Cây Người epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 3
tan Parker quyết định sẽ không lấy cô gái nhà Fibbens, nếu quyết định đó chỉ là tính toán thiệt hơn. Anh chỉ biết rằng mình sẽ làm điều đó và vì không có lý do gì trì hoãn tổ chức lễ cưới, nên nó đã được tổ chức rất sớm trong một nhà thờ nhỏ tại Yuruga, trông hơi xiêu vẹo do những bàn tay kém khéo léo hơn kỳ vọng xây cất trên một mảnh đất gồ ghề.
Ông Clarrie Bott đến nhà thờ vì, như ông đã giải thích cho bà vợ khó tính và các cô con gái làm mình mẩy của mình, mẹ của Stan Parker là em họ quá cố, hay nói đúng ra đã qua đời của ông. Chú Fibbens cũng có mặt ở đó - ông đi ủng - cùng một dúm người trong nhà, trừ bà thím, còn đang cho đứa con thứ bảy bú. Lễ cưới được tổ chức thì chỉ bà Erbey là có lợi về mặt tình cảm. Bà rất vui mỗi lần dự đám cưới, nhất là khi bà quen biết cô dâu. Bà đưa Amy Fibbens quyển Kinh Thánh, một chiếc áo gần như mới (chỉ bị sém một tý ở gần thắt lưng), và cái nạo hạt nhục đậu khấu nhỏ bằng bạc mà ai đó đã tặng bà tại lễ cưới của chính mình, nhưng bà chẳng biết dùng nó vào việc gì.
Amy Parker mân mê cái nạo bằng bạc trong tay, và cũng thấy có khó khăn tương tự, nhưng đây là vật đẹp nhất cô từng thấy, nên cô đã chân thành cảm tạ bà Erbey.
Hôm đó trời đẹp, nhưng lạnh, trên bậc thềm nhà thờ buồn tẻ, Amy Parker xếp chỗ cho mình và đồ đạc hành lý vào chiếc xe của chồng, chuẩn bị rời Yuruga. Chiếc nạo bằng bạc được nhét vào túi cô, chiếc áo bị sém giấu ở dưới chiếc áo vét, trong tay cô cầm quyển Kinh Thánh và đôi găng bằng bông.
- Tạm biệt Amy, - chú Fibbens lầm bẩm.
Gió làm ông chảy nước mắt, và vành mắt rất đỏ. Mấy cô em họ cào kéo.
- Tạm biệt chú, - Amy bình thản nói. - Tạm biệt các em! - Vừa nói cô vừa đưa tay phát nhẹ vào mông một đứa.
Cô hoàn toàn bình tĩnh.
Cùng lúc ấy người bán vải, người đã tặng mấy thước vải trúc bâu, đang bảo chú rể tận dụng cuộc đời, còn anh chàng thanh niên, tập trung vào cái khác, chỉ nheo mắt và gật đầu với cung cách hoàn toàn khác với anh. Mới từ sáng tới giờ mặt anh đã gầy xọp.
- Cuối cùng chỉ có lòng tôn kính, - người bán vải nói, bộ ria méo xệch đi, - chỉ có lòng tôn kính mới đáng kể.
Người thanh niên đứng gật đầu như một cậu bé khi người bán vải thao thao bất tuyệt về sự khôn ngoan của mình.
Cuối cùng, lúc những đứa bé ném một dúm gạo và bà Erbey đứng nhón chân vẫy tay, khi vỗ nhẹ, khi mỉm cười, khi kéo đuôi tóc ra khỏi miệng, rồi lại vẫy tay, lúc đó chiếc xe chuyển bánh rời nhà thờ thấp lè tè, dưới tán lá kim, lòa xòa đâm cả vào mũ, vợ chồng Parker, giờ họ đã thành vợ thành chồng, biết rằng thế là xong hoặc thế mới bắt đầu.
Chiếc xe lao đi, lăn bánh trên những vết lún ở đoạn đường đó của thành phố. Con ngựa sặc sỡ hất hất chùm lông trán. Mây nhẹ lửng lơ bay.
- Hừm, ta đi thôi, - tiếng cười ấm áp của anh vang lên. - Một chuyến đi dài đấy. Em đừng ngại.
- Có ngại cũng chẳng được. - Chị cầm mũ mỉm cười, ngắm nhìn phong cảnh.
