Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Truy Tìm Dracula
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Phần I - Chương 1
Trình tự sắp xếp những tài liệu này sẽ trở nên rõ ràngtrong khi đọc. Mọi vấn đề không cần thiết đã được loại bỏ, sao cho một câuchuyện hầu như mâu thuẫn với những khả năng mà người đời sau tin tưởng có thểhiên ngang đứng vững như một sự thật giản đơn. Tuyệt đối không có sự khẳng địnhnào về những điều xảy ra trong quá khứ, những điều có thể sai lạc do trí nhớ,bởi tất cả các ghi chép được chọn ở đây đều hoàn toàn mang tính đương thời,được đưa ra từ quan điểm và trong phạm vi kiến thức của những người tạo rachúng.
- Bram Stoker, Dracula, 1897
o O o
Năm 1972, tôi bước vào tuổi mười sáu - cha bảo tôi hãy cònquá nhỏ, chưa thể đi cùng cha trong những chuyến công cán ngoại giao. Cha muốnbiết chắc là tôi đang ngồi nghe giảng chăm chú trong lớp tại Trường Quốc tếAmsterdam hơn; thời kỳ đó cơ quan của cha tôi đặt tại Amsterdam, nên thành phốấy trở thành nhà của tôi trong một thời gian dài, đến độ tôi hầu như quên hẳncuộc sống ở Mỹ trước đó. Bây giờ nhìn lại, tôi thấy kỳ lạ là mình đã ngoanngoãn đến thế suốt thời niên thiếu, trong khi những người khác cùng thế hệ đềuđắm chìm trong ma túy, hoặc biểu tình phản đối cuộc chiến tranh đế quốc ở ViệtNam, tôi đã lớn lên trong một thế giới được bảo bọc kỹ đến độ cuộc sống thànhniên trong giới tri thức của tôi cũng có vẻ gì đó sặc mùi phiêu lưu mạo hiểm.Tôi vốn mồ côi mẹ, nhưng được cha chăm sóc chu đáo bằng một ý thức trách nhiệmgấp đôi mà nếu không có nó ông đã chẳng bảo bọc tôi tuyệt đối đến thế. Mẹ tôimất khi tôi còn rất nhỏ, trước khi cha thành lập Trung tâm vì Dân chủ và Hòabình. Cha không bao giờ nói về mẹ và thường lặng lẽ nhìn đi nơi khác mỗi khitôi hỏi han; từ nhỏ tôi đã hiểu rằng đối với cha, đó là một chủ đề quá đau đớnđể bàn luận. Thay vào đó, cha đích thân đặc biệt chăm nom tôi, đồng thời cungcấp cho tôi một loạt nữ gia sư và quản gia - tiền bạc không thành vấn đề đốivới cha trong những việc liên quan đến chuyện giáo dục tôi, cho dù chúng tôichỉ sống giản dị đắp đổi qua ngày.
Người quản gia sau cùng là bà Clay, đảm nhận nhiệm vụ chămsóc căn nhà chật hẹp kiểu thế kỷ mười bảy của chúng tôi bên bờ kênh Raamgracht,con kênh chính giữa trung tâm thành phố cổ kính này. Hàng ngày, bà Clay mở cửacho tôi vào nhà khi tôi đi học về và thế vai phụ huynh của tôi khi cha đi xa,đây là việc bà phải thường xuyên đảm nhiệm. Bà là người Anh, lớn tuổi hơn mẹ,khéo léo với cây phất trần nhưng vụng về với bọn trẻ tuổi loi choi chúng tôi;đôi khi, nhìn gương mặt già nua lộ vẻ thương hại của bà ở phía bên kia bàn ăn,tôi có cảm tưởng bà hẳn đang nghĩ mình là mẹ tôi và tôi đâm ra ghét bà vì điềuđó. Khi cha đi vắng, ngôi nhà xinh đẹp cũng vắng lặng. Không còn ai có thể giúptôi học môn đại số, không còn ai chiêm ngưỡng chiếc áo khoác mới hay bảo tôilại đây ôm cha một cái nào, hoặc tỏ vẻ kinh ngạc khi thấy tôi cao bổng lên quánhanh. Khi quay về từ một địa danh nào đó có tên ghi trên tấm bản đồ châu Âutreo trên tường phòng ăn, người cha toát ra hương vị của những thời đại vànhững nơi chốn xa lạ, mùi gia vị và sự mệt mỏi. Chúng tôi đã từng đi nghỉ ởParis và Rome, chăm chú quan sát các địa điểm mà cha nghĩ tôi nên xem, nhưngtôi chỉ khao khát được đến những nơi mà cha thường biệt tăm ở đó, những chốn kỳlạ cổ xưa mà tôi chưa từng đến bao giờ.
