Chương 3
hủ khách sạn Johnson tự hào là ông ta không hề lắp đặt hệ thống sưởi trung tâm lẫn đèn điện mà chỉ có đống lửa lớn đốt bằng củi trong lò sưởi đại sảnh, có những chân nến bằng bạc đang chiếu sáng lập loè trên bàn phòng ăn, có những người phục vụ im lặng và kính cẩn, và khách đến đây cảm thấy rằng - đối với những người phục vụ ấy - khách là một con người chứ không phải là một con số. Tôi yêu cầu quản lý nhà hàng chuẩn bị cho tôi bữa tối trong phòng ăn riêng nhỏ này; tôi thích những tấm vách ván gỗ sồi màu nhạt ở đó, và bước vào đây lúc khoảng bảy giờ, tôi ngỡ ngàng vì một cảm giác thân mật đến lạ lùng. Trên mặt bàn gỗ đào hoa tâm và một lọ hoa thủy tiên được chiếu sáng dưới ánh nến dịu dàng. Khi James đến một lát sau, tôi thích thú thấy anh cũng hưởng ứng lối bài trí đơn giản mà hấp dẫn này.
– A! - Anh vừa nói vừa đứng sưởi ấm hai bàn tay trước lò sưởi. - Phải cần tới một người Pháp mới khám phá được cái ngóc ngách London cổ xưa ngay giữa London. Anh có ý tưởng đúng là hay quá! Tôi đang cần nghỉ ngơi, thư giãn hết sức... Nói đúng ra, tôi không điều trị bệnh nhân ngoại trú, nhưng vào những ngày thứ Hai thì danh sách khám bệnh đầy ắp nên tôi phải giúp các đồng nghiệp một tay, nếu được.
– Tại sao vào thứ Hai thì lại nhiều bệnh nhân hơn?
– Ồ, dễ hiểu thôi mà! Ở những khu dân nghèo của chúng tôi, thứ Hai là ngày người thu tiền đến nhà thu tiền thuê trọ hàng tuần. Đám phụ nữ thường kiếm cớ đi vắng, và để có lý do họ đưa lũ trẻ đi theo đến chỗ chúng tôi. Hôm nào anh phải thấy cái cảnh đó mới được; thật không tin nổi! Bọn họ có người bỏ mặc đám trẻ ranh của họ trên các băng ghế rồi đi uống bia ở quán bên kia đường. Sau khi khám bệnh xong phải đi tìm họ lôi về, người nào cũng gật gà vì bia, và buộc họ phải xem đứa nào là con họ trong đám trẻ đã bỏ lại đó... Ngoài ra, còn có những vụ tai nạn, ẩu đả trong ngày Chủ Nhật, và tất nhiên các bệnh nhân của tôi nữa... Đó là một ngày vất vả.
– Ngồi xuống đi, James... Chúng ta sẽ cố gắng xua hình ảnh bệnh viện ra khỏi tâm trí anh. Anh có nhớ loại rượu Burgundy mình thường uống hồi ở Amiens không? Tôi đã gọi đúng loại rượu đó.
Những kỷ niệm thời chiến chiếm hết cuộc chuyện trò lúc dùng món xúp, rồi James lại đâm ra ít nói không sao khơi chuyện được. Tôi nhớ ngày trước anh thường thoát khỏi những cơn lơ đãng như vậy bằng một lời gì đó ngược đời gây kinh ngạc - chính những câu độc đáo kiểu ấy khiến tôi quý mến anh. Cho nên tôi cũng im lặng và chờ đợi.
– Nói tôi nghe, - anh đột ngột lên tiếng. - Có một điều tôi chưa từng hỏi anh... ngay cả những lúc lẽ ra có nêu câu hỏi ấy thì là chuyện rất đương nhiên. Anh có tin vào sự bất tử của linh hồn không?
Tôi hơi bất ngờ, nhưng rất hài lòng, vì với câu mào đầu bất thình lình này thì một lần nữa tôi lại nhìn thấy đúng anh bạn James trong ký ức của mình. Tôi ngẫm nghĩ một lúc.
– Hỏi gì mà lạ thế! - Tôi nói. - Anh biết mà, hay đúng hơn là anh đã từng biết, quan niệm của tôi về chuyện siêu hình là... tôi tin mình có thể nhìn thấy trong tự nhiên những dấu vết của một trật tự, một sự sắp đặt... một phản ánh của tính thiêng liêng, anh nói thế cũng được... Nhưng sự sắp đặt ấy đối với tôi có vẻ như nằm ngoài khả năng hiểu biết của con người.. Vậy thì để trả lời anh, tôi không thể trông cậy vào học thuyết truyền thống nào cả. Tôi chỉ có thể thành thật nói là tôi chưa từng gặp bất kỳ dấu hiệu nào nhìn thấy được về sự sinh tồn của linh hồn... Nhưng nếu tuyên bố như một sự thật là linh hồn chết cùng với thân xác thì tôi thấy nói vậy cũng khác gì nói bừa.
