Chương 2
iờ khai mạc phải dời lại ít phút chứ không đúng như dự tính ban đầu Sarah đã đưa ra, vì khách đến trễ khá nhiều. MC của buổi lễ là một ngôi sao Hollywood đã từng dẫn một talkshow trên tivi. Ông ta rất tuyệt vời. Ông giục mọi người ngồi vào chỗ, giới thiệu những nhân vật danh tiếng đến từ L.A và dĩ nhiên giới thiệu ông thị trưởng và các vị khách mời danh dự ở địa phương. Buổi tối tiến hành theo đúng chương trình đã định.
Sarah nói ít để tranh thủ thời gian. Sau lời phát biểu vắn tắt của ông bác sĩ trưởng phòng trẻ sơ sinh của bệnh viện, người ta trình chiếu một đoạn phim ngắn nói về sự huyền diệu của phòng này. Rồi Sarah nói về trường hợp của mình với Molly. Và sau đó người ta bán đấu giá, cảnh tượng diễn ra rất sôi nổi. Chiếc dây chuyền bằng kim cương của Tiffany bán được một trăm ngàn đô la. Các bức tranh danh tiếng bán với giá cao kinh khủng. Con chó con loại săn cáo ở vùng Yorkshire bán được mười ngàn đô la. Còn chiếc Range Rover bán với giá một trăm mười ngàn đô. Seth hô giá thấp hơn nên ông phải hạ chầm thua cuộc. Sarah nói nhỏ với Seth rằng không sao, chiếc xe bà đang dùng tuyệt rồi, bà rất vui sướng. Ông cười nhưng có vẻ lơ đãng. Bà nhận thấy ông còn có vẻ căng thẳng, bà nghĩ ông đã làm việc cả ngày mệt nhọc ở văn phòng.
Bà thấy Everett Carson nhìn bà hai lần trong buổi tối hôm đó. Bà đã cho ông ta danh sách và số chỗ ngồi của các nhân vật quan trọng. Giám đốc các công ty lớn trong thành phố đều có mặt. Báo chí thì có tờ Town and Country, tờ tuần báo Entertainment Weekly, tờ Entertainment Today. Các phóng viên quay phim của đài truyền hình sẵn sàng đợi quay Melanie trình diễn. Buổi lễ thành công tuyệt vời. Việc bán đấu giá đem lại cho ban tổ chức hơn bốn trăm ngàn đô la. Hai bức tranh trong phòng trưng bày nghệ thuật đã bán được với giá rất cao, rồi tiền bán vé cho khách du hành trên biển và du lịch xa. Thêm vào là giá vé chỗ ngồi, khiến cho số tiền gây quỹ rất nhiều ngoài sức mong đợi của ban tổ chức. Rồi sau tối hôm nay sẽ có nhiều quỹ phiếu gởi đến với số tiền ủng hộ cao hơn nữa.
Sarah đi quanh các bàn để cám ơn những người đến dự, và chào hỏi bạn bè. Phía sau phòng khiêu vũ có nhiều bàn dành cho các tổ chức từ thiện, cho Hội Chữ Thập Đỏ địa phương, một bàn ngồi đầy linh mục và nữ tu thuộc các tổ chức Từ thiện Công giáo, những tổ chức này đã làm việc trong phòng trẻ sơ sinh tại bệnh viện. Sarah thấy những linh mục mặc áo có cổ theo kiểu La Mã, nhiều phụ nữ đi với họ mặc áo quần màu xanh đậm hay màu đen giản dị. Trong bàn, chỉ có một nữ tu mặc áo dài nữ tu sĩ, bà ta nhỏ nhắn như một cô tiên nhỏ, tóc đỏ và đôi mắt xanh lanh lợi. Sarah nhận ra bà ta ngay. Bà là xơ Mary Magdalen Kent, được xem như hình ảnh của mẹ Teresa trong thành phố. Bà nổi tiếng nhờ công việc giúp đỡ các người vô gia cư trên đường phố và thái độ chống đối chính quyền vì đã không làm gì giúp họ, bà luôn luôn tranh đấu cho những người này. Sarah muốn đến nói chuyện với xơ, nhưng đêm nay bà quá bận việc, phải để mắt đến các diễn biến đang xảy ra trong buổi lễ. Bà đi nhanh qua bàn họ đang ngồi, gật đầu chào các linh mục và nữ tu sĩ, bà thấy tất cả đều tỏ ra vui mừng. Họ đang cười nói vui vẻ và uống rượu vang. Sarah rất sung sướng khi thấy họ được thoải mái.
Vị linh mục phụ trách những phần ăn miễn phí cho người nghèo đã đến chào bà, ông ta nói:
- Maggie, tôi không ngờ gặp bà ở đây đêm nay. - Cha biết bà rất rõ. Xơ Mary Magdalen là con sư tử cái khi ở ngoài phố, nhưng trong tu viện, bà là con chuột. Ông nhớ chưa lần nào thấy bà đến dự lễ gây quỹ từ thiện như thế này. Các nữ tu khác mặc áo quần màu xanh chải chuốt, đeo thánh giá vàng trên ve áo và cắt tóc ngắn rất khéo. Họ có vẻ hợp thời trang, trần tục, ngồi thưởng thức bữa ăn ngon lành, còn xơ Mary Magdalen, hay Maggie như bạn bè thường gọi, tỏ ra khó chịu suốt cả buổi tối. Bà có vẻ bối rối khi ngồi ở đây, chiếc mũ nỉ trên đầu nghiêng một bên, trên mái tóc ngắn màu đỏ. Trông xơ như bà tiên mặc áo quần nữ tu.
