Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Xibiri
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Tập I - Cuộc Vượt Ngục Kachia - Phần Một - Cuộc Vượt Ngục - Chương 1
E
piphan Crivôrucốp, chủ nhân ông đầu tiên ở làng Gôlêsikhinô, đang tổ chức đám cưới cho đứa con trai của y là Nhikipho. Dạo ấy là vào khoảng giữa tháng mười. Gió lạnh từ sông Ôbi từng cơn từng cơn thổi về, cuốn theo những bông tuyết làm mù mịt cả không trung. Trên bãi cát đã óng ánh một lớp băng, trên cánh đồng, trong tầm mắt của ta, những đám cỏ và những thửa ruộng vừa gặt cũng ánh lên qua màng băng mỏng. Mùa đông đang phóng tới, chỉ có những cánh rừng bá hương vây quanh làng Gôlêsikhinô cây mọc sát vào nhau là kìm bớt được phần nào cuộc tấn công ào ạt ấy. Bầu trời trắng đục và những đám mây đen lững lờ trôi trên làng xóm bất cứ lúc nào cũng có thể rắc tuyết xuống phủ kín khắp mọi nơi.
Họ hàng đông con nhiều cháu nhà Crivôrucốp làm náo động cả một vùng. Suốt ngày đêm trong ngôi nhà của Êpiphan không ngớt tiếng hát và tiếng phong cầm đệm, tiếng chân dậm của đám người nhảy múa, tiếng hò hét, đùa rỡn của bọn bạn thằng Nhikipho. Những người làm thuê cho nhà Crivôrucốp, người phi ngựa kẻ chạy bộ, tỏa đi khắp nơi lo kiếm nào cá tươi từ sông Ôbi, nào chim đa đa và gà lôi từ rừng taiga, nào những hộp mật và hộp nhựa bạch dương từ cánh rừng trên khu đất vỡ hoang của nhà Crivôrucốp đưa về làm món ăn cho bữa tiệc cưới. Những con chó làng Gôlêsikhinô hoảng sợ trước sự náo động bao trùm khắp làng xóm ấy, đã sủa lên ầm ĩ, liên hồi, sủa đến đứt cả hơi.
Vào ngày thứ ba, khi đám cưới đang ở độ náo nhiệt nhất, thì một chiếc thuyền chở viên cảnh sát trưởng của vùng Parabên và năm người vệ binh ghé vào bờ sông, phía làng Gôlêsikhinô.
Viên cảnh sát trưởng đẩy cửa xông vào nhà Crivôrucốp và hét lớn, át cả tiếng ầm ĩ làm rung động nhà cửa:
- Tôi ra lệnh, tất cả phải im ngay!.. Một tên tội phạm quốc gia quan trọng vào bậc nhất giam ở Narưm vừa trốn khỏi nhà tù! Lệnh xuống là phải tìm bắt cho bằng được tên này, bắt sống hay giết chết đem xác về cũng được! Ai bắt được y sẽ được trọng thưởng! Tất cả hãy lập tức mặc ấm vào - cả đàn ông lẫn đàn bà - không phân biệt!
Đám người trong nhà Crivôrucốp đứng ngẩn ra một lúc. Từ lúc cha sinh mẹ đẻ họ chưa từng chứng kiến một sự kiện nào tương tự: hãy dẹp đồ nhắm với rượu lại mà ba chân bốn cẳng chạy đuổi theo một tên tù vừa trốn khỏi nhà giam, chẳng ma nào biết hắn là ai, cứ như thể mình không còn phải là con người nữa mà, lạy trời, là một thứ ngựa cái chết tiệt nào vậy.
Mấy cậu thanh niên vừa định phản đối, nhưng viên cảnh sát trưởng đã len được vào tận chỗ Êpiphan ngồi dưới chân bức tượng thánh và thầm thì vào tai y, cái tai sứt đeo khuyên, một điều gì đó.
Và người ta nghe tiếng ông chủ nhà quát lớn:
- Các bạn trẻ, cấm không ai được nói gì! Vị đại diện cho đức vua đã ra lệnh! Có nghĩa là - hãy gác lại cuộc chơi! Tất cả những người có mặt tại đây hãy ra sân, rồi vào rừng, quãng bờ sông ấy! Tên tù thế nào cũng còn đang loanh quanh ở đấy, nó chưa thể trốn đi đâu được!