– Anh thận trọng quá đó! - James có vẻ sốt ruột. - Chẳng lẽ không có một giả thuyết nào mà anh không thấy có khả năng đúng hơn những giả thuyết khác sao?... Anh sống với niềm tin hay không có niềm tin vào kiếp sau?
– Chắc chắn là tôi sống không có niềm tin vào Ngày Phán Xét Cuối Cùng; nhưng điều đó không chứng tỏ là tôi tin chắc linh hồn không bất tử. Điều đó chỉ chứng tỏ là tôi không tin vào sự khắc nghiệt của một Thượng Đế đồng thời cũng là Đấng Sáng Thế của chúng ta... Nhưng nếu anh cho tôi suy nghĩ một hai phút, tôi thấy là mình có thể tìm ra lý lẽ ủng hộ cái giả thuyết rằng linh hồn chết theo thân xác... Có ý nghĩ mà không có thân xác? Coi bộ không thể tưởng tượng nổi... Anh không thấy vậy sao?
– Tư duy của chúng ta là một lớp màng của những hình ảnh và cảm giác... Cảm giác kết thúc cùng với các cơ quan tri giác, và sự tái tạo hình ảnh lại gắn liền với sự tồn tại của hệ thống thần kinh...
– Anh biết rõ hơn tôi là một sự suy giảm tự nhiên nào đó của các tế bào não sẽ gây ra thay đổi, thậm chí tiêu diệt, một con người như thế nào mà... Chính anh đã cho tôi biết là có thể làm biến đổi suy nghĩ của một người bằng cách tiêm một chất chiết xuất từ tuyến dịch nào đó... Hết thảy những chuyện đó cho thấy có mối liên kết chặt chẽ giữa nền tảng vật chất của việc tư duy của chúng ta với chính bản thân ý tưởng... Và rồi, nói cho cùng, còn có trạng thái bất tỉnh nữa... Anh còn nhớ không, James, cái ngày mà con ngựa của tôi dở chứng quật lại tôi, đâu đó ở Flanders, và anh tìm thấy tôi nằm bất tỉnh trên đồng cỏ đó? Tôi đã nằm ở đó suốt hai giờ mà chẳng nhớ một điều gì cả... Nếu xét theo chuyện đó thì có vẻ như linh hồn tôi đâu còn sống khi thân xác tôi đã bị tiêu diệt.
– Tôi thấy lập luận như vậy kém lắm, - người bạn bác sĩ nói với giọng châm biếm gay gắt. - Tôi thừa nhận là trong cơn ngất đó anh đã không còn nhận biết con người của anh trong một khoảng thời gian. Thế nhưng điều đó chẳng đi đến đâu, bởi vì có nhiều bệnh nhân đã hồi tỉnh sau một cơn ngất hay sau cuộc gây mê mà vẫn nhớ những cảnh tượng lạ thường, và có khi mô tả lại những cảm giác về một linh hồn được giải thoát. Nhưng nếu con người của anh bị tiêu diệt thì chính việc anh tỉnh lại đã hoàn toàn bác bỏ điều đó... Khi anh đứng dậy sau ngã ngựa, anh đâu phải là con người khác... anh vẫn là con người cũ thôi... Nếu kinh nghiệm đó không chứng minh được gì thì đúng hơn là con người của anh vẫn có thể tồn tại khi thân xác anh có vẻ như đã từ bỏ nó... Nhưng chúng ta có thể tưởng tượng hay hơn. Hiện thời, khi một trái tim ngừng đập và hai lá phổi ngừng thở, cánh bác sĩ chúng tôi nói rằng bệnh nhân đã chết... Rất đúng... Nhưng giả sử ta tìm được phương cách gì đó, và điều này không phải là không có thể, để đưa một dòng máu mới lưu thông trong đầu người chết. Vậy người đó có sống lại không?
– Tôi không biết... - Tôi ngừng lại ngẫm nghĩ. - Cũng có thể lắm.
– Nếu người đó sống lại thì đó vẫn là cá tính đó hay là khác?
– Đương nhiên là vẫn cá tính đó rồi.
