Chương 3
mma Traveler chưa bao giờ chứng kiến Francesca Beaudine điên cuồng đến thế. Đã bốn ngày trôi qua kể từ khi Lucy Jorik biến mất, và giờ họ đang ngồi dưới giàn dây leo trong khoảng sân nhỏ râm mát phía sau nhà Beaudine. Khối cầu thủy tinh bằng bạc nép mình giữa khóm hoa hồng phản chiếu một Francesca thậm chí còn nhỏ bé hơn nhiều so với thực tế. Trong suốt những năm tháng quen biết, Emma chưa một lần thấy bạn mình khóc, nhưng phía dưới một con mắt màu ngọc lục bảo của bà đang lồ lộ vết lem mascara, mái tóc màu hạt dẻ bù rối, và những nếp nhăn mệt mỏi hằn sâu trên khuôn mặt hình trái tim.
Dù Francesca giờ đã năm tư tuổi, lớn hơn Emma gần mười lăm tuổi và xinh đẹp hơn cô gấp vạn lần, nhưng giữa họ có nhiều duyên nợ để một tình bạn sâu sắc đâm chồi nảy lộc. Cả hai đều là người Anh, đều kết hôn với những tay golf chuyên nghiệp lừng danh thế giới, và cả hai đều thích đọc những cuốn sách hay hơn là thám hiểm những thảm cỏ xanh mướt ở sân golf. Quan trọng hơn cả, cả hai đều yêu Ted Beaudine - với Francesca, đó là tình mẫu tử mãnh liệt, còn với Emma, đó là lòng trung thành không bao giờ dao động đã được nuôi dưỡng từ ngày đầu tiên họ gặp nhau.
“Con khốn Meg Koranda đã gây ra một chuyện khủng khiếp nào đó đối với Lucy. Tôi biết rõ lắm.” Bà Francesca nhìn chằm chằm con bướm phượng đang dập dờn giữa những cành hoa ly mà chẳng chú ý gì đến nó. “Dù Lucy không ngớt lời tán tụng nhưng từ hồi chưa gặp tôi đã thấy nghi ngờ về cô ta rồi. Nếu Meg đúng là một người bạn thân thiết đến độ ấy thì sao phải đến tận trước lễ cưới chúng ta mới được gặp cô ta chứ? Bạn bè kiểu gì mà đến cả một bữa tiệc riêng của cô dâu cô ta cũng chẳng thể dành chút thời gian tham dự được?”
Emma cũng nhiều lần băn khoăn về đúng chuyện đó. Nhờ sức mạnh của Google, những lời đồn thổi không mấy tích cực về lối sống vô phương hướng của Meg Koranda đã lan nhanh như gió ngay khi người ta công bố danh sách phù dâu. Tuy nhiên, Emma không thích phán xét người khác khi chưa có đầy đủ chứng cứ, vậy nên cô không bao giờ tham gia trò phao tin đồn nhảm. Thật không may, có vẻ như lần này tin đồn hóa ra lại là sự thực.
Chồng Emma, Kenny, vốn là bạn thân của Ted, không thể hiểu được tại sao người ta lại tỏ ra thù địch với Meg còn hơn cả với cô dâu chạy trốn, nhưng Emma thì hiểu. Dân địa phương mến Lucy, ít nhất cũng bằng sự thân thiện tối đa họ có thể dành cho một kẻ xa lạ đã giành được Ted của họ, và họ đã sẵn sàng tiếp nhận cô cho đến buổi tối trước hôn lễ, khi cô như biến thành một con người khác trước mắt họ. Cô dành nhiều thời gian quấn quýt với Meg Koranda hơn cả với chồng sắp cưới. Cô chỉ chào hỏi qua loa khách khứa, lơ đãng, và ngay cả những lời chúc mừng hài hước nhất cũng không làm cô mỉm cười.