Hai tấm thân khác biệt lắc lư theo nhịp xe. Vì họ đã thay đổi, từ cái giây phút khắc khoải thề nguyện trong nhà thờ. Giờ đây họ khác biệt, nhưng là một, họ có thể nhìn vào mắt nhau không khó khăn gì.
Có điều, khi thành phố Yuruga đã khuất, mắt Amy Parker lúc này chỉ dành cho phong cảnh. Những gì chị vừa làm, nhất thời hay thường xuyên, cũng chẳng liên quan đến người khác. Chị chẳng thuộc về ai trong cái thành phố đó. Bà thím béo núc ních chẳng có lấy một giọt nước mắt, mà chị nào có chờ mong. Bản thân chị chẳng bao giờ khóc một con người cụ thể nào. Vậy mà giờ đây chị thấy trong lòng nổi lên một nỗi buồn khi phải vật lộn với sự chuyển động của xe. Như thể, qua cách lăn bánh vun vút và qua phong cảnh lùi lại phía sau, chiếc xe như đang đòi chị phải tuyên bố tình yêu của mình. Nó buộc chị phải công nhận sự âu yếm mà cho đến giờ phút này chị vẫn thận trọng lờ đi.
Chiếc xe lắc lư. Con đường làm chị tan nát cõi lòng, nên lúc này Amy Parker - đau khổ trước cảnh ra đi - từ từ bứt khỏi nơi chị đã gửi gắm tình cảm cuộc đời. Chị đã nhìn thấy những bộ xương bò chết, thậm chí còn có giòi bọ bên trong, chị nhớ tới con Biddy của bà Venable có những đầu vú ngắn đã bị chết vì bệnh sốt sữa. Giờ đây chị đã cảm thấy. Cái thung lũng ấy, nó ùa tới chị với giấc ngủ ngắn đã bị mùa đông và cả những con thỏ khuấy động. Cảnh chắp vá của thung lũng chẳng bao giờ còn sáng chói nữa, ngay cả dưới những hạt sương của thời thơ ấu. Nhưng cái đã và đang còn là cảnh chiếu sáng với những ngôi nhà quét sơn dưới những hàng cây đung đưa, với những chiếc xe ngựa chở đầy hộp sắt tây sáng loáng mà nông dân dùng đựng sữa, với những em bé mắt nhìn chăm chăm và với những con vịt vầy nước, với khói xanh cuộn lên từ những bếp lửa ban mai, những con chim ác là mượt lông, và những bà vợ nông dân đang lao nhanh vào thành phố trên những cỗ xe ngựa, thở khò khè trong bộ đồ nịt sát người và những bộ khăn lông cáo đỏ quấn quanh cổ, tất cả đều vĩnh viễn phai mờ tại khúc quanh của con đường.
Amy Parker quay lại nhìn nơi đó lần cuối, tay cầm mũ trong gió. Trên đất có một tấm tôn, bay từ nóc nhà Fibbens trong một cơn lốc, và họ cũng đã luôn miệng nói đến chuyện lợp lại. Ôi, chị không thể nào kìm được. Miệng chỉ chực òa khóc.
Anh cất tiếng tặc tặc giục ngựa, lấy dây quất vào chiếc mông đầy lông của nó.
- Em thấy tiếc hả, - anh nói, quờ tay với dọc theo tấm ván để được chạm nhau.
- Em chẳng có gì để mất ở Yuruga cả, - chị nói. - Đinh tai nhức óc và rầy la suốt ngày.
Chị xì mũi. Chị nhớ đến những viên kẹo bi mình ăn ở dưới cầu, rồi đến tiếng bánh xe chạy lộc cộc trên ván cầu, đến những con én bay vào buổi chiều trống trải đó, đôi cánh chúng như những lưỡi hái cắt ngang ánh nắng. Chị không thể thoát khỏi thời thơ ấu của mình. Từ chiếc khăn tay của chị tỏa ra thoang thoảng mùi bạc hà buồn da diết.
Anh ngồi yên bên cạnh chị. Có những nỗi buồn của người khác ta không sao chia sẻ được. Nhưng anh biết rõ rằng chị không hề hối tiếc, mặc dầu chị bị xe nhồi rất mạnh, và anh cảm thấy chị đang phải vật lộn với sự chuyển động của xe. Đúng là có cái gì đó cần phải đấu tranh đến cùng. Vì vậy anh thấy vui lòng.