- Thật là khủng khiếp quá chừng! Ngày xưa người ta săn đuổi thú rừng, bây giờ thì người ta lại bắt đầu săn đuổi cả con người nữa, - sau ba ngày, lần đầu tiên cô dâu dám mạnh dạn cất lời. Nhưng những lời cô nói bị chìm đi trong tiếng hét hò ầm ầm căng thẳng. Tưởng như chỉ thêm một giây lát nữa - thì những bức tường bằng gỗ thông, rất chắc chắn của ngôi nhà hai tầng nhà Crivôrucốp sẽ bật tung ra vì không chịu đựng nổi sự ầm ĩ ấy.
- Này Nhikipho, Nhikipho đâu! - ông chủ của ngôi nhà gào tên gọi đứa con trai. - Con hãy rót rượu ra mời các ngài đại diện cho đức vua đi. Rượu vào, mắt sẽ tinh hơn,
Nhikipho làm theo lệnh bố. Viên cảnh sát trưởng và đội vệ binh vừa đứng vừa uống rượu và dùng thức nhắm, mỗi người vớ lấy những thứ gần mình nhất: người miếng thịt hươu, kẻ chiếc bánh bột rán với khúc cá chiên, có người lại vớ được chú gà đồng rán tẩm kem chua.
Nửa giờ sau, cái đám người hỗn độn ấy, vừa hò hét vừa la lối, chạy tản ra khắp bờ sông. Có nhiều người trong số đàn ông mang theo rìu, xiên, xẻng, thuổng, còn bọn bạn bè thân cận của thằng Nhikipho cũng như bản thân nó thì lại mang theo súng. Ở nhà Crivôrucốp thì các loại vũ khí ấy thiếu gì: nào súng hai cò, nào súng một nòng, súng đạn ria, súng tự chế nòng rèn để giết những loại thú lớn. Các bà líu ríu chạy theo đám đàn ông; những tay say nhất và những đứa hỗn hào nhất thì vừa khua những chiếc thuổng, những que quấy cám vừa gào tướng lên những lời tục tĩu.
Một tốp chừng hai chục người đàn ông lực lưỡng theo viên cảnh sát trưởng xuống thuyền, bơi sang bờ bên kia của con sông nhánh. Trong số đó có cả thằng Nhikipho và bọn bạn du đãng của nó. Mọi người đều cảm thấy rằng: nếu như tên tù còn chưa kịp đi khỏi nơi này thì hắn không thể có chỗ nào lẩn trốn tốt hơn là cánh rừng gần bờ sông phía bên kia. Trong cánh rừng rậm rạp và gai góc ấy chẳng chỉ con người mà ngay cả đến ngựa cũng có thể tìm được nơi ẩn náu. Còn ở bờ sông phía bên này, giáp làng, thì đất đai trơ trụi, trâu bò và các loại gia súc vẫn thường được thả rong trên cánh đồng cỏ, ở đây người qua kẻ lại luôn luôn: kẻ ra đồng cỏ, người đi lễ ở nhà thờ Parabên, có người lại mang nào hạt dẻ, nào lông thú và cả những con thú mà họ săn được đến nhà kho của tên lái buôn Grêbênsicốp ở bến sông.
