Chương 1
iện tại, Los Angeles
Luồng điện chạy dọc sống lưng Helen khiến cô rùng mình với món hời mình vừa có được. Những thông tin cô theo đuổi đã cận kề trước mặt, chỉ cần chạm vào là cô sẽ tiến thêm một bước gần hơn đến việc tìm thấy cậu bé mất tích.
Helen Adams dùng chân gạt mấy quả bóng rồi sải bước về phía trước, nhón tay lấy tập tài liệu được bọc bên ngoài bằng bìa da cũ kĩ. Khi cuốn sách trượt khỏi vị trí thoải mái của nó trên hàng kệ đầu trong phòng sách nhà bà Dawson, bụi tung mù mịt như mây. Niềm hứng khởi cô cảm thấy hơn nửa giờ trước dần dần ổn định. Trạng thái ấm áp như cuộn mình trong chăn chợt đến khi cô có được thứ mà mình đã cố gắng tìm kiếm bấy lâu khiến nụ cười hiếm hoi nở trên gương mặt.
“Mày đây rồi”, cô thì thầm với cuốn sách cổ như thế nó đang sống.
“Cháu tìm được thứ mình cần chưa?”, bà Dawson chống gậy nặng nề, khập khiễng bước vào phòng. Bà sắp sửa đón chào sinh nhật lần thứ tám mươi tư. Tấm thân yếu ớt, mòn mỏi như biểu hiện rằng nó chẳng muốn làm gì hơn là nằm xuống và yên giấc ngàn thu.
“Cháu nghĩ là tìm thấy rồi.” Helen nhẹ nhàng thổi lớp bụi khỏi bìa sách và ghé mắt thật gần để xác định tựa đề. Chi tiết chạm trổ trên bề mặt da mang phong cách Celtic cổ. Hương đồng cỏ tươi mát sau khi được cơn mưa gột rửa lan tỏa khắp người cô. Helen nhắm mắt và nắm chặt cuốn sách. Cô nghe thấy tiếng vó ngựa, thậm chí còn ngửi được mùi của chúng. Kì lạ hơn là mọi thứ không xuất phát từ căn phòng nơi cô đang đứng mà đến từ vật cô cầm trên tay.
Khi làn hương đó tan biến, Helen mở mắt, nhìn chằm chằm cuốn sách đầy kinh ngạc. Làm thế nào một cuốn sách cũ lại nắm giữ mọi thông tin liên quan đến vụ đứa trẻ mất tích trong thế kỷ XXI?
“Bà còn nhớ bất cứ điều gì về nơi mà bà đã tìm thấy nó không?”, Helen vừa hỏi vừa đi tới bàn sách, bật đèn để đọc những trang giấy bên trong.
“Chồng quá cố của ta thu thập hàng tá thùng sách như thế khi ông ấy còn sống. Cháu có thể nhìn thấy từ lớp bụi bám, chưa ai đụng tới chúng kể từ lúc ông ấy qua đời.” Bà Dawson thả mình trên chiếc ghế, dáng ngồi co rúm. Helen biết chứng viêm khớp của người bạn già thường hành hạ bà ấy mỗi khi thời tiết ẩm ướt khua đập ngoài cửa sổ. Helen cũng biết, bà Dawson sẽ không chấp nhận bất cứ cử chỉ nào ngoài một nụ cười cảm thông nếu cô hỏi xem bà có cần đỡ khi ngồi xuống hay đứng lên không.
“Được rồi, để xem chúng ta tìm thấy gì.”
Qua bìa sách, Helen dự đoán văn tự bên trong là tiếng Celtic hoặc tiếng Ý. Nhưng cô đã nhầm.
Đó là ngôn ngữ dân gian, được viết bằng kiểu chữ uốn lượn điệu đà, tràn khắp trang đầu cuốn sách.
Nội dung cuốn sách trình bày bằng tiếng Anh.
Helen liếc nhìn phần thông tin mở đầu để xem năm xuất bản.
“Thứ này hơn hai trăm tuổi rồi”, Helen bối rối thông báo. “Nó thì liên quan gì đến thằng bé?”, bà Dawson hỏi. “Cháu không rõ.”
