Mắc Kẹt epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 3
au mấy ngày nghỉ cuối tuần dài đằng đẳng, Tracy gặp lại Kins vào sáng thứ Hai trước cửa tòa nhà trụ sở cơ quan pháp y trên đường Chín và đường Jefferson. Tòa nhà mười bốn tầng, toàn bộ phủ kính trắng và ngập tràn ánh sáng tự nhiên, khác hoàn toàn “ngôi mộ” xây bằng bê tông mà cơ quan pháp y dùng làm văn phòng trước đây. Các phòng ban khác trong tòa nhà được trang hoàng đẹp đẽ, nhưng riêng phòng giải phẫu mà Funk và đội của ông dùng để mổ xẻ và kiểm tra thi thể của các nạn nhân thì chẳng thể tô điểm gì nhiều. Bên trong căn phòng lạnh lẽo và vô trùng này là những cái bàn và bồn rửa làm bằng thép không gỉ, với những đường ống và phễu thu nước lấp lánh dưới ánh đèn sáng chói.
Thi thể của cô gái trần như nhộng được đặt nằm trên cái bàn gần cửa ra vào nhất. Một cái gối kê bằng nhựa được đặt dưới lưng khiến cho phần ngực của thi thể nhô lên và hai cánh tay áp sát xuống mặt bàn, giúp cho Funk dễ dàng làm công việc của mình hơn. Thông thường, thi thể sẽ được bọc trong túi đựng xác, nhưng vì bản chất của tội ác cũng như hiện trường vụ án, trường hợp này không giống như thông lệ.
Vào thời khắc đó, cô gái vô danh này không còn giống một con người mà giống như một mẩu chứng cứ hơn. Cái bản chất lạnh lùng của công việc pháp y vẫn là một thực tế khắc nghiệt và tàn nhẫn mà Tracy vẫn chưa thể nào chấp nhận hoàn toàn, kể cả khi cô đã có chín năm chuyên giải quyết những vụ trọng án. Điều này xuất phát từ việc cô biết rằng những mảnh xương của em gái mình, được tìm thấy trong một ngôi mộ nằm trên những ngọn núi ở quê hương cô hai mươi năm sau ngày Sarah mất tích, cũng đã từng được đặt lên một chiếc bàn tương tự như thế này để sắp xếp lại giống như những mẩu xương hóa thạch được tìm thấy trong một cuộc khai quật khảo cổ. Tracy đã thề rằng cô sẽ không bao giờ quên cái thi hài nằm trên chiếc bàn đó đã từng sống, từng hít thở.
Cô ngồi trên một chiếc ghế xoay cách xa chỗ Funk làm việc. Kins đứng bên cạnh cô. Cả hai đang xem và nghe Funk đọc lại từng bước giải phẫu với sự chính xác thuần thục và giải thích những phát hiện của ông bằng những tấm hình chụp bao quát. Funk đã cân và đo lại cô gái - cô ta cao một mét sáu bảy, mặc dù khá khó khăn để có thể đo chính xác chiều cao bởi cái xác đã bị nắn lại cho vừa với cái lồng cua, và nặng chừng sáu mươi mốt cân. Funk cũng lấy mẫu trong âm đạo và trực tràng để kiểm tra xem có phát hiện ra tinh dịch hay không. Ông còn kiểm tra dấu hiệu của xuất huyết trên da - những vết xuất huyết nhỏ như đầu kim hay những vệt máu tròn sẽ chỉ ra liệu có phải cô gái chết vì ngạt thở hay không mặc dù nguyên nhân dẫn đến cái chết đã vô cùng rõ ràng. Cô gái bị bắn vào sau gáy. Kẻ sát nhân có vẻ đã sử dụng một khẩu súng ngắn nòng 9mm nhưng tại thời điểm này khẩu súng không quá quan trọng. Không tìm thấy viên đạn, họ sẽ không thể xác định chính xác khẩu súng đó, cho dù họ có tìm thấy nó.