Lát sau, những người đàn ông vừa bơi thuyền sang bờ bên kia đã sắp thành một hàng dài và mất hút vào cánh rừng. Bờ bên này cũng được tổ chức chu đáo: đi dọc theo sát mép bờ sông là hai tên vệ binh, ngay bên cạnh chúng là các gã đàn ông và xa một chút nữa là cánh đàn bà. Họ đi một cách trật tự như vậy được khoảng chừng một vecxta[1] không hơn. Sau đó thì hàng ngũ dần dần xộc xệch, nhiều người bắt đầu chậm bước. Bởi sau mấy ngày tiệc rượu lu bù thì không dễ gì mà sai khiến nổi đôi chân của chính bản thân mình. Một số ông già bà lão hơi sức cũng chẳng được là bao. Cuộc săn đuổi tên tù vượt ngục đối với họ rõ ràng là một việc làm quá sức. Bọn con gái mới lấy chồng cũng không hứng thú gì với cái việc phải lội vào đám bùn lầy khi chân họ đang đi những đôi giầy đẹp đẽ, những đôi giày mà họ chỉ xỏ chân vào cả thẩy một vài lần: trong ngày lễ cưới, khi đến nhà thờ vào ngày lễ Thánh và đôi khi đi chơi bời thăm thú bạn bè. Nhưng những tên vệ binh, nhất là chính bản thân Êpiphan Crivôrucốp, thì lại luôn luôn thúc dục mọi người, chốc chốc lại ý ới gọi với sang hàng người dàn ngang ở bờ bên kia, trong cánh rừng.
- Này! Này! - bờ phía bên kia gọi vọng sang.
- Có đây! Chúng tôi vẫn đang lùng sục, đang lùng sục đây! - Êpiphan lớn tiếng trả lời thay tất cả.
Làng xóm, với những chiếc ống khói lò sưởi, với mùi vị của sự no nê, với tiếng bò rống, tiếng chó sủa, đã không còn trông thấy nữa. «Này! Này» - tiếng gọi từ bờ phía bên kia vọng lại mỗi lúc một thưa dần và một khó nghe hơn. Mà ngay cả Êpiphan, mặc dầu lão vẫn tiếp tục đi, cũng đáp lại những lời trao đổi ấy mỗi lúc một ít hứng thú hơn: chắc là lão đã khản cổ rồi.
Một tên vệ binh bị sát toạc chân, ngồi bệt xuống mép bờ sông và từ từ cởi vải bọc chân. Thái độ ấy chứng tỏ anh ta không phải là kẻ hăng hái cho lắm với phận sự của mình. Cánh đàn bà lập tức nhận ra ngay thái độ uể oải ấy, và họ cũng không ngu ngốc gì, nên cũng đứng lại theo, giả bộ như mình cũng có việc cần thiết phải dừng chân: để thắt lại giải khăn vuông, để sắn váy, để buộc lại dây giày. Hàng người đi men theo bờ sông đã thưa thớt hẳn, chỉ còn độ mươi người. Đi sát mép bờ sông nhất là Êpiphan cùng với tên vệ binh thứ hai, đi xa mép bờ sông nhất là Pôlia - người vợ vừa cưới của Nhikipho, cô con dâu mới của nhà Êpiphan.
Pôlia bước đi, vẻ rất thích thú. Ba ngày liền ngồi sau chiếc bàn chất đầy những đồ ăn thức uống, tiếng ồn ào và sự tấp nập đã làm cho cô vô cùng mệt mỏi. Những đêm đầu tiên của cuộc sống vợ chồng lại càng mệt hơn. Ở đây, giữa mênh mông trời đất, cô cảm thấy mình dễ chịu làm sao! Gió lạnh thổi như quất vào mặt làm nguội đi cái hơi nóng đang rừng rực bốc lên đầy mặt cô, xua tan cơn mệt mỏi, làm cho cô thấy sảng khoái trong người. Pôlia cứ muốn đi xa mãi, xa mãi chỉ để không bao giờ còn phải quay trở lại cái ngôi nhà của nhà Crivôrucốp ngột ngạt, nặng mùi mồ hôi, mùi thuốc lá, mùi của đám người say khướt, mùi rượu mạnh làm cho trí não u mê.
Nhưng kìa, dưới chân cô bắt đầu hiện ra những mô đất mọc đầy lau sậy, và trước mặt cô, sau những bụi cây, ánh lên khúc sông cụt chạy vòng theo hình móng ngựa. Có lẽ cuộc săn đuổi sẽ kết thúc ở chỗ này thôi. Chắc ít ai lại còn muốn đi vòng hoặc lội qua cái khúc sông lầy bẩn ấy. Êpiphan đầu cúi xuống lặng lẽ theo sau tên vệ binh, còn mấy mụ đàn bà thì túm tụm lại bàn bạc điều gì rất sôi nổi.