Bà Dawson là người duy nhất hiểu rõ giá trị từ món quà mà Helen vừa thông báo. Có thể nói, bà là người duy nhất nghe Helen kể chuyện mà không bật cười và nhìn cô như kẻ tâm thần.
Khi đang điều tra tại một cửa tiệm đồ cổ địa phương, cô được dẫn dắt đến với phòng sách nhà bà Dawson trong công việc tìm cậu thiếu niên mất tích, Simon Allister.
Cậu bé đó và cuốn sách cô đang cầm trên tay có những điểm chung gì, Helen chẳng thể nào hình dung ra được.
Cô chậm rãi lật từng trang và lướt qua văn bản. Từ những gì đang đọc, đây là cuốn sách do nhiều người kể chuyện khác nhau viết nên. Tranh minh họa rải rác khắp nơi cùng dòng chú thích nhỏ dưới những bức hình.
Đó là biểu tượng của người Celt, những chiến binh Scot mặc váy đeo gươm và những phụ nữ bận đầm dài lượt thượt.
Thứ gì liên quan đến chuyện Simon McAllister biến mất hoàn toàn khỏi bề mặt địa cầu mà chẳng lưu lại chút dấu vết được nhắc đến trong đây vẫn là điều bí ẩn đối với Helen.
Buông một tiếng thở dài khổ sở, cô đặt tay lên bàn và đan ngón lại trong nỗi thất vọng. “Thứ này vô dụng.”
Bà Dawson nghiêng đầu sang bên, cử động tỏ ý quan tâm. Một cánh cửa chớp nhà ngoài chưa được chốt, khua lách cách, đập vào tường với tiếng ầm cuồng nộ.
Helen và bà Dawson giật thót tim vì tiếng ồn, xoay đầu về phía đó.
Gió lạnh thổi vào phòng, những tấm màn cửa bay phần phật phản kháng lại thiên nhiên ngoài kia.
Tiếng động kì lạ rít qua khe cửa sổ, cuốn sách bên cạnh Helen bắt đầu lật xoành xoạch như cách người ta xào bài ở Vegas. Trang sách bị lật với tốc độ nhanh, dù da cô không cảm giác được chút gió nào chuyển động trong phòng.
Không cách nào dời mắt, Helen nhìn mãi tới khi những trang giấy đột ngột dừng lại.
Gió sau lưng cô nổi lên, lạnh hơn, mạnh hơn, nhưng giấy không lật nữa.
Búi tóc màu nâu chocolate của cô bị lỏng, buông xõa, nhưng cô không để ý dẫu nó lòa xòa trên mặt. Thay vì vậy, Helen nhích lại gần hơn.
Hai bức vẽ minh họa trải lên các trang sách. Phía bên trái là chiến binh Scotland với bờ vai rộng và chiếc áo choàng len kẻ sọc, niềm tự hào hàng thế kỷ qua của họ. Ở góc tranh minh họa có một con chim ưng bay vút lên, nếu đó là chim ưng. Helen không chắc.
Bàn tay chiến binh mở rộng hướng về trang sách bên kia, nét mặt nghiêm nghị, biểu hiện sự tuyệt vọng.
Helen lia mắt sang trang giấy bên phải và thời gian như đông cứng lại.
“Chúa ơi”, bà Dawson hét lên. Lạy Chúa, thật chứ.
“Là cháu.”
Helen chăm chú nhìn gần trang sách, chăm chăm vào hình vẽ, gương mặt đó chắc chắn rất giống cô. Người phụ nữ trong tranh có mái tóc dài qua eo. Cô ta mặc chiếc đầm dài quét đất, tay áo cũng dài thượt.
Phải, đó có thể là người họ hàng xa của Helen. Điều này mang đến một cảm giác thân thuộc mà cô chưa từng nhận thấy ở bất kì thời điểm nào trong cuộc sống từ trước đến nay. Bị bỏ rơi khi còn nhỏ, Helen chưa bao giờ biết đến bố mẹ hay họ hàng.
Helen chạm vào đường nét trên gương mặt người phụ nữ và thở gấp khi ánh mắt cô rơi vào mặt đá của chiếc vòng đeo quanh cổ cô ta.