Trong quá trình kiểm tra bên ngoài, Funk không phát hiện ra đồ trang sức, mặc dù dái tai của cô gái có dấu vết bị cào rách, điều này càng khẳng định nghi ngờ của Tracy rằng kẻ sát nhân đã lột sạch đồ của nạn nhân. Funk cũng không tìm thấy vết xăm hay dấu hiệu nhận diện nào, cũng không tìm thấy dấu vết nào cho thấy người phụ nữ này từng là một kẻ nghiện ma túy. Ông đã lấy dấu vân tay để đưa vào tìm kiếm trong hệ thống dữ liệu AFIS, nhưng trừ phi người phụ nữ này từng phạm tội, phục vụ trong quân đội hoặc từng làm một công việc nào có yêu cầu lấy dấu vân tay, nếu không thì hệ thống này không thể nhận dạng được nạn nhân. Ông cũng cho lấy máu và mẫu nước bọt để phân tích ADN, nhưng cũng tương tự như dấu vân tay, trừ phi mẫu ADN của người phụ nữ này có trong hệ thống dữ liệu CODIS, nếu không họ vẫn sẽ không tìm được gợi ý nào cả. Funk chuẩn bị tiến hành chụp X-quang thi thể.
“Cô vẫn ổn chứ?” Kins hỏi.
Tracy đang ngồi trên ghế xoay, ngước mắt lên nhìn anh.
“Hả?”
“Tôi thấy điều đó trong ánh mắt cô… Cô đang yên lặng. Yên lặng quá mức.” Sau tám năm làm việc cùng nhau, họ đã bắt đầu thông thạo việc đọc cảm xúc của đối phương. “Đừng liên hệ chuyện này với bản thân, Tracy ạ. Cái chuyện chết tiệt này đã đủ kinh khủng lắm rồi.”
“Tôi không cố liên hệ nó với chuyện của mình, Kins ạ.”
“Tôi biết cô không cố tình làm thế.” Anh nói, hoàn toàn hiểu rõ những gì đã xảy ra với em gái cô, cũng như sự gượng ép của Tracy khi tham gia điều tra những vụ giết người liên quan tới các cô gái trẻ.
“Nhưng đôi khi anh không thể thay đổi sự thực.”
“Đúng thế nhưng cô có thể thay đổi cách mà cô phản ứng với nó.” Anh nói.
“Có lẽ vậy.” Cô đáp, không muốn mình nghe như đang phòng thủ. “Tôi chỉ đang tự hỏi không biết ai đã nuôi nấng ra loại người có thể bắn vào gáy người khác rồi nhồi nhét thi thể người ta vào trong cái lồng cua như một miếng mồi câu như vậy.”
Kins thở dài. Họ đã từng có những cuộc trò chuyện tương tự thế này. “Hãy thử nghĩ ở góc độ của những người cha người mẹ. Họ cũng cảm thấy kinh khủng như vậy khi nghe kể về những gì con cái họ đã làm. Tôi cũng không thể hình dung nổi mình sẽ thế nào khi nghe người khác nói rằng tôi đã nuôi nấng một đứa trẻ có thể làm những chuyện như thế này.”
“Có vẻ như mọi thứ đang ngày càng tồi tệ hơn, phải vậy không?” Tracy nói. “Con người không còn biết tôn trọng những giới hạn của người khác. Họ coi việc đột nhập vào nhà hay xe của người khác là chuyện bình thường. Tháng Mười hai vừa rồi, anh có đọc chuyện người ta ăn trộm quà Giáng sinh ngoài bậc cửa và đánh cắp những món đồ trang trí ngoài thảm cỏ không?”
“Tôi có đọc qua.”
“Ai đã nuôi dưỡng nên những kẻ nghĩ rằng mấy việc đó là bình thường nhỉ?”
