Phi Trường epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Phần I . 02
el dùng thang máy dành cho nhân viên, mở bằng chìa khóa riêng, đi từ tháp xuống tầng điều hành của bộ phận hành chính. Dù khu văn phòng riêng của ông vắng lặng, bàn làm việc của nhân viên tốc ký trống rỗng và các máy đánh chữ còn phủ bao, đèn đã được bật sáng. Ông bước vào văn phòng riêng của mình. Từ một ngăn tủ riêng, gần chiếc bàn gỗ gụ rộng dùng thường ngày, ông lấy ra chiếc áo choàng dày và đôi ủng lông.
Thực ra Mel không có nhiệm vụ đặc biệt gì phải ở lại sân bay đêm nay. Nhưng điều này đã xảy ra. Lý do ông ở lại là để sẵn sàng giải quyết các trường hợp khẩn cấp, phần lớn do cơn bão ba ngày qua. Nếu không, giờ này ông đã ở nhà với Cindy và các con, ông trầm ngâm khi mang và cài ủng.
Có thực vậy không?
Con người ta dù cố tỏ ra khách quan đến mấy, Mel lý luận, không phải lúc nào cũng hiểu được cái động cơ thúc đẩy anh ta. Có lẽ, nếu không có bão tuyết, ông lại có cớ khác để không về nhà. Thực tế, dường như gần đây ông bắt đầu muốn càng ít phải ở nhà càng tốt. Công việc của ông là một nguyên nhân, tất nhiên. Nó cung cấp rất nhiều lý do để kéo dài thời gian ở lại sân bay, nơi mà gần đây đã có nhiều vấn để lớn đối mặt với ông, không kể tình hình rối ren như tối nay. Nhưng - nếu ông tự trung thực với chính mình - sân bay cũng giúp ông thoát khỏi những tranh cãi không ngừng giữa ông và Cindy mà bây giờ dường như xảy ra bất cứ khi nào họ ở cạnh nhau.
“Ôi! Như là địa ngục!” Lời than vãn của Mel xuyên qua sự tĩnh lặng của văn phòng.
Ông bước nặng nề trong đôi ủng lông về phía bàn làm việc. Mảnh giấy nhỏ do cô thư ký để lại xác nhận những gì ông vừa nghĩ. Đêm nay có một cuộc họp, một trong những công việc từ thiện chán ngắt của vợ ông. Tuần trước, Mel đã miễn cưỡng hứa sẽ tham dự. Đó là một bữa tiệc cocktail và ăn tối tại khách sạn Lake Michigan xa hoa trong trung tâm thành phố (như đã viết trong mảnh giấy). Còn tổ chức từ thiện gì, mảnh giấy không để cập tới, và nếu nó đã từng được để cập, ông cũng đã quên mất, chẳng có gì khác nhau. Những cuộc họp mà Cindy Bakersfeld tham dự đều chán ngắt như nhau. Theo ý Cindy, điều đó xứng đáng với địa vị xã hội của các thành viên trong tổ chức từ thiện của cô ta.
May ra hôm nay ông sẽ giữ được hòa khí với Cindy, thời gian bắt đầu cuộc họp hơi muộn - gần hai giờ nữa, và theo quan điểm về thời tiết tối nay, có thể muộn hơn nữa. Vì vậy, ông có thể về kịp, ngay cả sau khi đi kiểm tra sân bay. Mel có thể trở lại văn phòng của mình, cạo râu, thay quần áo và về trung tâm thành phố muộn một chút. Dù sao ông cũng nên gọi điện báo cho Cindy thì tốt hơn. Sử dụng đường dây trực tiếp ra bên ngoài, Mel gọi vào số máy nhà.
Roberta, con gái lớn của ông, trả lời.
“Chào con”, Mel nói. “Ông già của con đây”.
Giọng Roberta hờ hững trong điện thoại. “Vâng, con biết”.
“Ở trường hôm nay thế nào?”
“Bố có thể hỏi chính xác hơn được không? Có nhiều môn học. Bố muốn biết môn nào chứ?”