Ánh nước như tăng thêm sức lực cho Pôlia. Cô lướt nhanh từ bụi cây này sang bụi cây khác, mong sao chóng tới nơi long lanh kia để vớt nước lên mà rửa mặt. Gần đến bờ sông, cô lao vào chỗ này, rồi lại lao sang chỗ khác, nhưng chỗ nào cũng gặp phải bùn lầy, không sao qua được. Quãng bờ sông cách cô khoảng chừng trăm bước bỗng cao vượt hẳn lên, dốc đứng như vực. Mép bờ sát mặt nước của đoạn sông này luôn luôn được ngọn sóng chồm lên gội rửa nên rắn lại và bên trên được phủ một lớp cát đỏ khá dày. Pôlia bước vội, cô cho rằng con đường nhỏ cỏ mọc xanh um kia nhất định sẽ dẫn tới lối xuống sông. Và quả là như vậy. Con đường nhỏ chạy ngoằn ngoèo uốn theo những gốc dương đen to sụ khoảng chừng ba trăm bước thì bắt đầu lao xuống dốc. Khi chỉ còn chừng ba bước nữa thì tới mặt nước Pôlia bỗng nhìn thấy một người ngồi trong chiếc thuyền nhỏ đậu nép sát vào thành vực, dưới vòm lá um tùm của cây thùy liễu.
Cô gái giật nẩy mình vì hoảng sợ, cô không biết nên xử sự thế nào: hô hoán lên cho mọi người bổ tới hay bỏ chạy cho nhanh.
- Chào cô gái! - bỗng Pôlia nghe thấy một giọng nói thật điềm tĩnh. Và thái độ điềm tĩnh ấy đã giữ chân cô lại. Cô sợ hãi đưa mắt nhìn con người vừa nói kia, và trong giây phút cô đã nhận ra rằng ngay cả chính bản thân con người ấy cũng sợ hãi và đầy căng thẳng. Người ấy thở mạnh, và từ chiếc mũ bịt tai của anh ta mồ hôi ròng ròng chảy xuống hai bên thái dương. Người ấy ăn mặc như kiểu dân chài lưới: chiếc áo lông ngắn chỉ vừa đến gối có thắt lưng buộc ngoài, chiếc quần bông, đôi ủng cao, cổ bẻ ra ngoài, tay đeo găng da. Nhưng trên khuôn mặt ngăm ngăm, với chòm râu loăn xoăn, đen nhánh, với đôi mắt nâu sẫm nheo lại khác hẳn với đôi mắt của những người dân vùng này và trong cái dáng vẻ nghiêng vai của anh ta có một cái gì xa lạ. Trên mũi thuyền đặt vài chiếc lưới, một cái rìu, một chiếc xoong và một túi vải bạt đựng thức ăn dự trữ. Các thứ đồ dùng ấy giống hệt như đồ dùng của một người dân vùng Narưm thực thụ.
Tuy vậy chính bản thân anh ta hình như cũng tự hiểu ra rằng, dù có ngụy trang khéo léo đến mức nào đi nữa, thì anh ta cũng chả thể giấu nổi điều gì: ở vùng này anh ta chỉ là một con chim lạc đàn.
- Họ đang săn đuổi tôi đấy, cô gái ạ, - người ấy nói, vẫn rất bình thản, mặc dù Pôlia thấy rõ mỗi đường gân thớ thịt của anh ta đang run lên và anh ta phải cố gắng biết chừng nào để có được sự bình thản đó.
- Tôi chính là một trong những người đang đi đuổi bắt anh đây, - Pôlia thật thà thú nhận.
- Nếu vậy thì cô hãy hô hoán lên, hãy chỉ cho người ta biết chỗ tôi đang trốn tránh, - người lạ mặt nói một cách thật là cứng rắn, thậm chí còn có vẻ thách thức nữa kia và anh ta ưỡn ngực ra như muốn nói thêm: «Tôi tuy là một tên tù vượt ngục, nhưng không phải là một thằng hèn nhát!»