“Tôi không biết nữa.” Kins nói. “Khi kinh tế khó khăn, con người ta trở nên liều lĩnh.”
“Cái lũ khốn nạn.” Cô đáp. “Ở ngoài kia có vô vàn người thực sự nghèo khổ nhưng họ chẳng bao giờ nghĩ sẽ làm những việc như thế.” Cô nhìn về phía thi thể đang nằm trên bàn.
Họ theo dõi Funk làm việc. “Cô nghĩ thế nào về Schill?” Kins nói.
“Tôi nghĩ Faz và Del nói đúng, tôi không nghĩ thằng bé sẽ sớm quay lại bắt cua.”
“Ý tôi là về những gì Del nói có sự bất thường trong việc Schill vô tình mắc phải cái lồng ấy.”
Tracy nghe thấy sự nghi ngờ hoặc chí ít cũng là một chút nghi hoặc trong giọng nói của Kins. “Tôi không nghĩ thằng bé có khả năng làm một chuyện như thế.”
“Tôi chỉ muốn nói rằng chúng ta vẫn chưa thể loại trừ cậu ta.”
“Được rồi, chúng ta chưa loại trừ cậu ta, nhưng tại sao cậu ta lại kéo cái lồng vào bờ và gọi 911 nếu cậu ta có liên quan đến chuyện này?”
Kins nhún vai. “Có thể là do cậu ta chột dạ. Hoặc cũng có thể sau khi giết cô gái đó, cậu ta bị ám ảnh không thể vượt qua, thế nên mới bịa ra một câu chuyện “Tôi vướng phải cái lồng”.”
“Trông cậu ta có vẻ thực sự run sợ.”
“Thế không có nghĩa là cậu ta không giết cô ấy.”
“Đúng thế.”
“Ý tôi là chúng ta sẽ cử Del và Faz đi hỏi xung quanh và tìm hiểu xem liệu có con mèo nào bị mất tích trong khu nhà của thằng bé đó, hoặc liệu nó có lên mạng để truy cập vào những trang độc hại liên quan đến chuyện giết người hay không.”
“Tôi không biết nữa.” Cô đáp.
“Trước đây chuyện này từng xảy ra rồi.” Kins nói.
“Chuyện gì cơ?”
“Chuyện tìm thấy thi thể trong lồng cua. Hai năm trước, một người đánh cá đã phát hiện một cái đầu lâu trong một lồng cua ngoài khơi gần Westport.”
“Đó là cái lồng của anh ta.” Tracy nói, nhớ lại câu chuyện.
“Người ta vẫn chưa tìm ra bằng cách nào mà cái đầu lâu lọt được vào trong lồng. Và rồi sau đó họ tìm thấy phần thân ở trong cái lồng chìm dưới lòng biển ở quận Pierce, gần đảo Anderson.”
“Không phải là họ tìm thấy. Gã bạn trai tự thú và dẫn họ tới đó.”
“Chính xác là như vậy.” Kins đáp.
“Các vị điều tra viên?” Funk bước lùi lại khỏi cái bàn và gỡ khẩu trang xuống. Ông đã mặc đầy đủ bộ đồ phẫu thuật, bao gồm cả một cặp kính bảo vệ.
Tracy và Kins kéo khẩu trang phẫu thuật lên để che miệng và mũi, mặc dù làm như thế cũng chẳng ngăn được mùi là bao.
Funk tới chỗ máy tính đặt ở trên cái bàn gần đó. Nó hiển thị một loạt hình ảnh phim chụp X-quang thi thể nạn nhân. Funk dùng chuột ấn liên tục cho các bức ảnh chạy qua cho tới khi tìm thấy bức ảnh mà ông muốn. “Đây. Các vị thấy chứ?” Ông chỉ vào khuôn mặt của người phụ nữ. “Cô ấy đã độn cằm và má. Mũi cũng đã được nâng.”
“Phẫu thuật chỉnh hình sao?” Tracy hỏi.
