùng cũng đổ xuống với một tiếng rắc lớn não nề. Cha bảo Abdullah rằng họ cần củi cho mùa đông. Nhưng ông đã thô bạo vung rìu vào cái cây già nua, với quai hàm siết chặt và khuôn mặt tối sầm như thể ông không thể chịu nổi nhìn nó thêm chút nào nữa.
Lúc này, bên dưới bầu trời xám xịt màu đá, những người đàn ông đang xẻ cái thân cây đổ, mũi và má họ đỏ bừng trong giá lạnh, tiếng rìu bổ vào gỗ dội lại trống rỗng. Xa hơn đằng ngọn cây, Abdullah bẻ những cành nhỏ khỏi những cành lớn. Trận tuyết đầu tiên của mùa đông đã đổ xuống cách đây hai ngày. Không dày lắm, chưa đến lúc, chỉ là báo hiệu cho những gì sắp tới. Sớm thôi, mùa đông sẽ tràn về Shadbagh, mùa đông cùng các cột băng, những đụn tuyết cả tuần mới tan và những cơn gió làm nứt nẻ da mu bàn tay trong đúng một phút. Còn bây giờ, màu trắng trên đất mới chỉ thưa thớt, lỗ chỗ những đốm đất nâu nhạt rải từ đây tới sườn đồi.
Abdullah gom một ôm cành cây gầy guộc và mang đến chồng củi chung càng lúc càng cao thêm gần đó. Cậu đang đi đôi ủng lội tuyết mới, đeo găng tay và mặc áo khoác mùa đông. Đó là áo cũ, nhưng ngoại trừ cái phéc mơ tuya hỏng mà cha đã sửa lại thì nó còn tốt như mới - độn dày, xanh lam đậm, với lớp lông lót màu cam. Nó có bốn túi sâu đóng mở bằng khuy bấm và chiếc mũ chần bông ôm quanh mặt Abdullah khi cậu thắt dây lại. Giờ thì cậu hất mũ ra khỏi đầu và trút một hơi thở dài đầy khói.
Vầng dương đang hạ dần xuống chân trời. Abdullah vẫn có thể nhìn ra chiếc cối xay gió cũ, cái bóng sừng sững và xám xịt trùm xuống những bức vách bùn trong ngôi làng. Mỗi khi có gió lạnh từ trên đồi thổi xuống là cánh quạt lại kẽo kẹt rên rỉ. Cối xay gió chủ yếu là nơi trú ngụ của lũ diệc xanh trong hè, nhưng giờ đông đã về, lũ diệc đi hết và quạ liền chiếm chỗ. Mỗi sáng, Abdullah lại bị đánh thức bởi tiếng kêu quang quác quàng quạc chói tai của chúng.
Có gì đó thu hút ánh mắt cậu, bên tay phải, dưới đất. Cậu đi về phía đó và quỳ xuống.
Một chiếc lông vũ. Nhỏ xíu. Sắc vàng.
Cậu bỏ một chiếc găng tay ra mà cầm nó lên.
Tối nay họ sẽ đi dự lễ, cậu, cha cậu, và đứa em trai cùng cha khác mẹ, Iqbal. Con trai của Baitullah mới chào đời. Một motreb* sẽ hát cho những người đàn ông nghe, và ai đó sẽ vỗ trống lục lạc. Có trà và bánh mì mới nướng nóng hổi và shorwa* khoai tây. Sau đó, giáo sĩ Shekib sẽ nhúng một ngón tay vào bát nước đường rồi cho đứa trẻ mút. Ông sẽ lấy viên đá đen bóng loáng và chiếc dao cạo hai lưỡi ra, nhấc miếng vải trên bụng thằng bé lên. Một nghi thức thông thường. Cuộc sống vẫn chảy trôi ở Shadbagh.
Nhạc sĩ chuyên chơi những ca khúc có tiết tấu nhanh trong các dịp lễ tiệc.
Món xúp truyền thống của người Afghanistan. Nguyên liệu chủ yếu là khoai tây, thịt và đậu, thường được dùng kèm với bánh mì.
Abdullah lật chiếc lông vũ lại trong tay.
Cha không cho phép một giọt nước mắt nào rỏ xuống, cha đã nói thế. Không được khóc. Cha không cho phép.
Và cũng chẳng có thật. Không ai ở làng hỏi thăm Pari. Thậm chí không ai nhắc đến tên nó. Abdullah sững sờ khi thấy con bé lại biến mất hoàn toàn khỏi cuộc sống của họ như vậy.
Abdullah chỉ tìm thấy nỗi đau của chính mình phản chiếu ở Shuja. Ngày nào chú chó cũng xuất hiện bên cửa nhà họ. Parwana ném đá vào nó. Cha cầm cành cây đuổi đánh nó. Nhưng nó vẫn trở lại. Đêm đêm cậu nghe thấy nó tru não nùng và sáng sáng họ lại bắt gặp nó nằm bên cửa, cằm gối lên chân trước, chớp mắt nhìn người đánh đuổi mình với cặp mắt buồn đau, không trách cứ. Chuyện đó diễn ra hàng tuần liền cho đến một sáng nọ, Abdullah thấy nó lê chân về phía ngọn đồi, đầu rũ xuống. Kể từ ấy không ai ở Shadbagh thấy nó nữa.
Abdullah nhét chiếc lông vũ vàng vào túi và khởi bước về phía cối xay gió.