Trong giây phút, Pôlia đã tưởng tượng cái cảnh có thể sắp sửa diễn ra ở đây: Êpiphan cùng hai tên vệ binh sẽ lao tới như những con diều hâu xông đến vồ mồi, và con người này sẽ không sao chịu nổi cơn thịnh nộ của bọn kia, chẳng phải ngẫu nhiên mà tên cảnh sát trưởng đã hứa sẽ trọng thưởng cho kẻ nào bắt được anh ta, dầu đã chết. Nghĩ vậy, Pôlia bỗng rùng mình, cô quay nhìn lại vẻ đầy lo sợ, rồi cô nói:
- Anh hãy giấu chiếc thuyền vào trong bụi dương kia, còn anh thì hãy chạy vào rừng. Ở chỗ cuối khúc sông cụt này có một cái lán đất. Anh hãy trú lại ở đó một vài ngày. Khi nào yên tôi sẽ báo tin cho.
Trong đôi mắt người lạ mặt ánh lên vẻ hoài nghi. Pôlia đã nhận ra điều ấy.
- Nhanh lên! Cả bọn vệ binh lẫn bọn đàn ông đều say rượu đấy. Họ sẽ chẳng thương xót gì anh đâu!
- Thôi, muốn ra sao thì ra! - người lạ mặt nói, và anh đưa tay nâng một đầu thuyền lên rồi kéo nó vào bờ.
Khi anh ngẩng nhìn Pôlia, thì cô gái đã không còn ở con đường nhỏ nữa.
o O o
Đến gần cuối khúc sông thì những bụi thùy liễu mà Ivan Akimốp len lách để đi qua đã thưa dần, bờ sông lại cao vượt lên, dốc đứng và trước mặt anh một cánh rừng gồm đủ các loại cây, đã mở ra: nào tùng, nào bạch dương, nào thùy liễu, nào thông.
Cửa lán nhìn thẳng ra sông. Chỉ bốn bước chân xuống dốc là đến nước, còn phía bên phải và bên trái - là những bụi lau sậy và những lớp đất sét màu xanh nhạt.
Từ trong bụi thùy liễu, Akimốp chăm chú rõi nhìn: xem có ai ở trong lán ra không, có ai đi trên con đường nhỏ xuyên rừng đến lán hoặc có ai bơi đến bằng thuyền không?
Sẩm tối anh mới cất bước đi về phía lán - đã tới lúc phải lo tìm chỗ ngủ đêm. Anh mở cửa. Mùi cá khô gác bếp và mùi thơm thơm của cỏ khô xộc vào mũi.
Bên trên giường phản và chiếc bàn, là những sợi giây chăng từ góc này sang góc kia của lán, trên giây treo những bó cá khô; trên bếp lò bằng sắt, đặt một chiếc nồi gang và một chiếc ấm đồng. Trên giá gỗ cạnh cửa, có một cái ca, một hộp đựng muối và nửa tấm bánh mì đen.
Akimốp vội vàng lùi ra. Tất cả trong căn lán đều chứng tỏ rằng vừa mới có người ở đây xong. Mà cũng có thể thế này nữa: những người ở đây hiện đang bận việc gì nên về hơi muộn và họ sắp sửa có mặt tại đây.
Akimốp đứng nấp vào phía sau một cây thông nhỏ, cành lá um tùm và căng đầu chờ đợi. Gió rít từng cơn làm cành cây nghiêng ngả, những thân cây kêu lên răng rắc dưới sức nặng của làn gió mạnh, sóng đánh dữ dội vào bờ, Akimốp không còn nghe thấy một tiếng động nào khác nữa.
Đứng đợi bên gốc thông, anh đã sắp sẵn trong đầu một kế hoạch để đêm nay, nếu cần, anh sẽ chạy trốn khỏi nơi đây. Trước tiên là nhảy ùm xuống nước, rồi lao ngay vào đám thùy liễu và cây dương, ngồi ngay vào chiếc thuyền rồi biến vào quãng bờ vòng vèo của khúc sông cụt...
Trời đã tối hẳn... về đêm, gió lặng đi rõ rệt, nhưng ngược lại bầu trời không còn vẩn mây đen, và những ngôi sao chi chít phía chân trời phả lạnh xuống mặt đất. Băng giá đang xích lại gần.