“Không phải là kiểu mà cô đang nghĩ đâu.” Funk chỉnh lại lời Tracy. “Đây là phẫu thuật nâng cấu trúc mặt.”
“Một người đang cố gắng thay đổi diện mạo của mình.” Tracy nói.
“Và mới gần đây thôi. Tôi có thể nói là trong vòng tháng này, nhiều nhất là hai tháng. Và tóc của cô ấy mới được nhuộm sang màu đậm hơn.” Funk lại quay mặt về phía cái xác. “Màu tóc tự nhiên của cô ấy là màu nâu nhạt.”
Từ những lần điều tra trước, cả Tracy và Kins đều biết rằng những bộ phận cấy ghép đều có một dãy số xê ri. Các bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình bắt buộc phải ghi chép lại dãy số này trong hồ sơ của bệnh nhân và cung cấp những thông tin đó cho nhà sản xuất trong trường hợp có bất cứ vấn đề gì xảy ra trong quá trình cấy ghép.
“Có vẻ như chúng ta không cần tới họa sĩ phác họa nữa rồi.” Kins nói. “Chúng ta đã tìm ra cô gái này.”
Kins và Tracy quay trở lại trụ sở. Kins lần theo dãy số xê ri và tìm ra Silitone, một hãng sản xuất ở Florida. Một nhân viên ở Silitone đã tiếp nhận thông tin và gọi lại ngay trong vòng một giờ đồng hồ. Sản phẩm cấy ghép đã được vận chuyển tới chỗ của bác sĩ Yee Wu ở Renton, Washington, một thành phố nằm ở đầu nam của hồ Washington, cách khu trung tâm chừng hai mươi phút đi xe.
Kins gọi điện tới phòng khám của bác sĩ Wu. Nữ nhân viên của phòng khám cảnh báo một cách rất chuẩn mực về luật HIPAA và quyền riêng tư của bệnh nhân. Nhưng cô đã dừng lại khi Kins nói rằng anh là điều tra viên án mạng đang điều tra một vụ có khả năng là giết người. Luật HIPAA vẫn còn có hiệu lực sau khi bệnh nhân đã qua đời, nhưng Kins và Tracy chẳng có hứng thú gì với bệnh sử cá nhân của cô gái bị sát hại chí ít là vào lúc này. Họ chỉ muốn biết cô ta là ai mà thôi.
Họ lái xe tới Renton. Nhìn bề ngoài của căn nhà một tầng trát vữa, Tracy sẽ cảm thấy lo lắng ngay cả khi bác sĩ Wu làm móng cho cô chứ đừng nói đến chuyện để cho ông ta làm gì trên mặt cô. Nhưng theo như giới thiệu trên trang web của bác sĩ Wu, ông ta đã học tại trường Đại học Hong Kong, sau đó theo học bác sĩ nội trú chuyên ngành phẫu thuật chỉnh hình tại Đại học California ở Los Angeles và được Hiệp hội Phẫu thuật chỉnh hình Hoa Kì cấp cho chứng chỉ hành nghề.
“Đống bằng cấp tô vẽ ông ta như thể đó là nhà điêu khắc vĩ đại nhất kể từ thời của Michelangeio ấy nhỉ?” Tracy nói.
“Và tất nhiên chúng ta biết rằng nếu đã được đăng lên Internet thì chúng chắc hẳn là thật.” Kins vừa nói vừa đánh xe vào một chỗ trống.
Họ bước ra khỏi xe và nghe thấy tiếng động cơ của một chiếc máy bay vừa mới cất cánh từ sân bay Boeing Field ở gần đó, rồi bước về phía những cánh cửa bằng kính. Bên trong tòa nhà mang đậm màu sắc Á Đông, từ đồ trang trí cho tới nửa tá bệnh nhân đang ngồi đợi dọc hành lang. Một người phụ nữ gốc Á nhỏ nhắn trong bộ quần áo phòng mổ màu xanh dương tự giới thiệu mình là trợ lí của bác sĩ Wu và nói rằng bác sĩ sẽ gặp họ ngay thôi.