Đấy là một chuyến đi dài. Ngay sau đó là con đường rừng đầy cát không thể nào chịu đựng được. Chiếc xe chồm lên, lắc lư. Còn con ngựa thở mạnh, hiên ngang trút sức lực ra khỏi đôi lỗ mũi hồng của nó. Chắc anh chồng muốn nói cho vợ biết: Chúng mình đang qua Nơi Này, Nơi Nọ, hay chúng mình đã đi cách xa Nơi Đây, Nơi Đó hàng bao dặm. Nhưng anh không sao nói nên lời. Đoạn đường quả là xa thăm thẳm.
Được, nếu cần ta sẽ ngồi suốt đời, chị nhủ thầm khi đã khóc hết nước mắt.
Cô gái ngồi, mắt dán xuống đường. Không như những gì chồng mình e ngại, chị chẳng lo lắng gì trong những giây phút lạ lùng này. Do hoàn toàn không hay biết gì về cuộc đời, và cũng do đã sống một cuộc đời hoàn toàn nghèo túng, chị không dám chắc, mà chỉ biết mình phải quy phục như vậy, chị cố ngồi thẳng người trong chiếc xe. Có thể cuộc đời là một quãng đường toàn đá sỏi, mặt trời và gió lộng màu cát và đơn điệu. Chị đã mặc rất diện cho ngày cưới, và ở một nơi xa lạ, không có gì nổi bật, chị có thể tin bất cứ điều gì.
Song có lúc họ đi qua một cái hộp sắt tây đóng đinh lên một gốc cây, và trong hộp là một hòn đá và một con thằn lằn chết.
Và có lúc những bánh xe đã lao qua làn nước màu nâu và nước mát dịu tung lên thấm vào da thịt nóng bỏng của chị.
Anh nói, đó là khe Furlong.
Chị cảm thấy mình sẽ nhớ mãi tất cả những điều mà chồng chị đang kể cho chị nghe.
Sau đó chiếc xe trở nên sinh động hơn. Gió thổi tạt cả mồ hôi từ vai con ngựa vào mặt họ. Mùi nồng nồng của da ngựa ẩm ướt và mùi lá úa nát mà gió trút xuống từ những lùm cây ở khu rừng đó. Tất cả đều cuốn tung, cành và lá, đàn ông và đàn bà, bờm ngựa và dây cương trong sự phô diễn mà phong cảnh tạo nên. Nhưng chủ yếu đó là sự phô diễn của gió. Gió lấy lại những gì nó đã cho.
- Thế gió luôn thổi ở những vùng này à? - Chị cười.
Miệng anh cử động. Đó không phải là câu hỏi cần trả lời. Vả lại, anh thừa nhận và chấp thuận quyền lực vô hạn của khoảng cách.
Nhưng đây lại là cái chị đã không, và có lẽ sẽ không bao giờ chấp thuận. Chị bắt đầu thấy căm ghét gió, và khoảng cách, cùng con đường, bởi vì tầm quan trọng của chị có chiều lung lay.
Cũng ngay lúc đó gió đã quật gãy một cành cây và quăng nó khô khốc, đen ngòm và quằn quại - đến nỗi vỏ của nó quất vào má chị, trong chốc lát gieo nỗi khủng khiếp cho con ngựa, rồi bị đập vụn, vô tác dụng, trên con đường họ đã đi qua.
A a a, chị thét to, toát ra một hơi thở nóng, bàn tay chạm vào giây phút sợ hãi đầy ảm đạm, ghê gớm hơn cả vết thương, trong khi đó thân thể của anh dán chặt vào sức mạnh của con ngựa.
Khi cả hai người đã lấy lại hơi, anh nhìn vào vết xước trên má vợ. Đó là cái má của cô gái gầy, với khuôn mặt anh đã quen vào cái đêm vũ hội và là người rõ ràng anh đã lấy làm vợ. Anh thấy đầy lòng biết ơn.
Anh yêu, chị há hốc miệng một cách biết ơn, cảm thấy tấm thân rắn chắc của anh.
Da thịt họ thật dễ chịu. Một nỗi dịu dàng chưa từng thấy.