Đôi khi, cậu vô tình thấy cha rầu rầu nét mặt, chìm trong những sắc thái cảm xúc lẫn lộn. Với cậu, giờ nom cha teo tóp hẳn lại, như bị tước mất một thứ thiêng liêng. Ông lờ đờ đi lại quanh nhà, không thì cũng ngồi trong hơi ấm của cái lò sưởi gang to mới tinh, với Iqbal bé bỏng trong lòng, đờ đẫn nhìn ngọn lửa. Giọng ông trở nên lè nhè theo cái cách mà Abdullah không nhớ nổi, như thể có gì đó đè nặng lên từng lời ông nói. Ông thu mình vào những khoảng lặng dài đằng đẵng, nét mặt kín bưng. Ông không còn kể chuyện nữa, không còn kể từ khi ông và Abdullah trở về từ Kabul. Có lẽ, Abdullah nghĩ, cha cũng đã bán nàng thơ của mình cho nhà Wahdati mất rồi.
Xa khuất.
Biến mất.
Chẳng còn lại gì.
Chẳng lời nào được nói ra.
Ngoại trừ những lời thốt ra từ miệng Parwana: Phải là con bé. Dì rất tiếc, Abdullah. Phải là con bé.
Cắt một ngón tay, để bảo vệ cả bàn tay.
Cậu quỳ xuống khoảng đất đằng sau cối xay gió, dưới chân ngọn tháp đá mục nát. Cậu cởi găng tay ra đào đất. Cậu nghĩ đến đôi mày rậm, vầng trán tròn rộng và nụ cười răng thưa của con bé. Đầu cậu văng vẳng tiếng cười lảnh lót vang khắp nhà thuở trước. Cậu nghĩ về cảnh hỗn loạn nổ ra khi họ từ chợ về. Pari hoảng loạn. Gào thét. Bác Nabi vội đưa con bé đi. Abdullah đào mãi cho đến khi ngón tay cậu chạm vào lớp kim loại. Rồi xoay xở nhấc hộp trà bằng thiếc từ dưới cái lỗ lên. Cậu gạt lớp đất lạnh khỏi nắp.
Gần đây, cậu nghĩ rất nhiều về câu chuyện cha kể cho chúng vào đêm trước chuyến đi Kabul, về người nông dân già nua Baba Ayub và div. Abdullah cứ thấy mình ở đúng chỗ Pari từng đứng, sự biến mất của con bé như một thứ mùi bốc lên từ lớp đất dưới chân, và chân cậu liền bủn rủn, lòng se lại, và cậu thèm được uống thứ thuốc lú mà div đã đưa cho Baba Ayub để giúp ông quên đi mọi sự.
Nhưng không thể nào quên được. Pari cứ quanh quẩn, tự nhiên xuất hiện nơi khóe mắt Abdullah ở mỗi nơi cậu đến. Con bé như hạt bụi bám vào áo cậu. Con bé ở trong cơn im lặng đã trở nên quá thường xuyên ở nhà, những cơn im lặng cứ trào lên giữa từng lời họ nói, đôi khi lạnh lẽo trống rỗng, đôi khi chất chứa những điều không được nói ra, như một đám mây trĩu nặng chẳng bao giờ chịu đổ mưa. Có những đêm cậu mơ thấy mình lại ở sa mạc, đơn độc, bao quanh là núi, xa xa có một ánh lửa nhỏ cứ chớp, tắt, chớp, tắt, như một thông điệp.
Cậu mở hộp trà ra. Chúng đều ở đó, đám lông vũ của Pari, nào lông gà trống, vịt, bồ câu; cả sợi lông công ấy nữa. Cậu thảy chiếc lông vàng vào hộp. Một ngày nào đó, cậu nghĩ.
Hy vọng.
Cuộc đời cậu ở Shadbagh được đếm từng ngày, như của Shuja vậy. Giờ thì cậu đã biết. Ở đây chẳng còn gì cho cậu. Ở đây cậu không có gia đình. Cậu sẽ đợi cho đến khi đông tàn và đất trời vào độ xuân ấm, một sáng cậu sẽ dậy trước lúc bình minh và bước ra khỏi cửa. Cậu sẽ chọn một hướng mà lên đường. Cậu sẽ đi xa khỏi Shadbagh đến chừng nào chân cậu còn chịu được. Và nếu một ngày, trong khi cuốc bộ qua một cánh đồng bát ngát, nỗi tuyệt vọng xâm chiếm lòng cậu thì cậu sẽ dừng bước, nhắm mắt lại nghĩ về chiếc lông chim cắt mà Pari đã tìm thấy ở sa mạc. Cậu sẽ hình dung chiếc lông rụng từ thân con chim, bay cao tít lên mây, cách mặt đất gần một cây số, xoay tít và cuồng quay trong luồng khí mạnh, bị những cơn gió dữ cuốn qua hàng cây số sa mạc và núi non, để cuối cùng hạ cánh, chính tại nơi này, bất chấp mọi nghịch cảnh, dưới chân chính tảng đá ấy cho em gái cậu tìm thấy. Cậu sẽ thấy ngỡ ngàng, và rồi, cả hy vọng nữa, khi những việc như vậy lại xảy ra. Và dẫu có thừa biết, cậu vẫn sẽ cảm thấy can đảm, và cậu sẽ mở mắt ra mà bước tiếp.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Và Rồi Núi Vọng
Khaled Hosseini
Và Rồi Núi Vọng - Khaled Hosseini
https://isach.info/story.php?story=va_roi_nui_vong__khaled_hosseini