Đưa tay lên cổ mình, từ trong chiếc áo len cao cổ, cô kéo ra chiếc vòng giống hệt như một bản sao với chiếc trong tranh.
Gió ngừng lùa qua cửa sổ, căn phòng ấm dần.
“Người phụ nữ chắc hẳn là một trong những tổ tiên của cháu”, bà Dawson nhận định.
Helen gật đầu mà chẳng thể nói được lời nào. Vòng cổ không phải vật gia truyền. Tranh vẽ này có ý nghĩa gì đây? Người đàn ông ở trang bên kia là ai và liên quan thế nào tới việc cậu thiếu niên mất tích? Cô cảm thấy đó là điều mình cần làm rõ.
Cô đặt ra nhiều câu hỏi hơn đáp án. Liếc nhìn đồng hồ đeo tay, Helen chợt nhận thấy đã muộn. “Cháu nên về để bà nghỉ ngơi. Cháu xin phép giữ quyển sách ít hôm, được không bà?”
Bà Dawson vỗ nhẹ vào tay cô. “Dĩ nhiên là được, cháu ta. Dường như nó thuộc về cháu.”
Helen với lấy cuốn sách, nhưng bà Dawson giữ tay cô giữa chừng. Những ngón nhăn nheo yếu ớt chạm vào mu bàn tay Helen và lần theo chiếc đồng hồ. Bà Dawson gõ lên mặt đồng hồ rồi làm cử chỉ tương tự với người phụ nữ trong sách.
Ở đó, trong những trang bản thảo cổ xưa, có một chiếc đồng hồ tương tự đang nằm trên cổ tay người phụ nữ.
“Có lẽ, rốt cuộc không phải tổ tiên họ hàng đâu.” “Ý bà là thế nào?”
“Cô ta trông giống hệt cháu, Helen. Cái vòng cổ, cháu lấy ở đâu?”
“Cháu tìm thấy nó trong một cửa hàng giảm giá.” Tình yêu với những món đồ cũ đã mang cô đến cửa hàng nọ để tìm kiếm báu vật. Nhiều người ném tài sản của họ thay vì trân quý cất giữ chúng. Mặt dây chuyền có biểu tượng Celtic với viên đá bóng loáng đính ngay giữa. Nó chỉ đơn giản là một viên đá được đánh bóng với viền kim loại xung quanh. Nhưng viên đá ấm lên khi tiếp xúc với làn da Helen lúc cô đeo nó. Đâu đó trong tâm trí, cô biết mình phải sở hữu chiếc vòng cổ.
“Người phụ nữ đeo đồng hồ. Đồng hồ của cháu.”
“Điều đó thật nực cười. Có lẽ chỉ là chiếc vòng tay.”
Bà Dawson ép chiếc kính lão sát vào đôi mắt và cúi đầu nhìn xuống. “Ta thấy những con số.”
Helen cũng có để ý. Nhưng điều này thật không hợp lý. “Bà có cách lý giải nào khác chăng?” Người phụ nữ trong tranh rõ ràng mặc váy thời Trung Cổ, thời đại mà đồng hồ không có trong tủ quần áo của bất cứ phụ nữ nào. Đúng vậy, Helen biết đồng hồ đeo tay vẫn chưa được phát minh mãi cho đến đầu thế kỷ XIX.
Bà Dawson nhìn sâu vào mắt cô trước khi lên tiếng, “Vẫn thế thôi, bức tranh này đáng giá hơn ngàn lời giải thích”.
“Nếu bà nghĩ thế, cháu cho rằng mình cần phải tự tìm hiểu thôi.” Sự tò mò của cô tăng đột biến, tuy nhiên, cô quyết định rằng trong những việc sắp làm, chắc chắn phải có “Google”. Đồng hồ đeo tay được phát minh ra chính xác là vào thời điểm nào, và những ai là tác giả của cuốn sách này?
Ngoái nhìn tấm màn cửa, bà Dawson nói, “Có vẻ như sẽ còn nhiều điều khác nữa dành cho cháu ngoài câu hỏi đó, cô gái à. Ta chỉ là người giữ quyển sách mà thôi”.