– Vậy là chúng ta đồng ý với nhau... Nhưng cái cá tính đó từ đâu ra? Anh có nhất định cho là nó đột ngột hình thành, với mọi cảnh trí bao la trong ký ức của nó, với những đam mê và cảm xúc của nó, trong cái thân xác mới sống lại không? Hay đó chính là linh hồn cũ của người đã chết? Và nếu đó là linh hồn cũ, như vậy anh không thừa nhận là nó không chết theo thân xác hay sao?
– Ồ, James? Nếu như ký ức của chúng ta nối liền với một cấu trúc nhất định của bộ não, và nếu cấu trúc đó không thay đổi, thì ký ức đó sẽ tái sinh y hệt như trước... Tạm dùng một hình ảnh so sánh đại khái cho tiện, nhưng qua đó anh sẽ thấy phần nào quan điểm suy nghĩ của tôi, điều đó cũng giống như anh nói là: “Cơ quan chính phủ suốt đêm vắng tanh, phải không? Thế nhưng khi các nhân viên quay lại vào buổi sáng thì họ sẽ bận bịu với cùng những vấn đề cũ. Vậy thì cơ quan chính phủ có một linh hồn riêng vẫn ngự trị ở đó vô hình trong đêm.”
– Một ngụy biện tài tình! - Người bạn bác sĩ vừa nói vừa rót thêm ít rượu. - Nhưng không hề vững chắc... Bởi vì anh đang giả định trước là bộ não chứa đựng sơ đồ cho những hình ảnh và ký ức của nó cũng giống như cơ quan chính phủ chứa đựng các hồ sơ vậy... Đấy, anh phải cho phép tôi nêu ý kiến với tư cách một bác sĩ là chúng ta không hề có bằng chứng về bất kỳ cách tổ chức nào như thế của một bộ não đã chết. Cái ý tưởng phân vùng não bộ ngày càng ít được giới chuyên môn ủng hộ, và cho dù đúng là vậy đi nữa thì nó cũng không chứng minh được quyết đoán của anh... Không, ta càng nghiên cứu kỹ về cấu trúc bộ não thì càng có cảm giác rõ hơn rằng, như Bergson - người đồng bào của anh đã nói đó, nó là một hệ thống truyền tin, một sự trao đổi qua điện thoại giữa thân xác và một thứ gì khác. Tất nhiên, nếu anh phá huỷ sự trao đổi này thì hệ thống truyền tin của anh ngưng hoạt động, nhưng điều đó không chứng minh được là không hề có kẻ điện đàm qua lại đó, mà cũng không chứng minh được là kẻ ấy biến mất cùng với các phương tiện truyền tin...
– Hẳn thế rồi, James. Nhưng trong trường hợp trao đổi qua điện thoại này, tôi tin là có kẻ điện đàm kia bởi vì tôi chỉ cần một thí nghiệm đơn giản cũng đủ dò ra dấu vết hắn bằng cách lần theo hắn bằng xương bằng thịt, đi bộ, đi ngựa, hay đi máy bay. Nhưng có ai từng dò tìm được kẻ điện đàm linh hồn của anh không? Anh có thể cho tôi một ví dụ thôi về việc tồn tại ý nghĩ mà không cần nền tảng thực thể được không?
– Chắc chắn là được! Anh phải thấy rằng nếu thực thể đó, tế bào đầu tiên đó, cái hạt nguyên sinh đầu tiên biết cảm nhận đó, tồn tại mà trước đó không có một “sinh lực,” một “ý nghĩ sáng tạo,” thì vật chất sẽ không bao giờ cấu thành được một cơ thể sống... Nói cho cùng, điều khá lạ lùng là chính bản thân anh lại hợp thành một thể xác, cái thể xác tôi hiện đang nhìn thấy trước mặt mình đây, với cac-bon, ô-xy, phốt-pho, và vài nguyên tố vô tri giác khác... Và càng đáng ngạc nhiên hơn nữa là bằng cách đó anh lại hợp thành một con người, chứ không phải con gấu hay con tôm... Vậy thì cái nền tảng vật chất của ý nghĩ nó ở đâu mà sinh ra anh? Từ bộ não nào mà những ý tưởng được kế tục và những hình ảnh truyền đời được chuyển tiếp để tạo ra anh thành chính Anh!
– Anh đang nói nghiêm túc đấy chứ, James? Anh không đơn thuần tin rằng cái nền tảng vật chất này nằm trong cái tế bào đã được thụ tinh để cho cơ thể tôi xuất hiện sao? Sinh học không phải là thế mạnh của tôi, nhưng...