Mel thở dài. Có những ngày ông cảm thấy dường như cuộc sống gia đình của ông đang tan rã nhanh chóng. Ông có thể nói rằng Roberta đang trong cái mà Cindy gọi là tâm trạng khinh khỉnh. Ông tự hỏi, phải chăng tất cả những người cha đều đột ngột bị mất liên hệ với con gái của họ ở tuổi mười ba? Gần một năm trước đây, hai cha con ông có vẻ như rất gần gũi nhau. Mel yêu cả hai cô con gái sâu sắc - Roberta, và em gái, Libby. Có những khi ông nhận ra chỉ nhờ có hai cô bé mà cuộc hôn nhân của ông còn duy trì được. Đối với Roberta, ông cũng biết rằng, như một cô gái tuổi teen, cô sẽ có những sở thích riêng mà ông không thể chia sẻ và cũng không hoàn toàn hiểu được. Ông đã được chuẩn bị cho việc này. Điều ông không ngờ là tâm hồn cô bé đóng lại hoàn toàn nhanh chóng, hay đối xử với ông bằng sự hoà trộn giữa thờ ơ và vị nể. Mặc dù, khách quan hơn, ông cho là các xung đột ngày càng tăng giữa Cindy và ông đã góp phần làm sâu thêm hố ngăn cách ấy. Trẻ con vốn nhạy cảm.
“Thôi không sao”, Mel nói. “Mẹ có ở nhà không?”
“Mẹ đi rồi. Mẹ dặn nếu bố gọi điện thì nói bố phải vào trung tâm thành phố để gặp mẹ, và lần này cố gắng đừng đến muộn”.
Mel cố nén giận. Roberta chỉ lặp lại chính xác lời của Cindy. Ông vẫn thường nghe vợ nói với chúng như vậy.
“Nếu mẹ gọi về, nói với mẹ là bố có thể trễ một chút, và rằng bố không thể nhanh hơn được”. Một khoảng im lặng, và ông hỏi, “Con có nghe bố không đấy?”
“Có, ạ”, Roberta nói. “Còn gì nữa không, bố? Con có bài tập phải làm”.
Ông không nhịn được nữa, “Còn một chuyện nữa. Con phải đổi giọng đi, bà trẻ, và thể hiện sự tôn trọng một chút. Hơn nữa, cuộc nói chuyện này chỉ kết thúc khi nào bố muốn”.
“Tùy bố”.
“Và đừng gọi tôi là bố nữa!”
“Được rồi, thưa bố”.
Mel suýt phì cười, nhưng kìm lại được. Ông hỏi, “Mọi việc ở nhà vẫn tốt cả chứ?”
“Vâng. Nhưng Libby muốn nói chuyện với bố”.
“Chờ một chút. Bố đang định nói với con - vì cơn bão tuyết bố có thể không về nhà đêm nay được. Có rất nhiều việc xảy ra tại sân bay. Có lẽ bố sẽ trở lại sân bay và ngủ ở đấy”.
Lại thấy im lặng, khi Roberta định trả lời câu: có gì mới đâu bố? Rõ ràng cô bé quyết định không nói. “Bây giờ bố có nói chuyện với Libby không?”
“Được rồi. Chúc con ngủ ngon, Robbie”.
“Chúc bố ngủ ngon”.
Có tiếng sột soạt khó chịu khi điện thoại chuyển từ tay này sang tay kia, sau đó là giọng hổn hển nho nhỏ của Libby. “Bố ơi, bố ơi! Bố đoán đi!”
Libby luôn luôn hổn hển như vậy, tựa như đối với một cô bé bảy tuổi, cuộc sống chỉ thú vị khi chạy và cô bé phải giữ tốc độ mãi nếu không sẽ bị tụt lại sau.
“Để bố suy nghĩ xem”, Mel nói. “Bố biết con chơi tuyết vui vẻ hôm nay”.
“Có, con có chơi, nhưng không phải chuyện đó”.