***
Năm 1596, Scotland
Khao khát không ngừng tăng lên và tụ lại trên những đầu ngón tay của Simon. Ước gì anh có thể ném một quả cầu lửa vào mông ngựa của kẻ địch. Nhưng không, đó là gian lận, và không lí gì phải làm con ngựa vô tội đó bị thương.
Sử dụng quyền năng riêng chẳng khác nào mang khẩu súng vào một trận đấu gươm. Mặt khác, cánh tay của gã chiến binh đang mỏi dần. Simon đã cảm thấy điều đó vào lần va chạm cuối cùng, khi gươm của gã chém vào tấm khiên trên tay anh.
Tiếng kim loại leng keng sau lưng, khói lan tỏa từ trận hỏa hoạn trong doanh trại của quân xâm lược, những kẻ đe dọa pháo đài MacCoinnich. Bóng đêm len lỏi quanh vùng ánh sáng đang bị thâu tóm bởi ngọn lửa, mang đến đoạn kết đã được định sẵn cho cuộc chiến.
Kẻ địch của Simon thúc gót giày vào hông con ngựa gã đang cưỡi, gươm trên tay nhằm thẳng ngực Simon.
Yên nhé, anh thì thầm với chiến mã của mình. Giao tiếp với động vật là khả năng anh có khi mới mười ba tuổi. Hiện tại, gần ba mươi, Simon hoàn toàn có thể ra lệnh cho các loài vật mà anh tiếp xúc. Hoặc, như mẹ anh vẫn bảo, anh là một bác sĩ Doolittle[1] chính hiệu.
Gã chiến binh hướng về phía Simon rồi gầm lên dữ tợn, lưỡi gươm của hắn đã sẵn sàng tung đòn chí mạng.
Simon nhẫn nại, một tay nắm vững binh khí, tay kia giữ chắc tấm khiên khắc nổi gia huy.
Tiến tới gần hơn.
Trong đường tơ kẽ tóc khi mũi gươm chuẩn bị lao vào ngực mình, Simon thúc ngựa xông lên. Thuận đà, anh gạt gươm của kẻ địch sang bên, đồng thời đâm vào ngực đối thủ, lưỡi thép xé toang lồng ngực, cắt đứt huyết mạch hắn. Ánh mắt kinh hoàng của gã chiến binh ghim trên người Simon khi hắn trượt khỏi yên ngựa cũng chính là khoảnh khắc cuối đời hắn.
Simon chỉ dừng lại một giây để xem hắn chết chưa, trước khi nhanh chóng xoay người ứng phó với mối đe dọa tiếp theo đang rình rập.
Kẻ thù bại trận tháo chạy, rút về phía tây để chuẩn bị cho một cuộc công thành mới vào ngày khác. Duncan, bác của anh, đứng kế chiến mã, lồng ngực phập phồng và hơi thở nặng nề trong khi em trai ông, Cian, đảo quanh xem xét những bại binh. Anh ấy sẽ kết liễu nếu kẻ đó còn hấp hối.
Chiến trường đẫm máu ngồn ngộn mùi tanh hôi của những cái xác thối rữa.
“Còn ai sống không?”, Duncan gào hỏi Cian.
Cian trượt xuống ngựa và cẩn thận lật từng cái xác quân địch. Thậm chí từ khoảng cách khá xa, Simon vẫn nhìn thấy vẻ chết chóc trên khuôn mặt của người đàn ông đó.
“Không. Chẳng còn mống nào.”
Những binh lính mệt nhoài đang tụ tập lại chờ chỉ thị từ Duncan. “Ta sẽ điều người trong pháo đài ra phụ giúp thu dọn các xác chết”, ông nói với thuộc cấp. “Có tên nào trông dáng vẻ bên ngoài giống thủ lĩnh không?” Simon lắc đầu. “Chẳng ai nổi bật trong số này.” “Không.” Tất cả đồng thanh.
“Có lẽ bác nên phái trinh sát theo dõi những kẻ bỏ trốn.” “Ừ.” Ánh mắt Duncan điềm tĩnh hướng vào Simon.