Bà Francesca rút ra một chiếc khăn giấy đã vo tròn từ trong túi quần lửng màu trắng nhăn nhúm được bà mặc kèm với áo phông cũ, xăng đan Italia và đôi hoa tai kim cương luôn hiện diện với bà ở mọi nơi. “Tôi đã quen biết quá nhiều đứa nhóc Hollywood hư hỏng nên không thể không nhận ra một đứa như thế. Những đứa con gái giống như Meg Koranda cả đời chẳng bao giờ phải làm việc, và bọn chúng luôn đinh ninh rằng chỉ cần có cái họ nổi tiếng đó thôi thì thích làm gì cũng được. Chính vì vậy nên Dallie và tôi mới tìm mọi cách để Ted luôn ý thức rõ rằng thằng bé sẽ phải tự mình kiếm sống.” Bà chấm chấm khăn giấy lên mũi. “Tôi sẽ nói cho cô nghe những gì tôi nghĩ nhé. Tôi nghĩ cô ta mới gặp Teddy một lần đã muốn giành ngay thằng bé cho bản thân.”
Quả thực sau khi gặp Ted Beaudine, cánh phụ nữ thường chẳng mấy người còn giữ được sự khôn ngoan, nhưng Emma không tin rằng Meg Koranda lại có thể coi việc phá đám lễ kết hôn của Ted là một chiến thuật hiệu quả nhằm kéo anh về phía mình. Tuy nhiên, bà nghiêng về một ý kiến không được mấy người ủng hộ. Emma tán thành giả thuyết rằng Meg hủy hoại hạnh phúc của cô dâu vì cô ta ghen tức khi thấy bạn mình đã đạt được thành công của cuộc đời. Nhưng điều Emma không thể hiểu được là vì sao Meg lại có thể làm được việc đó nhanh gọn đến thế.
“Tôi vốn đã coi Lucy là con gái của mình rồi.” Bà Francesca vặn vẹo mấy ngón tay trong lòng mình. “Từ lâu tôi đã không còn hy vọng rằng thằng bé sẽ gặp được một người nào đó đủ đặc biệt dành cho nó. Nhưng Lucy thật hoàn hảo, tất cả những ai từng nhìn thấy chúng bên nhau đều biết rõ điều đó.”
Làn gió ấm áp thổi xạt xào những lá cây đang rủ bóng xuống khoảng sân. “Giá như thằng bé đuổi theo Lucy, nhưng nó lại không làm thế,” bà Francesca tiếp tục. “Tôi hiểu lòng kiêu hãnh của nó. Có Chúa chứng giám, cha nó và tôi đã có quá đủ thứ đó rồi. Nhưng tôi chỉ ước gì thằng bé có thể gạt điều đó sang một bên.” Nước mắt bà bắt đầu ứa ra. “Ước gì cô có thể thấy Teddy hồi thằng bé còn nhỏ. Vô cùng điềm tĩnh và nghiêm túc. Vô cùng đáng mến. Nó là một đứa trẻ tuyệt vời. Đứa trẻ tuyệt vời nhất trần đời.”
Emma cho rằng ba đứa con của cô mới đúng là tuyệt vời nhất trần đời, nhưng cô không tranh cãi với Francesca, bà lúc này đang bật cười ủ rũ. “Nó lúc nào cũng lóng nga lóng ngóng. Chẳng bao giờ đi từ đầu này sang đầu kia căn phòng mà lại không vấp ngã. Tin tôi đi, tài năng thể thao của thằng bé mãi sau này mới phát lộ. Và nhờ Chúa, thằng bé đã vượt qua bệnh dị ứng.” Bà hỉ mũi. “Hồi xưa khuôn mặt thằng bé cũng thô nữa. Phải hàng bao nhiêu năm nó mới có được vẻ ngoài như bây giờ. Và nó rất thông minh, thông minh hơn hết thảy những người xung quanh - chắc chắn thông minh hơn tôi rồi - nhưng nó không bao giờ tỏ vẻ coi thường người khác.” Nụ cười nhạt nhòa nước mắt của bà khiến Emma đau nhói trong tim. “Nó luôn tin rằng ai cũng có điều gì đó để dạy nó.”
Emma lấy làm mừng vì ông bà Francesca và Dallie sắp về New York. Bà Francesca là người đam mê công việc, và việc ghi hình loạt phỏng vấn tiếp theo sẽ giúp bà quên đi chuyện này. Một khi đã yên vị trong ngôi nhà ở Manhattan, rất có thể họ sẽ bị cuốn theo dòng xoáy của cuộc sống nhộn nhịp nơi thành phố lớn, và sẽ thấy khỏe khoắn hơn nhiều so với thời gian ở lại Wynette.