Khi cha đi công tác, tôi chỉ đi học rồi lại về nhà, vứt đánhbịch chiếc cặp lên chiếc bàn bóng láng kê ngoài sảnh. Cả bà Clay lẫn cha đềukhông cho tôi ra ngoài vào buổi tối, ngoại trừ vài dịp đặc biệt họ cho phép tôixem một bộ phim được kiểm duyệt cẩn thận cùng vài đứa bạn cũng được kiểm duyệtcẩn thận, và - thật ngạc nhiên khi hồi tưởng lại - tôi chưa bao giờ xem thườngnhững quy định này. Dù sao tôi cũng thích sự cô độc, đó là môi trường mà tôi đãlớn lên, đã thoải mái ngụp lặn trong đó. Tôi xuất sắc trong học tập nhưng trongcuộc sống xã hội thì không. Bọn con gái cùng tuổi làm tôi kinh sợ, đặc biệt cáiđám sành điệu ăn nói đanh đá, hút thuốc luôn mồm trong nhóm con cái gia đìnhngoại giao chúng tôi - ở bên bọn chúng, tôi luôn cảm thấy chiếc váy mình đangmặc quá dài hoặc quá ngắn, hoặc mình nên mặc một thứ gì đó khác hẳn. Đám contrai thì làm tôi bối rối, mặc dù tôi cũng mơ hồ tơ tưởng đến cánh đàn ông. Thựcra, tôi thấy hạnh phúc nhất khi được ở một mình trong thư viện của cha, một cănphòng lớn và trang nhã ở tầng một trong nhà.
Thư viện của cha có lẽ một thời từng là phòng khách, nhưngmột khi cha ngồi xuống thì chỉ là để đọc sách, nên ông xem trọng một thư việnlớn hơn một phòng khách lớn. Từ lâu, cha đã cho tôi được tự do sử dụng bộ sưutập của ông. Suốt những lần cha vắng mặt, tôi ngồi làm bài tập hàng giờ đồng hồtại chiếc bàn gỗ dái ngựa hoặc lục lọi trên các kệ sách kê dọc tường. Sau này,tôi hiểu đó là vì cha hoặc suýt quên mất có thứ gì trên các ngăn trên cùng - hoặc nhiều khả năng hơn - cho rằng tôi sẽ không bao giờ có thể với tới đó, nênmột đêm khuya nọ tôi đã lấy xuống không chỉ một bản dịch cuốn Kama Sutra mà còncả một cuốn sách cũ hơn thế nhiều và một phong bì có chứa những trang giấy ốvàng.
Thậm chí đến nay, tôi vẫn không thể nói điều gì đã khiến tôikéo chúng xuống. Nhưng hình ảnh mà tôi đã nhìn thấy ở giữa cuốn sách kia, cáimùi vị của năm tháng bốc lên từ đó, và phát hiện của tôi rằng những tờ giấy kialà những lá thư riêng, tất cả đều lôi cuốn óc tò mò của tôi dữ dội. Tôi biếtmình không nên lục lọi những giấy tờ riêng tư của cha, hoặc của bất kỳ ai khác,vả lại tôi cũng sợ bà Clay có thể bất chợt vào phòng để lau chùi chiếc bànkhông một chút bụi kia - đó hẳn là điều đã khiến tôi phải ngoái nhìn lại cửa ravào. Nhưng tôi không thể cưỡng lại việc được cầm lấy lá thư trên cùng, đọc đoạnđầu tiên của nó trong lúc vẫn đứng bên giá sách.