– Tôi không nín cười được! - James nói. - Anh bạn thân mến ơi, anh đã từng thấy bằng chứng khoa học nào xác định là thể xác và tinh thần của anh đã được định hình trước trong một tế bào nào đó từ ba mươi lăm năm trước chưa? Anh vừa mới nói “tôi tin là có kẻ điện đàm kia bởi vì tôi chỉ cần một thí nghiệm đơn giản cũng đủ dò ra dấu vết hắn bằng cách lần theo hắn...” Nhưng trong trường hợp này thì anh đã làm thí nghiệm gì nào? Cái gì cho phép anh tưởng tượng là khi khuếch đại một tế bào theo một tỷ lệ khổng lồ, vượt xa khả năng của mọi kính hiển vi, thì anh có thể tìm thấy trong đó cái lỗ mũi của ông cố nội anh, hay tính đạo đức của ông cố nội tôi? Và nếu anh thật sự tin như thế, anh có nghĩ niềm tin đó có tính khoa học không? Đó sẽ là một sai lầm cực lớn... Cái ý tưởng đó, nếu như anh có, thì đó là một tín ngưỡng, một khái niệm cũng không chứng minh được, chẳng hơn kém gì khái niệm kia, thật đáng ngạc nhiên là một người như anh vừa mới tự tuyên bố là thoát khỏi mọi học thuyết mà lại... Tôi biết rất rõ thế kỷ mười chín đã căng hết mọi dây thần kinh ra để cố quy giá trị của tinh thần theo các điều kiện của vật chất. Nhưng nó đã thất bại. Những gì quan sát được không cách nào chứng minh là sự sống tinh thần, sự sống cảm xúc, được chứa đựng bên trong sinh mệnh vật chất này, mà ngược lại chính cái trước bổ túc cho cái sau với nguyên cả một lĩnh vực chưa được thăm dò...
Anh bồi trưởng hồng hào, mập mạp mang cà phê vào cho chúng tôi. Trông anh ta có vẻ phiền lòng. Khách đến nhà hàng Johnson này, tôi dám chắc, thường không tranh cãi sôi nổi về sự bất tử của linh hồn. Tôi im không nói nữa. Những lập luận của James khiến tôi có phần bối rối. Tôi chìa cho anh điếu thuốc, và anh im lặng hút một hồi lâu.
– Cũng vậy thôi, - cuối cùng tôi lên tiếng, - cũng vậy thôi... Hãy thử phép phản chứng đi, James... Giả sử là mỗi một người chúng ta đều có một linh hồn bất tử, vậy thì bao tỉ người đã từng sống bây giờ ở cái chỗ đếch nào chứ? Rồi hàng triệu tỉ sinh linh hiện đang phải sống sẽ đi về đâu? Linh hồn của những loài dã thú sẽ ở đâu? Nếu anh là nhà thần học thì anh sẽ nói loài thú không hề có linh hồn. Nhưng anh là nhà khoa học tự nhiên. Linh hồn của những con cá heo, những con chuột túi và những con cua đã từng tồn tại bây giờ ở đâu? Anh không thấy một ý tưởng như vậy là bất khả lý giải sao?
– Như anh nói, nếu tôi là nhà thần học thì có lẽ sẽ trả lời là những con số làm anh kinh hoảng đó chẳng là gì cả trong mắt một Thượng Đế toàn năng vô biên... Nhưng anh hiện đang nói về sự sinh tồn vĩnh viễn của mọi con người. Tôi không đòi hỏi nhiều đến mức đó. Anh không thể hình dung là mỗi cơ thể sống có khả năng gắn bó chính nó với một đại lượng sức mạnh nào đó mà tính chất của sức mạnh ấy chúng ta không biết, nhưng để gọi cho tiện, sức mạnh ấy ta có thể gọi là “chất sinh lưu” đi? Điều gì ngăn cản không cho chúng ta nghĩ rằng sau khi chết cái “lưu chất” đó sẽ quay lại một trạng thái kiểu như một nguồn dự trữ chung? Tại sao lại không thể có một nguyên tắc chuyển hoá năng lượng chứ? Nếu anh công nhận điều đó thì tôi có quyền nói là tôi hài lòng.
– Hài lòng? Nhưng James thân mến ơi, tại sao anh lại gán bao nhiêu điều quan trọng này vào những giả thuyết mong manh như thế chứ?
– Đấy, anh bạn, - anh vừa nói vừa đứng dậy. - Tôi sẽ giải thích cho anh sau một giờ nữa, nếu anh vui lòng đi cùng tôi quay về bệnh viện.
Người Cân Linh Hồn Người Cân Linh Hồn - André Maurois Người Cân Linh Hồn