Bà Francesca đứng dậy ra khỏi ghế, xoa xoa má mình. “Lucy chính là món quà cho những lời cầu nguyện tôi dành cho Teddy. Tôi đã nghĩ vậy là cuối cùng thằng bé cũng gặp được người xứng đôi vừa lứa. Một người thông minh và đoan trang, một người được lớn lên trong môi trường đầy rẫy những đặc quyền đặc lợi nhưng lại không vì thế mà sinh hư. Tôi cứ tưởng rằng con bé là người đặc biệt.” Vẻ mặt bà sắt lại. “Giờ thì rõ là tôi đã nhầm rồi, phải không?”
“Chúng ta ai cũng vậy mà.”
Chiếc khăn giấy đã bị vò nát trong tay bà, và bà nói khẽ đến độ Emma gần như không nghe thấy. “Tôi chẳng mong gì khác ngoài những đứa cháu nội, Emma ạ. Tôi... tôi luôn mơ về chúng... mơ được ôm ấp chúng, được hít hà những mái đầu bé bỏng non nớt của chúng. Những đứa con của Teddy...”
Emma biết rõ chuyện đời của bà Francesca và ông Dallie đủ để hiểu được cảm xúc của bà Francesca không chỉ đơn thuần là niềm khao khát có cháu của một người phụ nữ năm tư tuổi. Ông Dallie và bà Francesca đã không còn sống với nhau trong chín năm đầu đời của Ted, cho tới khi ông Dallie phát hiện ra mình có một cậu con trai. Một đứa cháu nội sẽ góp phần lấp đầy lỗ hổng đó trong cuộc đời họ.
Như thể đọc được suy nghĩ của bà Francesca nói, “Dallie và tôi chưa bao giờ được cùng nhau chứng kiến những bước đi chập chững đầu đời, được nghe những lời nói chập chững đầu đời.” Giọng bà trở nên cay đắng hơn. “Meg Koranda đã đánh cắp những đứa con của Ted khỏi tay chúng tôi. Cô ta đã đánh cắp Lucy, và cô ta đã đánh cắp cháu nội của chúng tôi.”
Emma không thể cầm lòng được khi chứng kiến nỗi buồn của bà. Cô đứng dậy, ôm chặt người bạn vong niên. “Bà sẽ vẫn có cháu nội mà, Francesca yêu dấu. Sẽ có một người phụ nữ khác dành cho Ted. Một người còn tuyệt vời hơn Lucy Jorik nhiều.”
Bà Francesca không tin cô. Emma có thể nhận thấy điều này. Và ngay lúc đó, cô quyết định sẽ giấu bà Francesca tin tức tệ hại nhất. Rằng Meg Koranda vẫn đang ở trong thị trấn.
“Cô còn thẻ tín dụng nào khác không, cô Koranda?” Cô lễ tân tóc vàng xinh đẹp hỏi. “Có vẻ như cái thẻ này không được chấp nhận.”
“Không được chấp nhận?” Meg hỏi như thể không hiểu từ này, nhưng thật ra cô hiểu rất rõ. Với một tiếng xoẹt khe khẽ, tấm thẻ tín dụng cuối cùng của cô biến mất vào trong máy quẹt thẻ giữa quầy tiếp tân của Wynette Country Inn.
Cô lễ tân không thèm che giấu vẻ hài lòng. Giờ Meg đã trở thành kẻ thù chung số một của Wynette, vì chính bởi cái vai trò quái đản của cô trong hôn lễ thất bại đó mà ngài thị trưởng thần thánh của thị trấn đã phải gánh chịu nỗi sỉ nhục mang tầm quốc tế đang lan truyền như trên lửa trong khắp thị trấn nhỏ vẫn còn vài phóng viên nấn ná. Cuộc đối đầu giữa Meg và Birdie Kittle, được thêm mắm thêm muối không biết bao nhiêu lần, cũng đã trở thành miếng mồi công khai. Giá như có thể rời khỏi Wynette ngay lập tức thì chắc hẳn Meg đã tránh được chuyện này, nhưng rõ ràng cô không làm thế được.