Tháng Mười hai năm 1930
Cao đẳng Trinity, Oxford
Người kế thừa thân mến và bất hạnh của tôi:
Tôi thấy rất tiếc khi hình dung ra cảnh bạn, dù bạn là ai,đang đọc bản miêu tả mà tôi phải viết dưới đây. Nỗi hối tiếc ấy cũng phần nàodành cho chính bản thân tôi - bởi chắc chắn, nếu lá thư này đang ở trong taybạn, thì hẳn ít nhất tôi đang gặp rắc rối, có thể đã chết, hoặc có lẽ còn tồitệ hơn. Nhưng tôi cũng tiếc cho bạn, người bạn mà giờ tôi còn chưa quen biết,bởi vì chỉ có người nào vô cùng cần đến thông tin khủng khiếp này thì một ngày nàođó mới đọc lá thư này. Nếu bạn không phải là người thừa kế của tôi, theo mộtcách hiểu khác, thì chẳng bao lâu nữa bạn sẽ là người thừa kế của tôi - tôi cảmthấy đau khổ vì đã truyền lại cho một sinh linh khác trải nghiệm của chính tôi,có lẽ là ghê tởm và không thể nào tin được, về cái ác. Tôi không biết vì saobản thân mình lại thừa hưởng điều đó, nhưng hy vọng rốt cuộc sẽ khám phá đượclý do - có thể trong thời gian viết cho bạn hoặc cũng có thể trong tiến trìnhcác sự kiện khác sau này.
Đến lúc này, cảm giác phạm tội - và một điều gì khác nữa - đã khiến tôi vội vã nhét lá thư vào lại phong bì, nhưng tôi cứ nghĩ về nó suốtngày hôm đó và cả những ngày kế tiếp. Cuối cùng, khi cha trở về sau chuyến côngtác, tôi mong chờ có cơ hội để hỏi cha về những lá thư và cuốn sách kỳ lạ kia.Tôi chực chờ lúc cha rảnh rỗi, lúc chỉ có riêng hai cha con, nhưng hồi đó lúcnào cha cũng bận rộn, vả lại có điều gì đó ở những gì tôi phát hiện ra khiếntôi ngần ngại tiếp cận cha. Sau cùng, tôi đã nài nỉ cha cho tôi đi cùng trongchuyến công tác kế tiếp. Đó là lần đầu tiên tôi che giấu cha mình một điều bímật và cũng là lần đầu tiên khăng khăng nài xin một việc gì.
Cha miễn cưỡng đồng ý. Ông đã nói chuyện với bà Clay và cácgiáo viên của tôi, cũng như nhắc nhở tôi rằng sẽ có vô khối thời gian cho tôilàm bài tập trong khi ông tham gia hội họp. Tôi chẳng hề ngạc nhiên; vì là concủa một nhà ngoại giao, tôi đã quen với việc luôn phải chờ đợi. Tôi gói ghém đồđạc vào chiếc va li màu xanh nước biển, mang theo những cuốn sách giáo khoa vàmột mớ tất sạch, loại dài đến đầu gối. Sáng hôm đó, thay vì rời nhà đến trường,tôi đã khởi hành cùng cha, yên lặng và sung sướng bước bên ông đến nhà ga. Mộtchuyến tàu đưa chúng tôi đến Vienna; cha ghét máy bay, ông nói chúng đã tướcđoạt cái thú đi lại của những chuyến du hành. Ở đó, chúng tôi đã trải qua mộtđêm ngắn trong một khách sạn. Một chuyến tàu khác đưa chúng tôi đến rặng Alps, ngang qua tất cả những đỉnh núi màu trắng xanh cótên trên tấm bản đồ ở nhà chúng tôi. Bên ngoài một nhà ga vàng vọt và bụi bặm,cha khởi động chiếc xe vừa mới thuê, còn tôi thì nín thở cho đến khi xe quẹovào cổng một thành phố mà cha đã tả cho tôi nghe nhiều lần đến độ tôi đã từngmơ thấy nó.