Trước đây họ không hôn nhau nhiều.
Anh nhìn vào xương gò má chị, vào cổ chị được phô ra một cách tự nguyện cho anh.
Chị nhìn vào miệng anh, đôi môi đầy đặn và chẽ ra, bị gió làm cho thô nhám, vào bộ răng trắng có dính máu từ vết thương nhỏ trên má chị.
Hai người nhìn nhau, trao đổi giây phút đầu tiên linh hồn của họ quyện vào nhau. Rồi họ lặng lẽ ổn định lại chỗ và đi tiếp.
Không có sự kiện nào khác khuấy động cảnh đơn điệu của cảm xúc, sự nối tiếp của con đường, sự vô tận của bụi rậm vào cái hôm đầu tiên ấy cho đến tận buổi tối, đúng lúc mặt họ bắt đầu trở nên xám xịt, họ đến khu đất trống mà anh đã tạo ra để sống.
Giờ đây thành quả nho nhỏ của anh đã hoàn toàn được phơi bầy. Tiếng chó sủa, nửa hung hãn, nửa tuyệt vọng, vọng vào cảnh im lặng thanh bình.
- Đây rồi, - anh nói, tựa như phải nói khẽ và nhanh mới được.
- Ồ, - chị mỉm cười, thẹn thùng, - đây là nhà anh xây à?
Nó cũng chẳng hơn gì túp lều nhà Fibbens. Chị nhủ thầm. Bầu không khí xung quanh im lặng tới đặc quánh.
- Đúng, - anh lẩm bẩm, nhảy xuống, - em thấy đấy, không phải lúc nào con đường cũng trải toàn hoa hồng.
Chị biết mình có thể thấy rõ, nhưng vẫn cứ phải nói.
- Có lần em nhìn thấy một căn nhà, - chị nói, giọng nghe phấn chấn, như mơ màng, - có một bụi hồng bạch trồng ở bên, và em luôn tự nhủ nếu mình có một căn nhà, mình sẽ trồng một cây hồng bạch. Đó là hoa thuốc lá, bà chủ nhà bảo vậy.
- Hừm, - anh nói, cười, - em có nhà rồi đó thôi.
- Vâng, - chị vừa nói vừa bước xuống xe.
Không xuống nổi, nên chị với lấy tay anh. Con chó đánh hơi quanh viền váy, khiến chị nhìn xuống, ngại ngùng. Sườn nó run rẩy.
- Tên nó là gì anh? - Chị hỏi.
Anh bảo con chó không có tên riêng nào hết.
- Nhưng nó phải có tên mới được, - chị nói.
Lúc lòng tin đã làm cho xương cốt chị trở nên có sức sống, chị bắt đầu lấy các thứ ở trên xe xuống, rồi sắp xếp đồ đạc vào trong nhà, coi như đây là lẽ tự nhiên. Chị thận trọng đi đi lại lại. Chị tạo ấn tượng như mình không can dự vào những gì đã có ở đây. Thực ra, hầu hết thời gian chị nhìn thẳng về phía trước trong căn nhà của chồng mình, cẩn thận đến mức còn có bao nhiêu thứ chị chưa nhìn thấy.
Nhưng chị biết chúng có ở đây. Để sau xem cũng được.
- Có nước đây, - anh vừa nói, vừa đi đến đặt một xô nước bên trong lối cửa.
Chị đi lại trong cái nơi đang trở thành nhà của mình. Chị nghe tiếng rìu anh bổ. Chị nhoài người ra ngoài cửa sổ, bên ngoài đó dứt khoát chị sẽ trồng hồng bạch, và ở cả chỗ sườn dốc hãy còn ngổn ngang gốc cây mới đốn trông lởm chởm.
- Bột mì để đâu hả anh? - Chị gọi. - Em không sao tìm thấy muối.
- Anh tới đây, - anh vừa nói, vừa thu gọn những thanh củi.
Lúc đó đã tối, bầu trời nhợt nhạt như những thanh gỗ nằm rải rác. Khoảng đất trống trải rộng ra. Hai người và những hoạt động quan trọng của họ chắc cũng không thể lộ rõ hơn được. Không còn nghi ngờ gì về tầm quan trọng đó, vì một đã trở thành hai. Một người đã được làm phong phú lên. Những con đường của họ đan chéo nhau, tách ra, gặp nhau và quện chặt nhau. Tiếng họ đến với nhau qua những vực thẳm. Sự huyền bí về mục đích của họ đã giải được sự huyền bí của im lặng.