“Bố không đoán được. Con phải nói cho bố biết thôi”.
“Vâng ạ, ở trường, cô Curzon cho bài tập, con phải viết tất cả những điều tốt đẹp mà con nghĩ rằng sẽ xảy ra vào tháng tới”.
Ông trìu mến nghĩ: ông có thể hiểu được sự nhiệt tình của Libby. Đối với cô bé, hầu như tất cả mọi thứ đều thú vị và tốt đẹp, và số ít những thứ không tốt phải dẹp sang một bên và nhanh chóng bị lãng quên. Ông tự hỏi còn bao lâu nữa sự ngây thơ hạnh phúc của cô bé sẽ qua.
“Thế thì hay lắm”, Mel nói. “Bố thích như vậy”.
“Bố ơi, bố ơi! Bố giúp con nhé? “
“Nếu bố có thể giúp được”.
“Con muốn có một bản đồ của tháng hai”.
Mel mỉm cười. Libby tự sáng tạo kiểu nói của riêng mình mà đôi khi dường như nhiều ý nghĩa hơn lời nói thông thường. Nhưng nó gợi ý cho ông rằng ông có thể sử dụng một bản đồ thời tiết tháng hai của mình.
“Có một cuốn lịch trên bàn của bố trong phòng làm việc ấy”. Mel chỉ cho con gái nơi tìm cuốn lịch và nghe tiếng đôi bàn chân của cô bé chạy ra khỏi phòng, quên luôn điện thoại. Mel nghĩ Roberta đã treo nó lên mà không nói câu nào.
* * *
Từ văn phòng của Tổng giám đốc, Mel đi ra tầng điều hành chạy dọc theo chiều dài của nhà ga chính. Ông theo mang chiếc áo choàng dày.
Dừng lại một chút, ông quan sát phòng chờ đông đúc phía dưới, dường như đã trở nên bận rộn hơn trong nửa giờ qua. Tất cả ghế trong phòng chờ đều có người ngồi. Quầy bán báo và quầy thông tin bị đám đông bao vây, trong đó có nhiều người mặc quân phục. Phía trước tất cả các quầy hàng không hành khách đang xếp hàng dài, một số hàng dài đến nỗi không nhìn thấy đuôi đâu cả. Đằng sau các quầy, số nhân viên bán vé và người phụ trách tăng cao hơn bình thường do những người của ca trước đó được giữ lại làm thêm giờ, các phiếu lịch trình và phiếu chuyển trải ra giống như bản tổng phổ của dàn nhạc.
Sự chậm trễ và sự thay đổi hành trình do cơn bão tuyết gây ra buộc phải xem lại cả lịch trình và lòng kiên nhẫn của con người. Ngay bên dưới Mel, tại quầy vé của hãng Braniff, một người đàn ông còn trẻ, tóc vàng, quấn một chiếc khăn quàng màu vàng đang quát tháo, “Các người thật vô liêm sỉ khi bắt tôi phải đi Kansas City để đến New Orleans. Các người đang viết lại lại địa lý hay sao! Các người cứ có quyền là điên lên hết rồi!”
Nhân viên quầy vé đang đối mặt với anh ta, một cô gái tóc đen hấp dẫn ở tuổi hai mươi, vuốt mắt trước khi trả lời với sự kiên nhẫn chuyên nghiệp, “Chúng tôi vẫn có thể cho ông bay thẳng được, thưa ông, nhưng chúng tôi chưa biết khi nào. Do thời tiết, đường dài hơn nhưng vẫn nhanh hơn và giá vé không đổi”.
Đằng sau người đàn ông quấn khăn vàng, nhiều hành khách với những vấn để khác đang khẩn trương ép về phía trước.
Tại quầy của hãng United, đang diễn ra một vở kịch câm nhỏ. Một doanh nhân ăn mặc sang trọng đang nghiêng người về phía trước nói khẽ gì đó. Bằng cách biểu hiện và hành động của người đàn ông kia, Mel Bakersfeld có thể đoán những gì đang được nói. “Tôi rất muốn bay chuyến kế tiếp”.