Mùa thu đến sớm dưới chân dãy Alps ở đoạn thuộc Slovenia.Cho dù chưa đến tháng Chín, những vụ mùa bội thu đã được nối tiếp bằng nhữngcơn mưa dầm bất chợt, kéo dài hàng ngày và làm lá rụng đầy trên đường làng. Giờđây, đã ở tuổi năm mươi, tôi nhận ra cứ đôi ba năm một lần, tôi vẫn lang thanghướng về phương trời đó, hồi tưởng lại cái nhìn đầu tiên của mình về miền quê Slovenia.Đó là một xứ sở cổ kính. Mỗi mùa thu đến lại khiến nơi đây đằm thắm hơn mộtchút, in aerternu 1, mùa thu nào cũng bắt đầu cùng với ba sắc màu: phong cảnhmàu xanh cây, điểm xuyết đôi chiếc lá vàng rơi xuyên qua nền chiều xám. Tôinghĩ, dân La Mã - những người đã để lại những bức tường thành ở đây và nhữngđấu trường khổng lồ ở phía Tây, trên vùng duyên hải - hẳn cũng đã từng chứngkiến cùng cái mùa thu đó và cũng từng có cảm giác rùng mình như vậy. Tôi cảmthấy vô cùng thích thú khi xe chạy qua cổng những khu cổ kính nhất trong các đôthị từ thời Julius Ceasar. Đây là lần đầu tiên, tôi cảm thấy choáng ngợp trướcniềm phấn khích của một lữ khách khi được chiêm ngưỡng khuôn mặt tinh tế củalịch sử.
Bởi thành phố này là nơi câu chuyện của tôi bắt đầu, tôi sẽgọi nó là Emona, danh xưng theo tiếng La Mã, để giấu nó ít nhiều khỏi đám dukhách chỉ chăm chăm theo đuổi các phế tích khắp nơi cùng một cuốn sách hướngdẫn du lịch. Emona được xây dựng trên những tàn tích Thời đại Đồ Đồng, dọc theomột dòng sông mà hiện nay đôi bờ đã kín những công trình kiến trúc kiểu tânnghệ thuật xếp nối tiếp bên nhau. Suốt vài ngày sau đó, chúng tôi bách bộ quatòa thị chính, ngang qua những ngôi nhà mang phong cách thế kỷ mười bảy đượcđiểm tô những khóm hoa huệ màu bạc, ngang qua mặt sau màu vàng chóe của mộtngôi chợ lớn với các bậc thang nối từ những cánh cửa cũ kỹ có then cài nặng nềdẫn xuống tận bờ sông. Trong suốt nhiều thế kỷ trước, nơi đây đã phát triểnngành vận tải đường sông để nuôi sống thành phố. Và trên bờ, nơi những túp lềunguyên sơ từng mọc lên như nấm sau mưa, loài sung dâu - cây tiêu huyền của châuÂu - giờ đây mọc thành một vòm bát ngát trên những bức tường bao dọc bờ sông,buông những cụm vỏ cây quăn queo xuống dòng nước.
Gần khu chợ, quảng trường chính của thành phố trải rộng dướibầu trời u ám. Emona, giống như những thành phố chị em của mình ở phương Nam,phô bày những đường nét hoa mỹ của một quá khứ lắm đổi thay và nhiều màu sắc:phong cách kiến trúc Viennese Deco ở khắp các tòa nhà dọc theo đường chân trời,những ngôi nhà thờ đồ sộ màu đỏ thời Phục hưng của dân Thiên Chúa giáo nóitiếng Xlavơ, những nhà nguyện nhỏ thời Trung cổ màu nâu thấp lè tè với nhữngđặc trưng của kiến trúc Quần đảo Anh. (Thánh Patrick đã phái các nhà truyềngiáo đến khu vực này để đưa tín ngưỡng còn mới mẻ ở đây đi đúng một vòng, vềlại cội nguồn Địa Trung Hải của nó, để thành phố này có lịch sử Thiên Chúa giáoxưa nhất Âu châu). Đây đó, người ta bắt gặp một nét kiến trúc Ottoman ở nhữngcửa ra vào hoặc trong một khung cửa sổ nhọn đầu. Kế bên các khu đất chợ, mộtngôi nhà thờ nhỏ kiểu Áo rung chuông báo đã đến buổi cầu nguyện chiều. Đàn ôngvà đàn bà, mặc áo khoác lao động vải bông xanh, cầm dù che trên túi xách, đangtrở về nhà sau một ngày làm việc. Khi xe vào trung tâm Emona, chúng tôi băngqua sông trên một cây cầu cổ xinh đẹp với những chú rồng da xanh bằng đồng đứngcanh gác ở hai đầu.
"Lâu đài kia kìa," cha nói, cho xe chậm lại bên rìa quảngtrường và trỏ tay qua màn mưa. "Cha biết con sẽ muốn tham quan lâu đài đó."