“Biết ngay mà!” Kins nói khi họ ngồi xuống ghế trong khu vực chờ. “Cô có thể tưởng tượng nếu mấy gã này phải làm việc theo lịch của tài xế xe buýt thì sẽ thế nào không? Lộn xộn kinh khủng khiếp.”
Tracy đưa cho anh một tờ tạp chí tiếng Trung Quốc đặt trên bàn cà phê. “Chí ít thì anh chẳng phải đọc một tờ Time phát hành từ sáu tháng trước.”
Sau mười phút, cô trợ lí lại xuất hiện. Thay vì gọi lớn tên của họ, cô ta kín đáo ra hiệu bảo rằng bác sĩ Wu đang chờ gặp họ.
Kins đặt tờ tạp chí xuống. “Vừa mới đọc đến đoạn hay.”
Bác sĩ Wu đang đứng phía sau bàn làm việc khi Tracy và Kins đặt chân vào cái văn phòng chật chội. Wu có dáng người nhỏ nhắn, áng chừng cao một mét sáu, với cặp kính gọng bạc to đùng trên mặt. Ông ta khoác tấm áo choàng blouse màu trắng bên ngoài chiếc áo sơ mi màu xanh nước biển và đeo một chiếc cà vạt màu nâu hạt dẻ, phía đuôi chiếc cà vạt được nhét chặt vào cạp quần.
“Cảm ơn ông đã gặp chúng tôi.” Tracy nói.
Hai bàn tay của Wu mềm và nhỏ nhắn như bàn tay của một cậu thiếu niên. Sau màn giới thiệu, ông ta ngồi xuống và mở một file tài liệu đã được đặt sẵn trên mặt bàn.
“Số xê ri trên mô cấy mà anh chị cung cấp cho trợ lí của tôi thuộc về một bệnh nhân tên là Lynn Cora Hoff.” Vị bác sĩ nói với giọng đặc âm điệu tiếng Trung.
Cô gái nạn nhân đã có một cái tên. Đơn giản như thế.
“Ông có thể nói với chúng tôi thông tin gì về cô ấy không?” Tracy hỏi.
Nếu Wu có điều gì lo lắng về luật HIPAA thì ông ta sẽ không nói ra. Ông ta dùng đầu ngón tay cái đẩy mạnh cặp kính lên trên sống mũi. “Cô Hoff hai mươi tư tuổi, cao một mét bảy, nặng năm mươi chín cân. Chủng da trắng. Cô ấy đã gọt mũi, độn cằm và má.”
“Cô ấy làm khi nào?” Tracy hói.
“Mùng Ba tháng Sáu.”
“Mới gần đây.” Kins nói.
“Đúng vậy.” Wu tiếp lời.
“Trước đó ông đã từng làm việc với cô Hoff chưa?” Tracy hỏi.
“Chưa.”
“Cô ấy có nói tại sao lại muốn phẫu thuật không?” Tracy hỏi tiếp.
Wu ngước mắt lên như thể ông ta không hiểu câu hỏi. Cặp kính tuột xuống khỏi sống mũi. “Tại sao á?”
“Tại sao cô ấy lại phải làm phẫu thuật chỉnh hình?” Tracy hỏi.
“Rất nhiều phụ nữ làm phẫu thuật chỉnh hình.” Wu nói, như thể việc thay đổi diện mạo là chuyện thường ngày ở huyện. Một lần nữa, ông ta lại dùng đầu ngón tay cái để đẩy chiếc kính lên trên sống mũi.
“Tôi hiểu.” Tracy nói. “Nhưng cuộc phẫu thuật này có vẻ can thiệp nhiều hơn so với những cuộc phẫu thuật chỉnh hình bình thường.”