“Tôi xin lỗi, thưa ông, chuyến bay đã đầy chỗ. Cũng có một danh sách chờ dài...” Trước khi anh nhân viên quầy vé nói hết câu, anh ngước lên. Người hành khách đã đặt chiếc cặp của mình trên quầy ở phía trước anh ta. Nhẹ nhàng, nhưng sâu cay, ông gõ gõ một chiếc thẻ nhựa vào một góc của chiếc cặp. Đó là chiếc thẻ hội viên Câu lạc bộ Mười vạn dặm, một trong những chiếc thẻ do hãng United phát hành cho khách hàng thân thiết của mình - những khách hàng tinh hoa do các hãng hàng không tạo ra. Anh nhân viên quầy vé thay đổi ngay thái độ. Giọng anh trở nên thấp hẳn xuống. “Tôi nghĩ chúng tôi sẽ điều chỉnh một chút, thưa ngài”. Cây bút chì trong tay người bán vé gạch ngang tên của một hành khách khác - người đã được xếp chỗ trên chuyến bay đó sớm hơn nhiều - thay vào là tên của người mới đến. Hành động đó, những người xếp hàng phía sau không ai thấy gì.
Những chuyện tương tự như thế, Mel biết, xảy ra ở tất cả các quầy hàng không khắp mọi nơi. Chỉ có những người ngây thơ hoặc không am hiểu mới tin tưởng vào tính công bằng vững chắc của danh sách chờ đợi và danh sách đăng ký.
Mel quan sát một nhóm người mới đến - có lẽ là từ trung tâm thành phố - đang đi vào nhà ga. Họ phủi tuyết từ quần áo khi bước vào, và xét về sự xuất hiện của họ, dường như là thời tiết bên ngoài đang xấu đi. Những người mới đến nhanh chóng bị cuốn vào đám đông.
Trong số tám mươi nghìn hoặc hơn hành khách chen chúc trong nhà ga hàng ngày có ít người ngước lên tầng điều hành, và đêm nay còn ít hơn, đó là ý nghĩ của Mel, đang ở trên cao nhìn xuống. Hầu hết mọi người nghĩ về sân bay dưới hình ảnh của các hãng hàng không và những chiếc máy bay. Nhiều người còn bất ngờ khi biết rằng sân bay có cả một cơ quan hành pháp hay một bộ máy hành chính - không nhìn thấy, nhưng phức tạp và có hàng trăm nhân viên - đang tồn tại, làm việc liên tục, để duy trì chức năng của sân bay.
Có lẽ như vậy lại tốt, Mel nghĩ, khi ông theo thang máy đi xuống. Nếu dần dần mọi người được thông tin tốt hơn, đúng lúc hơn, họ cũng sẽ tìm thấy những điểm yếu và sự nguy hiểm của sân bay, và sau đó bay đi và bay đến với ít sự an tâm hơn trước.
Trong phòng chờ chính, ông hướng về phía tiền sảnh của hãng Trans America. Gần quầy check-in [2], một người phụ trách mặc đồng phục bước ra. “Chào ông Bakersfeld. Ông tìm bà Livingston phải không?”
Không biết làm thế nào mà ở một sân bay bận rộn như thế này, Mel nghĩ, người ta lại luôn luôn có thời gian để buôn chuyện. Ông tự hỏi làm thế nào mà sự liên hệ giữa tên mình và Tanya lại được biết rộng rãi đến thế.
“Vâng, đúng thế”, ông nói.
Người phụ trách hất đầu hướng tới một cánh cửa có biển ghi CHỈ DÀNH CHO NHÂN VIÊN HÀNG KHÔNG.
“Ông sẽ tìm ra bà ấy ở đó, ông Bakersfeld. Chúng tôi chỉ có một chút khủng hoảng ở đây. Bà ấy đang giải quyết nó”.
 Phi Trường  Phi Trường - Arthur Hailey  Phi Trường