Tôi rất muốn xem. Tôi rướn người hết cỡ, nghển cổ cho đếnlúc thấy được khung cảnh tòa lâu đài qua những cành cây sũng nước - những ngọntháp cũ kỹ trên một đồi dốc giữa trung tâm thành phố.
"Thế kỷ mười bốn," cha thì thầm. "Hay là mười ba nhỉ? Chakhông rành lắm về những phế tích thời Trung cổ này, không nhớ chính xác đến thếkỷ. Nhưng chúng ta có thể tìm thấy trong sách hướng dẫn."
"Chúng ta có thể lên đó thám hiểm chút được không cha?"
"Chúng ta có thể khám phá nơi đó vào ngày mai, sau các buổihọp của cha. Những ngọn tháp kia trông có vẻ như chỉ cần một con chim đậu vàothôi cũng không trụ nổi, nhưng ai mà biết được."
Dừng xe lại trong bãi đậu xe gần tòa thị chính, và bằng bàntay xương xẩu vẫn còn mang găng tay da, cha giúp tôi ra khỏi xe với vẻ lịchthiệp. "Còn khá sớm để đăng ký phòng khách sạn. Con có muốn uống một chút trànóng không? Hoặc chúng ta có thể dùng một bữa ăn nhẹ tại cái gastronomia 2 kia. Trời đang mưa to hơn đấy," cha nghi ngại nói tiếp, nhìn vào chiếc áo khoácvà váy len của tôi. Tôi vội vàng lôi ra chiếc áo choàng có mũ trùm đầu khôngthấm nước mà năm ngoái cha đã mang từ Anh về cho tôi. Chuyến tàu từ Vienna mất gần một ngày vàtôi đã lại đói bụng, dù đã được ăn trưa trên tàu.
Nhưng thứ cám dỗ chúng tôi không phải là cái gastronomia,với những ngọn đèn nội thất xanh đỏ lập lòe chiếu qua một khung cửa sổ xám xịt,những cô phục vụ bàn mang xăng đan cao gót đế bục màu xanh lính thủy - chắc thế- và bức chân dung sưng sỉa của Đồng chí Tito. Lúc đang tìm đường lách qua đámđông ướt sũng, bất chợt cha lao về phía trước. "Đây rồi!" tôi chạy theo, chiếcmũ trùm đầu bay lật phật làm tôi gần như không thấy gì. Cha đã tìm thấy lối vàomột quán trà xây theo kiểu tân nghệ thuật, một cửa sổ cuốn lớn có hình nhữngcánh cò đang lặn lội ngang qua, những cánh cửa bằng đồng có hình dạng một trămcuống hoa súng. Cửa nặng nề đóng lại phía sau chúng tôi và cơn mưa mờ dần thànhmột màn sương, không hơn gì chút hơi nước trên kính cửa sổ, nhìn qua những cánhchim màu bạc kia giống như một màn nước mờ ảo. "Thật đáng ngạc nhiên khi quánnày vẫn tồn tại được suốt ba mươi năm qua." Cha trút bỏ "lớp sương mù thànhLuân Đôn" của mình. "Chủ nghĩa xã hội không phải lúc nào cũng tử tế với nhữngkho báu của mình như thế."
Tại một bàn ăn gần cửa sổ, chúng tôi uống trà chanh, hơinóng tỏa qua chiếc cốc dày cộp, ăn một mạch hết mớ cá trích cùng bánh mì trắngphết bơ và thậm chí ráng thêm vài lát torta. "Chúng ta nên dừng ở đây," chanói. Gần đây, tôi đâm ra ghét cái cách cha cứ thổi phù phù để làm nguội táchtrà của mình và khiếp sợ cái khoảnh khắc không thể tránh khỏi khi cha nói chúngtôi nên ngừng ăn, một việc làm thú vị, để dành bụng cho bữa tối. Nhìn cha trongchiếc áo vest vải tuýt trang nhã và áo len cổ lọ, tôi có cảm tưởng bản thân chađã từ chối dấn thân vào mọi cuộc phiêu lưu trong cuộc sống, ngoại trừ nghềngoại giao, thứ đã nuốt trọn đời ông. Lẽ ra cha đã có thể sống vui hơn mộtchút, tôi nghĩ; với cha, mọi chuyện đều nghiêm túc quá.