Gia đình Lucy đã rời Wynette hôm Chủ nhật, hai mươi tư giờ sau khi Lucy bỏ trốn. Meg những tưởng họ sẽ ở lại để chờ Lucy quay về, nhưng bà tổng thống phải tham dự hội thảo quốc tế của Tổ chức Y tế Thế giới ở Barcelona cùng với bố của Lucy, người chủ trì cuộc họp báo quy tụ các phóng viên mảng y học trên toàn thế giới. Meg là người duy nhất nói chuyện với Lucy kể từ khi cô dâu bỏ chạy khỏi nhà thờ.
Cô nhận được điện thoại vào đêm thứ Bảy, đúng khoảng thời gian cô dâu chú rể đáng lẽ đang rời tiệc cưới để hưởng kỳ trăng mật. Tín hiệu chập chờn, và cô gần như không nhận ra nổi giọng nói của Lucy, vừa mỏng manh, vừa run rẩy.
“Meg, tớ đây.”
“Luce? Cậu ổn chứ?”
Lucy bật cười, nghẹn ngào và có phần kích động. “Nói thế nào cũng được. Cậu biết cái phần hoang dã trong con người tớ mà cậu lúc nào cũng nói tới chứ? Có lẽ đã tớ tìm thấy nó rồi.”
“Ôi bạn tôi...”
“Tớ... tớ là kẻ hèn nhát, Meg ạ. Tớ không thể đối diện với gia đình mình.” “Luce, họ yêu cậu. Họ sẽ hiểu thôi.”
“Nói với họ là tớ xin lỗi nhé.” Giọng cô vỡ òa. “Nói với họ là tớ yêu họ, và tớ biết mình đã khiến mọi chuyện rối như bòng bong, tớ sẽ quay lại xử lý gọn gàng mọi thứ, nhưng... Chưa phải bây giờ. Tớ vẫn chưa làm thế được.”
“Được rồi. Tớ sẽ nói với mọi người. Nhưng...”
Lucy tắc máy trước khi Meg có thể nói thêm bất cứ điều gì.
Meg đã lấy hết dũng khí để kể lại với cha mẹ Lucy về cuộc điện thoại. “Con bé được quyền làm những gì nó muốn,” bà tổng thống nói, hẳn bà đã nhớ lại cuộc trốn chạy đầy nổi loạn của chính mình hồi xa xưa. “Còn bây giờ, chúng ta phải cho con bé một khoảng không gian của riêng nó.” Bà bắt Meg hứa sẽ lưu lại Wynette thêm một vài ngày phòng trường hợp Lucy quay về đây. “Đó là điều tối thiểu cháu có thể làm sau khi gây ra vụ lộn xộn này.” Mặc cảm tội lỗi trong Meg quá lớn, nên cô không thể từ chối. Thật không may, cả hai vợ chồng tổng thống đều không tính đến chuyện thanh toán khoản chi phí cho thời gian Meg ở thêm tại quán trọ.
“Kỳ thật,” Meg nói với cô lễ tân. Ngoài vẻ đẹp tự nhiên, cô gái này còn có mái tóc nhuộm highlight, trang điểm hoàn hảo, hàm răng trắng bóc, cộng thêm bộ dây chuyền và nhẫn, chứng tỏ cô thuộc mẫu người dành nhiều thời gian và tiền bạc cho vẻ bề ngoài hơn Meg nhiều. “Xui quá, tôi không mang theo thẻ nào khác. Tôi sẽ viết séc vậy.” Không thể, vì tài khoản séc của cô đã cạn từ ba tháng trước, và từ đó đến giờ cô vẫn phải sống dựa vào tấm thẻ tín dụng quý giá cuối cùng này. Cô lục ví. “Ôi, không. Tôi bỏ quên cuốn séc ở đâu rồi.”
“Không thành vấn đề. Có một cây ATM ngay góc phố.”
“Tuyệt.” Meg chộp lấy va li. “Tiện đường tôi sẽ bỏ cái này vào trong xe.”
Cô lễ tân nhanh chân vòng qua quầy giật cái va li lại. “Chúng tôi sẽ giữ nó hộ cô cho đến khi cô quay lại.”