«Ta chậm mất rồi! Cả thảy có năm ngày thôi!» - Akimốp lấy làm khổ tâm tự trách mình. Sờ soạng và lắng nghe lá cây khô rạo rạo dưới chân, anh cất bước trở vào lán.
Vừa đánh diêm lên, anh thấy ở trên bàn có một chiếc đèn dầu: bầu đèn đựng dầu cá và bấc đèn được lồng qua chiếc cổ bằng sắt tây mạ kền.
Đèn chiếu sáng, lúc đầu ngọn lửa còn run rẩy, nhưng rồi nó vươn dài thành một lưỡi lửa đàng hoàng. «Trước tiên phải chén cái đã», - Akimốp quyết định. Anh bẻ lấy một miếng bánh mì rồi gỡ một con cá trong bó cá khô phơi trên giây xuống, xé nhỏ ra và bắt đầu ăn. Cá mặn làm anh khát nước. Anh mở chiếc ấm, trong ấm đầy nước, nước đun với lá phúc bồn tử, rất đặc. Anh uống một cách ngon lành, uống từng ngụm lớn, uống hết cả một ca mà vẫn khát. Ăn no, uống chán, anh đứng dậy tắt đèn.
Trên tấm gỗ có trải cỏ khô nằm rất êm. Cỏ còn mới nên chưa kịp xẹp xuống. Anh nằm và lắng nghe, nhưng tất cả đều im lặng, im lặng như ở bãi tha ma: không một tiếng động nhỏ, không một tiếng xào xạc của lá cây. Nỗi mỏi mệt đã thắng, nó đã quật ngã anh: cả nỗi lo âu và cả tinh thần cảnh giác đều bị đẩy lùi. Trong đêm có một vài lần anh thức giấc, ngẩng đầu lên, nhưng rồi lại lập tức ngủ thiếp đi.
Khi Akimốp ra khỏi lán mang theo một con cá khô và một mẩu bánh mì, thì những ngôi sao cuối cùng đã tắt. Mặt khúc sông cụt đầy hơi sương, trong đêm tối trông giống những ụ tuyết khổng lồ. Sau một đêm, những chiếc lá thấm lạnh khô cứng lại như băng, chân dẫm lên kêu lạo xạo.
Akimốp đi vòng quanh lán nhưng không tìm ra được chỗ nào tốt hơn chỗ hôm qua. Anh len lách vào cánh rừng, ngồi lên chiếc thuyền lật úp của mình và bắt đầu ăn, mắt không rời khỏi lán. Lời cô gái dặn anh hãy cứ tạm đợi ở đây dù sao vẫn cứ làm cho anh hy vọng. «Nếu như cô ta là người đứng về phía bọn vệ binh thì cô đã đưa bọn chúng đến đây từ lâu rồi», - Akimốp nghĩ.
Mặt trời giá lạnh vừa hắt xuống mặt khúc sông cụt và rừng cây những ánh dìu dịu đỏ, thì trên con đường nhỏ có một ông già bỗng hiện ra: ông ta đội mũ lông, mặc áo lông ngắn đến gối, đi ủng dạ có viền da. Vai khoác súng, tay xách chiếc làn trên có đậy tấm khăn bằng vải gai.
Akimốp thu mình lại, nín thở. Với dáng vẻ của ông chủ, ông già mở toang cánh cửa và mất hút vào trong lán. Vài phút sau ông lại trở ra, không đem theo súng và chiếc làn, ông đứng lặng một lúc như đoán định điều gì rồi đi theo con đường nhỏ xuống sông và gọi:
- Gavơriukha ơi! Thức ăn để ở trên bàn ấy! Mai lão lại ra!
Từ một nơi nào đó trong rừng tiếng vang vọng lại tiếp ngay sau lời của ông già: «Ra-a!»
«Gavơriukha là ai nhỉ? Anh ta ở chỗ nào?» - Akimốp nghĩ và vô tình đưa mắt nhìn quanh. Còn ông già thì lặng lẽ rít thuốc rồi lại gọi lại một lần thứ hai:
- Gavơriukha ơi! Thức ăn để ở trên bàn ấy!
«Ấy-y!» - tiếng vang lại vọng về đáp lại.