“Phụ nữ…” Wu nhìn Kins. “…Và cả đàn ông nữa, đi phẫu thuật chỉnh hình vì rất nhiều lý do.”
“Vậy là cô ấy không nói tại sao à?” Kins hỏi.
“Cô ấy không nói.”
“Cô ấy có cung cấp hồ sơ bệnh án không?” Tracy hỏi.
Wu mở cái khóa bằng đồng ở phía trên xấp tài liệu và tách rời từng phần ra. Ông ta đưa cho Tracy một tập tài liệu nhiều trang và cô đưa nó cho Kins cùng xem. Trang đầu tiên là tờ đơn đăng kí của bệnh nhân được viết bằng tay. Kins ghi chép lại ngày tháng năm sinh và số an sinh xã hội của Lynn Hoff cũng như địa chỉ chỗ ở, hóa ra là một căn hộ ở ngay Renton. Hoff chỉ cung cấp một số điện thoại di động. Cô ta không cung cấp thêm số liên lạc nào khác trong trường hợp nguy cấp hay tên một ai đó có thể chia sẻ những thông tin y khoa của mình.
Trang thứ hai là các câu hỏi về tình hình sức khỏe của bệnh nhân. Hoff đã đánh dấu vào ô “Không” cho tất cả các câu hỏi, và ghi chú chưa từng có tiền sử mắc bệnh hoặc phẫu thuật nào trước đây, và gần đây cũng không phải dùng thuốc gì cả. Về phần gia đình, cô đã đánh dấu vào ô “Không” cho câu hỏi liệu cha hay mẹ có còn sống không và không kể tên bất cứ người anh chị em nào.
Tracy đặt các tờ thông tin xuống. “Ông có ảnh trước và sau khi phẫu thuật của cô ấy chứ?” Tracy hỏi.
Wu ngồi lại xuống ghế, đáp: “Không.”
Tracy liếc nhìn Kins trước khi quay lại hỏi Wu: “Ông không có bất kì bức ảnh nào sao?” Cô nói, không cố giấu giếm rằng cô không tin lời ông ta.
“Không có.” Wu nói lại lần nữa, giọng ông ta gần như không thể nghe thấy được.
“Bác sĩ Wu, chẳng phải việc chụp lại ảnh của bệnh nhân trước và sau khi phẫu thuật trong những dạng phẫu thuật kiểu này là một thủ tục thông thường sao?”
“Đúng thế.” Ông ta đáp. “Đó là thủ tục theo thông lệ.”
“Vậy tại sao ông lại không có bức ảnh nào cả?”
“Sau khi phẫu thuật xong, cô Hoff đã yêu cầu lấy lại tất cả các bức ảnh.”
“Cô ấy yêu cầu lấy lại toàn bộ ảnh ông đã chụp cô ấy?”
“Vâng.”
“Và ông đã đưa chúng cho co ấy.
“Cô ấy đã kí đơn khước từ.” Wu nói. Ông ta ngả người về phía trước, lục tìm trong đống tài liệu và đưa cho Tracy một văn bản dài hai trang. Nó chỉ là một tài liệu về việc miễn trừ trách nhiệm pháp lý. Lynn Hoff thừa nhận đã nhận toàn bộ số ảnh thuộc sở hữu của bác sĩ Wu. Đổi lại cô đồng ý sẽ từ bỏ mọi quyền đòi hỏi hay yêu cầu bất cứ điều gì chống lại bác sĩ Wu với mọi lý do, trong mọi trường hợp.
“Cái này do luật sư soạn thảo cho ông?” Kins hỏi.
“Vâng.” Wu nói.
“Thế thì lạ thật đấy.” Kins nói.
“Vâng.” Wu đáp.
“Cô Hoff có nói vì sao cô ấy muốn sở hữu những bức hình ấy không?” Tracy hỏi.
Wu lắc đầu. “Cô ấy không nói.”