Meg ném cho cô gái ánh mắt khinh khỉnh bậc nhất và nói những lời cô chưa bao giờ tưởng tượng sẽ thoát ra khỏi miệng mình. “Cô có biết tôi là ai không?” Tôi chẳng là ai cả. Tôi tuyệt đối không phải là ai cả.
“Ồ, có chứ. Tất cả mọi người đều biết mà. Nhưng chúng tôi cũng có những luật lệ riêng.”
“Được thôi.” Cô xách túi lên, một chiếc nhãn hiệu Prada dùng lại của mẹ cô, rồi lướt ra khỏi sảnh. Đến lúc ra được bãi đỗ xe, cô đã toát hết cả mồ hôi lạnh.
Chiếc Buick Century mười lăm năm tuổi vô cùng ngốn xăng của cô trông chẳng khác gì một cái vật thể xấu xí chen vào giữa con xe Cadillac CTS và Lexus mới coóng bóng loáng. Dù được hút bụi liên tục, chiếc Xế Gỉ vẫn nồng nặc mùi thuốc lá, mồ hôi, thức ăn nhanh và mùi rêu bùn. Cô hạ kính cửa sổ xuống hòng đón chút khí trời. Mồ hôi lấp lánh bên dưới chiếc áo mỏng tang cô mặc kèm với quần jean, đôi hoa tai bạc đánh lại từ mấy cái khóa thắt lưng cô kiếm được ở Lào và cái mũ hình chuông bằng nỉ màu hạt dẻ được cửa hàng đồ cũ cô thích nhất ở L.A. quảng cáo rằng đã mua lại nó từ gia trang của nữ diễn viên Ginger Rogers.
Cô tì trán lên vô lăng nhưng nghĩ nát nước vẫn chẳng tìm ra giải pháp nào. Rút điện thoại ra khỏi ví, Meg đành phải làm một việc mà trước nay cô vẫn thề sẽ không bao giờ làm. Cô gọi điện cho cậu em trai Dylan.
Dù kém cô tận ba tuổi, Dylan giờ đã trở thành một chuyên gia tài chính cực kỳ thành công. Chẳng mấy khi chú tâm lắng nghe mỗi khi cậu kể chuyện công việc của mình, nhưng cô vẫn biết cậu là một người rất giỏi giang. Vì cậu nhất định không chịu cho cô số điện thoại công việc nên cô đành gọi vào di động. “Dyl này, gọi cho chị ngay nhé. Có chuyện khẩn cấp. Chị nói thật đấy. Em phải gọi lại cho chị ngay lập tức đấy.”
Có gọi cho Clay, anh em sinh đôi của Dylan, thì cũng chẳng ích gì. Clay vẫn chỉ là một chàng diễn viên nghèo rớt mùng tơi, gần như chẳng có đủ tiền thuê nhà, nhưng tình trạng này cũng chẳng kéo dài lâu nữa, vì cậu ấy đã có tấm bằng của trường Sân khấu Yale, cộng thêm ít danh sách càng ngày càng dài các vai diễn trong những rạp không phải Broadway cùng một tài năng chỉ làm rạng danh tên họ Koranda. Khác với Meg, cả hai người em trai đều không nhận bất kỳ khoản trợ cấp nào từ bố mẹ ngay sau khi tốt nghiệp đại học.
Cô chộp lấy điện thoại ngay khi chuông reo.
“Em gọi lại cho chị,” Dylan nói, “chỉ vì tò mò thôi. Sao chị Lucy lại hủy đám cưới thế? Thư ký của em nói là trên một website lá cải, người ta đang bảo chính chị đã thuyết phục chị ấy hủy hôn. Chuyện gì đang xảy ra ở đó thế?”
“Chẳng có chuyện gì hay ho cả. Dyl, chị cần vay tiền.”
“Mẹ đã bảo sẽ có chuyện này mà. Câu trả lời là không.”
“Dyl, chị không đùa đâu. Chị bị kẹt ở đây rồi. Họ đã lấy thẻ tín dụng của chị, và...”
“Cư xử cho ra người lớn đi, Meg. Chị đã ba mươi rồi. Đã đến lúc phải tự bơi rồi.”
“Chị biết. Chị cũng đang cố gắng thay đổi đây. Nhưng...”