- Em sẽ thích nơi này. - Chị mỉm cười, bên những mảnh bánh vụn trên bàn, khi họ đã ăn xong chỗ bánh nướng chị làm, và bên những tàn dư còn sót lại của món thịt bò muối.
Anh nhìn chị. Thật ra sâu trong tâm tưởng anh không hề nghĩ là chị lại không thích nơi của anh. Chưa bao giờ anh nảy ra ý nghĩ rằng cái gì phải như thế mà lại không thế. Cây hồng mà hai người trồng đang bắt rễ bên ngoài cửa sổ căn nhà đơn sơ, những bông hoa đầy đặn của nó rơi xuống sàn nhà, tỏa hương khắp căn phòng với mùi thuốc lá sợi bị vò nát.
Ngay lúc còn bé, anh đã có khuôn mặt của một người tự tin. Vài người bảo anh có khuôn mặt lạnh lùng. Nếu anh không kín đáo như vậy, chắc chắn anh đã khó mà cởi mở được. Trí tuệ và thơ ca chảy trong huyết quản anh, nhưng chôn sâu nên không bao giờ có thể khai thác được nhiều. Anh thường tỉnh dậy, giấc mơ đã làm cho bộ mặt anh trông ngơ ngác, nhưng anh thường không bao giờ thổ lộ cái mình đã nhìn thấy.
Vì vậy nhẽ ra anh kể cho chị nghe những điều ngọt ngào, dẫu sao chẳng phải là của anh, anh lại cầm tay chị bên trên những đồ ăn thừa của bữa ăn khốn khổ. Xương bàn tay anh là của anh, và có thể diễn đạt được bài thơ bị nhốt kín trong anh và sẽ chẳng bao giờ được giải thoát. Bàn tay anh quen với sỏi đá và sắt thép, với cái khẽ rùng mình của gỗ. Tuy vậy bàn tay đó vẫn run rẩy đôi chút khi học ngôn ngữ của xác thịt.
Đêm đó đã trở thành bài thơ của ánh trăng, vầng trăng non nguyên sơ cắt cong cong từ nền giấy, làm cho ngôi nhà thô kệch nom vĩnh cửu. Hình dáng ngôi nhà bất khả xâm phạm dưới mảnh trăng giấy đó, còn bản thân mặt trăng thì không xao động.
Rồi cô gái gầy gò, sau khi cởi áo xống, sắp xếp lại giày và cuộn tròn đôi găng mà chị vẫn khư khư cầm nơi tay chứ chưa dùng tới, liền noi gương mặt trăng mà lấy lại lòng can đảm. Đồ đạc, trông to lớn dưới ánh trăng, đã bị những thói quen của con người làm cho xộc xệch, song chúng cũng đã quen với những điều đó. Vì vậy chị chỉ bị hoảng sợ một chút, rồi dễ dàng xua tan.
Da thịt dưới ánh trăng trở nên hùng tráng.
Người đàn ông ôm tấm thân người đàn bà và dạy cho nó không biết sợ. Miệng người đàn bà đặt lên mí mắt người đàn ông nói chuyện với anh từ đáy sâu thẳm đầy an ủi của mình. Người đàn ông áp lên thân người đàn bà cái sức mạnh và lòng vị kỷ đôi lúc đáng sợ của mình. Người đàn bà nuốt chửng thứ không có khả năng tự vệ của người đàn ông. Chị có thể cảm thấy nỗi ngờ vực rung rung nơi bắp đùi anh, đúng như chị đã trải qua tình yêu và sức mạnh của anh. Chị không sao moi rút ở mình ra mối tình mà cuối cùng chị có khả năng ban cho một cách mỹ mãn như giấc ngủ hay cái chết.
Sau đó, khi trời đã trở lạnh, và mặt trăng giấy đã lặn, hơi bị tả tơi trong lùm cây, người đàn bà chui vào trong chăn, áp sát vào thân hình một người đàn ông đang ngủ đó là chồng mình. Chị nắm chặt chiếc song sắt ở đầu giường và ngủ thiếp đi.
Cây Người Cây Người - Patrick White Cây Người