Một chỉ thị ngầm lóe lên trong mắt ông. Họ sẽ cử trinh sát, nhưng không phải mấy gã chiến binh trên lưng ngựa này. Điều đi một nhóm nhỏ sẽ dễ dàng bị phục kích và áp đảo, đó không phải giải pháp đúng đắn.
“Cháu đi trước và báo cáo với ông Ian.”
Một phương án không ai tranh cãi. Ian là Lãnh chúa nhà MacCoinnich, và ông ấy hẳn rất muốn biết kết quả của trận chiến.
Thay vì quay về thành, Simon sẽ đi trinh sát một mình rồi trở lại mà không một ai hay biết.
Duncan vuốt cằm. “Nói với dì Tara, ta ổn nhé.”
Simon gật đầu, dẫu biết mình chẳng cần hé răng nói bất cứ điều gì với dì. Duncan và Tara có mối liên hệ đặc biệt giúp họ thoải mái giao tiếp thông qua ý nghĩ của nhau. Có lẽ ngay lúc này, trong đầu Duncan, dì Tara đang hỏi ông có bình an không.
Simon và đại gia đình của anh đều là Druid, mang trong mình dòng máu pháp thuật. Mỗi quyền năng mà họ sở hữu sẽ hỗ trợ họ trong cuộc sống và giúp họ đánh bại kẻ thù, với cả giới phép thuật lẫn người thường. Chỉ vài ngày tới anh sẽ biết, kẻ thù giới phép thuật khó đối phó hơn nhiều.
Tiến vào khu rừng, Simon ghìm cương ngựa tránh khỏi mọi tầm mắt tò mò và trượt xuống đất.
Anh nhanh chóng cởi bỏ từng lớp giáp chiến, quần áo, rồi vắt chúng lên cây. “Trông chừng chúng giúp ta, nhé Kong?” Simon đặt tên cho con ngựa đầu tiên của mình là King, con vật to xác đã phục vụ anh rất tốt. Kong là con của King. Những cái tên này xuất phát từ trò đùa giữa các thành viên trong gia tộc đến từ thế kỷ XXI.
Kong khịt mũi trước khi di chuyển tới một mảng cỏ và bắt đầu nhấm nháp. Con vật rất đói và mệt mỏi sau cuộc chiến. Hầu như nó sẽ chỉ ăn và ngủ cho đến khi Simon quay lại.
Bước ra xa ngựa của mình, Simon dang rộng tay, nhắm mắt lại và tưởng tượng hình dạng một con chim ưng.
Nguồn năng lượng quen thuộc kết tụ quanh người anh. Không khí rạn nứt tanh tách và không gian bắt đầu dao động.
Tay chân của anh co rút lại, lớp da nứt toát ra và thay đổi dần dần. Cơn đau bắt đầu từ đỉnh đầu và lan đến bàn chân với tốc độ cực nhanh rồi tiêu tan trong tích tắc. Toàn bộ quá trình biến hình chỉ mất vài giây trước khi Simon hóa thành chim ưng.
Kong liếc mắt một cái rồi tiếp tục bữa ăn của mình.
Simon sải cánh bay vút lên bầu trời.
Từ trên cao, Simon hướng về vị trí chiến trường. Anh quan sát toàn cục và giúp Cian xem xét những thi thể.
Simon cất tiếng kêu của chim ưng vang vọng không trung để gây chú ý cho Duncan và Cian, cả hai lần lượt quay đầu nhìn theo hướng anh đang bay.
Duncan gật đầu, sau đó tiếp tục với phần việc của mình trong khi Cian giơ tay vẫy vẫy chào.
Rời mắt khỏi các thành viên gia tộc, Simon theo dấu kẻ thù để lại, tìm kiếm những đáp án khả thi.
_________________________
Chú thích:
[1] Nhân vật chính trong series phim cùng tên của điện ảnh Mỹ năm 1920. Trong phim, bác sĩ Doolittle là người có khả năng giao tiếp với động vật, anh sử dụng khả năng đặc biệt này để khám phá và hiểu sâu hơn về tự nhiên và lịch sử thế giới.
Tình Yêu Vượt Thời Gian Tình Yêu Vượt Thời Gian - Catherine Bybee Tình Yêu Vượt Thời Gian