Nhưng tôi đã im lặng, bởi tôi biết cha không thích lời bìnhphẩm này nọ của tôi, vả lại tôi cũng đang có chuyện để hỏi. Trước tiên, tôi đểcha uống xong tách trà, rồi ngả người ra sau, tựa lưng vào thành ghế, vừa đủ đểcha không thể bảo tôi đừng có ngả ngớn thế. Qua khung cửa sổ lốm đốm ánh bạc, tôicó thể nhìn thấy thành phố ướt át, u ám trong bóng chiều dần buông và nhữngbóng người vội vã băng đi dưới màn mưa. Quán trà, lẽ ra phải đông nghẹt các quýbà trong những bộ đầm dài bằng vải sa mỏng màu ngà, hoặc các quý ông với nhữngbộ râu nhọn hoắt mặc áo khoác nhung cổ lọ, giờ đây vắng tanh.
"Cha không ngờ việc lái xe lại làm cho mình kiệt sức đến nhưvậy," cha đặt cốc xuống và đưa tay chỉ tòa lâu đài, chỉ thấy lờ mờ qua màn mưa."Kia là hướng chúng ta vừa đến từ đó, sườn bên kia ngọn đồi. Từ trên đỉnh đồi,chúng ta có thể nhìn thấy dãy Alps."
Tôi nhớ lại những sườn núi phủ đầy tuyết trắng và cảm thấynhư chúng đang thở phập phồng bên trên thành phố. Bây giờ, chỉ còn mình chúngtôi bên nhau trên phía triền xa của chúng. Tôi ngần ngại, hít vào một hơi. "Chasẽ kể cho con nghe một câu chuyện chứ?" Những câu chuyện kể là một trong nhữngnguồn an ủi mà cha vẫn thường hay dành cho đứa con mồ côi mẹ của ông; một sốcâu chuyện được cha rút ra từ thời thơ ấu hạnh phúc của ông ở Boston, một số từ những chuyến du hành hảingoại. Một số được cha ứng khẩu hư cấu nên, nhưng gần đây tôi đã chán ngấy,nhận ra chúng chẳng có gì lạ lùng, hay ho như tôi từng nghĩ.
"Một câu chuyện về dãy Alpsnhé?"
"Dạ không." Tôi cảm thấy dâng trào một cảm giác sợ hãi khôngthể giải thích. "Con muốn hỏi về vài thứ mà con đã tìm thấy."
Cha quay lại nhìn tôi dịu dàng, đôi hàng lông mày bạc nhướnglên trên đôi mắt màu xám.
"Ở trong thư viện của cha," tôi nói. "Con xin lỗi… con đãlục lọi lung tung và tìm thấy vài thứ giấy tờ và một cuốn sách. Con đã khôngxem… gì nhiều… mấy giấy tờ ấy. Con nghĩ…"
"Một cuốn sách?" Cha vẫn dịu dàng, tìm kiếm trong cốc mộtgiọt trà cuối cùng, chỉ nghe một cách lơ đãng.
"Chúng có vẻ… cuốn sách đó rất cũ, ở giữa có in hình một conrồng."
Cha ngồi nghiêng về phía trước, thinh lặng, rồi rõ ràng charùng mình. Thái độ kỳ lạ này đánh động tôi ngay tức khắc. Nếu đây lại là mộtcâu chuyện, hẳn nó sẽ chẳng giống bất kỳ câu chuyện nào mà cha đã từng kể vớitôi. Cha liếc nhìn tôi dưới hàng lông mày bạc, tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy chacó vẻ vô cùng buồn rầu và chán nản.
"Cha giận à?" đến lượt tôi cũng nhìn vào tách trà của mình.
"Không đâu, con yêu." Cha thở ra thật dài, một âm thanh nghenhư nỗi sầu khổ nào đó đang được khơi gợi lại. Cô hầu bàn tóc vàng nhỏ nhắn lạirót đầy những chiếc tách rồi để chúng tôi lại một mình, và một cách khó nhọc,cha bắt đầu.
Chú thích
1 Tiếng Latin trong nguyên tác: mãi mãi bao giờ cũng vậy.
2 Tiếng Tây Ban Nha: nghệ thuật ăn ngon, nghệ thuật ẩmthực, còn chỉ nhà hàng, quán ăn ngon.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Truy Tìm Dracula
Elizabeth Kostova
Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova
https://isach.info/story.php?story=truy_tim_dracula__elizabeth_kostova