“Cho dù chị đã đâm đầu vào chuyện gì đi nữa thì chị cũng có thể tự mình thoát ra thôi. Chị thông minh hơn chị tưởng nhiều. Em tin tưởng ở chị, cho dù chính chị còn chẳng tin nổi bản thân mình.”
“Chị đánh giá rất cao điều đó, nhưng bây giờ chị cần giúp đỡ. Thật đấy. Em phải giúp chị.”
“Lạy Chúa tôi, Meg. Chị không có chút sĩ diện nào sao?”
“Nói thế thì kinh quá đấy.”
“Vậy thì đừng để em phải nói thế. Chị có đủ khả năng xử lý mọi vấn đề trong cuộc đời. Kiếm việc làm đi. Chị biết nghĩa của câu đó, đúng không?”
“Dyl...”
“Chị là chị gái em, và em yêu chị, và vì yêu chị nên giờ em cúp máy đây.”
Cô nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại câm lặng, giận dữ nhưng không hề ngạc nhiên trước bằng chứng về cái âm mưu mà gia đình đang ngấm ngầm thực hiện sau lưng cô. Bố mẹ cô đang ở Trung Quốc, và họ đã tuyên bố cực kỳ rõ ràng rằng họ sẽ không giải cứu cô lần nữa. Người bà Belinda đáng sợ của cô chẳng đời nào cho không cô cái gì. Bà đã bắt Meg ghi danh vào các khóa học diễn xuất hay thứ gì đó cũng quái quỷ ngang thế. Còn chú Michel... Lần cuối cùng hai chú cháu gặp nhau, ông đã rao giảng một bài thuyết giáo đầy phũ phàng về trách nhiệm cá nhân. Vì Lucy đang chạy trốn, Meg chỉ còn lại ba người bạn thân, tất cả đều giàu có và đều không muốn cho cô mượn tiền.
Hay là có nhỉ? Họ là thế đấy. Georgie, April và Sasha đều là những phụ nữ độc lập tính khí thất thường hàng bao nhiêu năm nay vẫn ra rả với Meg là cô nên thôi cái trò lang bạt kỳ hổ đi và cố gắn bó với thứ gì đó. Tuy nhiên, nếu cô giải thích rõ tình huống tuyệt vọng đến mức nào...
Chị không có chút sĩ diện nào sao?
Liệu cô có thật sự muốn trao cho ba người bạn thành đạt ấy thêm một bằng chứng về sự bất tài vô dụng của cô không? Nhưng mặt khác, cô còn lựa chọn nào không? Cô có chưa đầy một trăm đô trong ví, không thẻ tín dụng, tài khoản séc rỗng không, chưa tới nửa bình xăng, cộng thêm một con xe có thể dở chứng bất kỳ lúc nào. Dylan nói đúng. Dù cho căm ghét chuyện này đến mức nào, cô cũng phải kiếm việc thôi... và cố mà kiếm cho nhanh.
Cô suy ngẫm hồi lâu. Vốn là cái gai trong mắt dân tình thị trấn, cô sẽ chẳng bao giờ kiếm nổi một công việc tại nơi này, nhưng cả San Antonio và Austin đều cách đây chưa tới hai giờ ô tô, vừa đủ cho nửa bình xăng. Chắc chắn cô có thể tìm được việc tại một trong hai nơi ấy. Làm thế cũng đồng nghĩa với việc cô đang trốn thanh toán hóa đơn, một hành động cô chưa từng làm trong đời, nhưng cô chẳng còn lựa chọn nào khác.
Lòng bàn tay cô thấm ướt mồ hôi lên tay lái trong lúc cô chậm chạp đánh xe rời khỏi bãi đỗ. Bộ giảm thanh tàn tạ làm con xe gầm gào đinh tai nhức óc, làm dậy lên trong cô nỗi nhớ cồn cào đối với chiếc Nissan Ultima động cơ tích hợp mà cô đã buộc phải từ bỏ khi bố cô cắt khoản chu cấp. Cô chỉ có đống quần áo ở sau xe cùng những món đồ cất trong ví. Cô muốn phát điên vì phải bỏ va li lại, nhưng vì cô nợ quán trọ Wynette tận ba đêm, vị chi hơn bốn trăm đô la, nên cô cũng chẳng làm được gì. Ngay khi kiếm được việc làm, cô sẽ trả lại tiền cho họ cộng thêm cả lãi suất. Việc làm kiểu gì thì đến giờ cô vẫn chưa định hình được. Một công việc tạm thời nào đó, và hy vọng tiền lương kha khá, cho tới khi cô biết mình nên làm gì tiếp theo.