Ông già đưa mắt nhìn quanh chừng vài phút rồi leo lên quãng bờ sông dốc đứng, ở đấy ông loanh quanh một lúc, rồi mất hút vào rừng, tựa hồ như tan biến đi.
«Nếu như Gavơriukha có thể nghe được tiếng gọi của ông già thì tại sao ta lại chẳng nhìn thấy anh ta đâu cả?» - Akimốp tự lý luận với mình. Anh quyết định sẽ đứng lại để chờ, dù cho phải mất một tiếng, hai tiếng, thậm chí năm tiếng đồng hồ đi nữa, anh cũng sẽ chờ, kỳ cho đến lúc Gavơriukha xuất hiện. Nếu như ông già đã mang thức ăn đến cho anh ta thì ắt có lúc anh ta phải muốn về để ăn sáng, ăn trưa.
Thời gian nặng nề trôi qua. Lúc đầu Akimốp cứ ngồi lỳ trên chiếc thuyền lật úp, nhưng rồi sau anh cũng phải đứng lên, rồi lại ngồi xuống, rồi lại đứng lên. Và đến lúc không khí lạnh lùa vào trong áo thì anh buộc phải bắt đầu đi đi lại lại giữa đám cây mà anh đã len lách dọn cho mình một lối.
Hết buổi sáng, rồi đến buổi trưa mà vẫn chẳng thấy Gavơriukha đâu cả. Chợt một dự đoán lóe lên trong đầu Akimốp. «Có khi ông già gọi ta là Gavơriukha cũng nên? Rất có thể là cô gái đã nhờ ông cụ đến đây và ông cụ đành phải làm như vậy vì không có cách nào khác để báo tin cho ta biết». - Akimốp thầm nghĩ. Anh rất muốn ngay lập tức trở vào lán để xem trong lán ông già đã để lại những gì, nhưng ý thức cảnh giác đã ngăn anh lại: «Rất có thể ông già này lại là miếng mồi để dử ta. Ta mò về lán và sẽ lập tức sa vào vòng vây của chúng, và thế là xong xuôi». Với cái tâm trạng mâu thuẫn ấy, anh đã đợi cho đến lúc trời sẩm tối.
Akimốp trở về lán và đốt đèn lên, trên bàn anh nhìn thấy một bình trong đựng đầy sữa, một chiếc bánh mì và một miếng thịt luộc. «Biết đâu lại chẳng có mảnh giấy ở một nơi nào đấy?» - Akimốp đoán và bắt đầu nhìn kỹ trên bàn. Anh đưa tay nâng bình sữa và bỗng thấy bên dưới đáy bình một mảnh giấy gấp hình tam giác. Trong giấy, những dòng chữ viết to và rõ: «Anh lấy tên là Gavơriukha. Ông già hàng ngày sẽ đem thức ăn đến cho anh. Khi nào tình hình yên ổn chúng tôi sẽ báo để anh hay. Rồi còn phải nghĩ cả đến tương lai nữa - vì bây giờ đang là mùa đông và anh không thể có cách nào để đi khỏi nơi này được. Khẩu súng này anh sẽ dùng khi cần thiết. Tốt nhất là anh đừng nên bắn để bọn vệ binh khỏi chú ý đến anh. Chúng tôi sẽ ra sức loan tin là anh hình như đã kịp trốn lên vùng thượng lưu sông Ôbi, vùng Cônpasevô rồi. Tuy nhiên anh vẫn cứ nên cẩn thận thì hơn».
Akimốp đã nhịn ăn suốt một ngày nhưng lúc này anh quên cả đói. Anh đọc đi đọc lại mảnh giấy có tới chục lần. Đã đưa nó lại gần ngọn đèn để đốt anh lại giật tay về và lại đọc, đọc kỹ từng chữ một. «Những người giúp đỡ mình là ai thế nhỉ? Hôm qua thì cô gái... hôm nay lại ông già». Bên ngoài gió rít từng cơn, gió thổi điên loạn trong đêm đông giá lạnh.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Xibiri
Ghêorghi Markốp
Xibiri - Ghêorghi Markốp
https://isach.info/story.php?story=xibiri__gheorghi_markop