Tracy hoài nghi rằng Wu cũng đã tự suy xét lý do vì sao Lynn Hoff lại muốn giữ lại tất cả ảnh của mình, và có lẽ ông ta đã có những kết luận giống như những gì cô đang hệ thống trong đầu vào lúc này rất có thể ông bác sĩ đã phẫu thuật cho một kẻ đang chạy trốn khỏi pháp luật hoặc một người nào đó đang bỏ trốn khỏi kẻ thù.
“Cô Hoff có quay lại điều trị phục hồi không?” Tracy hỏi.
“Không.” Wu đáp.
“Lại là một điều thật bất thường.”
“Vâng.”
“Sau đó cô ấy có đặt lịch hẹn lần nào nữa không?”
“Cô ấy có đặt, nhưng đã không tới đúng hẹn.”
“Nhân viên của ông có gọi điện tìm hiểu vì sao cô ấy lại không đến không?”
“Số điện thoại mà cô ấy cung cấp báo không liên lạc được.” Wu đáp.
“Cuộc phẫu thuật diễn ra tại đâu?” Tracy hỏi.
“Ở đây.” Wu đáp. “Chúng tôi có phòng phẫu thuật đã được cấp phép. Như thế giá thành sẽ dễ chịu hơn.”
“Làm những phẫu thuật tương tự thường tốn bao nhiêu tiền?” Kins hỏi.
Wu tra cứu lại trong đống tài liệu. “Sáu nghìn ba trăm mười hai đô la.”
Tracy để ý đến dấu hiệu trên quầy lễ tân cho biết chỗ của Wu có chấp nhận thanh toán bằng thẻ Visa hoặc MasterCard. “Cô ấy thanh toán bằng cách nào? Tôi đoán rằng bảo hiểm sẽ không thanh toán cho loại phẫu thuật này.”
“Không có bảo hiểm.” Wu đáp. “Không có bảo hiểm cho loại phẫu thuật không bắt buộc này. Cô Hoff đã trả bằng tiền mặt.” Wu đưa cho Tracy tờ biên lai.
Kins nhìn Tracy và cô biết rằng anh đang nghĩ những chứng cứ này hướng họ tới giả thiết Lynn Hoff là gái bán dâm. Cô đã ghi nhớ trong đầu rằng sẽ phải bảo Del và Faz gọi điện tới các ngân hàng ở khu Renton để hỏi xem liệu Lynn Hoff có tài khoản nào không.
“Phẫu thuật xong, cô Hoff về nhà bằng cách nào?” Tracy hỏi. “Tôi đoán cô ấy không thể tự lái xe.”
“Trong tài liệu có ghi chú là cô ấy sử dụng xe dịch vụ.”
“Thế còn việc chăm sóc tại nhà sau khi phẫu thuật?” Kins nói. “Liệu có ai đó chăm sóc cho cô ấy không?”
Wu nhún vai. “Tôi không biết nữa.”
“Anh không hỏi cô ấy sao?” Tracy nói, quyết định hỏi dồn ông ta.
“Không.”
“Tất cả những dấu hiệu này không khiến ông cảm thấy bất thường sao hả bác sĩ Wu?”
“Có.” Ông ta đáp.
“Nhưng ông lại không thông báo chuyện này với bất kì ai?”
“Thông báo cái gì? Thông báo cho ai?” Wu nhìn Tracy với biểu cảm rất bình thản của một người đã được tư vấn qua luật sư và biết rằng ông ta đã không làm gì sai. “Tôi chỉ có nghĩa vụ đối với bệnh nhân.”
“Đúng là như thế.” Kins nói. “Nhưng bệnh nhân của ông đã kết thúc đời mình ở dưới đáy eo biển Puget, và nghĩa vụ của chúng tôi là phải tìm ra kẻ nào đã vứt cô ta xuống đó, và lý do tại sao.”
Mắc Kẹt Mắc Kẹt - Robert Dugoni Mắc Kẹt