Một phụ nữ đang đẩy xe em bé dừng lại nhìn chằm chằm chiếc Buick màu nâu khi nó phụt ra một đám khói mù mịt nồng nặc mùi dầu. Nếu tính thêm cả bộ giảm thanh đang gào lên ầm ĩ thì quả thật Xế Gỉ còn khuya mới được xem là con xe lý tưởng để đào tẩu, và cô cố lún người sâu xuống ghế. Cô chạy qua tòa nhà ủy ban xây bằng đá vôi và thư viện công cộng có hàng rào bao quanh rồi tiến về vùng ngoại ô. Cuối cùng, cô nhìn thấy tấm biển báo ranh giới thị trấn.
BẠN ĐANG RỜI WYNETTE, TEXAS
Thị trưởng Theodore Beaudine
Cô đã không gặp Ted kể từ sau cuộc đụng độ đáng sợ của họ trong bãi đỗ xe nhà thờ, và giờ thì cô sẽ không còn phải gặp anh nữa. Cô sẵn sàng đem bất kỳ thứ gì ra để đánh cược rằng phụ nữ trên khắp thế giới đang xếp thành hàng chầu chực chờ được thay vị trí của Lucy.
Tiếng còi hụ ré lên đằng sau cô. Cô liếc mắt sang kính chiếu hậu, nhìn thấy ánh đèn đỏ nhấp nháy của xe tuần tra cảnh sát. Ngón tay cô siết chặt vô lăng. Cô đánh xe vào vệ đường, thầm cầu mong mọi tội lỗi đều bắt nguồn từ bộ phận giảm thanh ồn ã và tự nguyền rủa chính mình vì đã không chịu sửa nó trước khi cô rời L.A.
Nỗi khiếp sợ cuộn lên trong bụng khi cô đợi hai viên sĩ quan kiểm tra biển số xe của cô. Cuối cùng, viên cảnh sát đứng ở đuôi xe bên phía vô lăng cũng xuất hiện, thong thả tiến về phía cô, bụng tròn xoe chẳng khác gì cái trống đu đưa trên thắt lưng. Ông có làn da hồng hào, mũi to, mái tóc xoăn dày màu muối tiêu bù xù dưới cái mũ.
Cô hạ cửa sổ xuống, trưng nụ cười lên khuôn mặc. “Xin chào, ngài sĩ quan.” Lạy Chúa lòng lành, cầu mong sao chuyện này là do cái giảm thanh tàn tạ kia chứ không phải vì tội con đã không chịu thanh toán hóa đơn. Cô đưa giấy đăng ký và bằng lái ra khi ông ta còn chưa kịp nói gì. “Có chuyện gì sao ạ?”
Ông săm soi giấy đăng ký xe của cô một lúc, rồi chuyển sang cái mũ nỉ của cô. Cô định bảo đây là cái mũ Ginger Rogers từng đội, nhưng trông ông khó lòng mà thích các bộ phim cổ. “Thưa cô, chúng tôi nhận được tin báo cô đã rời khỏi nhà trọ khi vẫn chưa thanh toán hóa đơn.”
Ruột gan cô lộn nhào. “Tôi ư? Thật kỳ cục.” Thấp thoáng bên khóe mắt, cô thấy hình như người đồng nghiệp của ông đã quyết định lộ diện. Nhưng nhân vật này thì mặc đồng phục thì lại mặc quần jean và áo phông đen. Và người này...
Cô dán mắt nhìn sát vào gương hơn. Không!
Tiếng giày lạo xạo nghiến lên mặt sỏi. Một bóng hình sừng sững bên hông xe. Cô ngước mắt lên và thấy mình đang nhìn thẳng vào đôi mắt vô cảm màu hổ phách của Ted Beaudine.
“Xin chào, Meg.”
Lỡ Yêu Người Hoàn Hảo Lỡ Yêu Người Hoàn Hảo - Susan Elizabeth Phillips Lỡ Yêu Người Hoàn Hảo