- Cha không ngờ là đúng, - bà đáp lời cha O’Casey bằng giọng nho nhỏ. - Cha đừng hỏi tại sao. Có người cho tôi cái vé. Tôi làm việc với một nhân viên công tác xã hội. Tối nay chị ấy đi dự lễ cầu kinh. Tôi đã nói chị ấy cho ai đấy cái vé, nhưng rồi tôi không muốn tỏ ra vô ơn như vậy, - Mary ân hận vì đã đến đây, bà nghĩ mình nên ở ngoài đường phố. Lễ lạt như thế này hoàn toàn không hợp với bà.
- Maggie, bà phải nghỉ ngơi chứ. Tôi nghĩ bà làm việc quá nhiều. - Cha O’ Casey nói. Cha và xơ Mary Magdalen đã biết nhau nhiều năm, cha kính phục bà vì lòng thương người của bà và vì bà luôn hết mình giúp đỡ người nghèo.
- Tôi ngạc nhiên hôm nay bà mặc áo dài nữ tu, - Cha cười nói, rót thêm rượu vang vào ly Mary nhưng bà không uống một giọt. Ngay trước khi vào tu viện, năm hai mươi mốt tuổi, bà đã không uống rượu và hút thuốc.
Bà cười khi nghe cha nói về bộ trang phục bà mặc.
- Đây là cái áo duy nhất của tôi. Hằng ngày tôi mặc quần jeans và áo lao động để làm việc. Tôi không cần áo quần đẹp để làm gì. - Bà nhìn ba nữ tu ngồi trong bàn, trông họ có vẻ như những bà nội trợ hay giáo sư đại học chứ không phải người tu hành, ngoại trừ chiếc thánh giá vàng nhỏ trên ve áo của họ.
Họ bắt đầu nói đến chính sách của giáo hội, vấn đề gây nhiều tranh cãi mà Đức Tổng Giám mục vừa nêu ra về các linh mục sẽ được thụ phong và lời tuyên bố mới đây của La Mã. Bà rất quan tâm đến luật vừa được thành phố đề nghị, hiện luật này đang được uỷ ban giám sát đánh giá. Bà nghĩ rằng luật lệ đã giới hạn, bất công và đang làm khổ nghiều người. Sau mấy phút, hai vị linh mục và một nữ tu khác cũng nhảy vào tranh luận. Họ rất quan tâm đến vấn đề bà nói.
- Maggie, xơ quá căng, - xơ Dominica, người quản lý trường điều dưỡng, nói. - Chúng ta không thể giải quyết những vấn đề khó khăn của mọi người ngay tức khắc được.
- Tôi đang cố giải quyết lần lượt từng vấn đề một. - Xơ Mary Magdalen khiêm nhường đáp. Hai người phụ nữ này có điểm chung, vì xơ Maggie đã tốt nghiệp trường điều dưỡng trước khi vào tu viện. Bà thấy những kỹ năng này có ích cho những người bà giúp đỡ. Họ đang tiếp tục bàn luận sôi nổi thì bỗng căn phòng tối lại. Cuộc bán đấu giá đã xong, người phục vụ đã dọn đồ tráng miệng ra và Melanie sắp trình diễn. MC chương trình vừa công bố việc này, mọi người trong phòng đã ngay lập tức im lặng hẳn và chờ đợi.
- Cô bé là ai thế? - Xơ Mary Madaglen hỏi nhỏ, mọi người ngồi trong bàn đều mỉm cười.
- Ca sĩ đang nổi tiếng khắp thế giới. Cô bé vừa đoạt giải Grammy, - Cha Joe thì thào nói, xơ Maggie gật đầu. Bà hoàn toàn không quan tâm gì đến buổi trình diễn ca nhạc. Bà mệt mỏi, chuẩn bị ra về thì bỗng âm nhạc trổi lên. Ban nhạc bắt đầu chơi bài mà Melanie sắp hát. Rồi trong âm thanh và dưới ánh sáng đầy màu sắc, Melanie xuất hiện. Nàng bước ra sàn diễn như kẻ lang thang không nhà, hát bài hát mở màn.
Xơ Mary Magdalen nhìn Melanie, kinh ngạc như mọi người trong phòng. Họ ngây ngất trước sắc đẹp, trước giọng hát cực kỳ mạnh mẽ của nàng. Trong phòng không có âm thanh gì khác ngoài tiếng hát của Melanie.
- Chà! - Seth thốt lên kinh ngạc, ông ngồi ở hàng ghế đầu, đưa mắt nhìn Melanie và vỗ vào tay vợ. Nàng hát quá hay. Trước đó ông thờ ơ, vẻ lo lắng, nhưng khi nàng cất tiếng, ông liền chú ý đến nàng và lắng nghe. - Trời đất quỷ thần ơi! Cô bé hát tuyệt vời quá! - Seth nói thêm. Trong khi đó, Sarah thấy Everett Carson ngồi xổm dưới sàn diễn, liên tục chụp ảnh Melanie. Nàng cực kỳ xinh đẹp trong chiếc áo mỏng dính. Chiếc áo nàng mặc như không có, chỉ thấy ánh sáng long lanh trên da thịt nàng thôi. Trước khi Melanie trình diễn, Sarah đã ra sau cánh gà để gặp nàng. Mẹ của Melanie chen vào nói chuyện, khi ấy Jake đã xỉn vì uống rượu Gin nguyên chất.
Âm nhạc của Melanie đang làm cho khán giả say đắm. Khi hát bài cuối cùng, nàng ngồi xuống mép sàn diễn, đưa hai tay về phía họ, hát cho họ nghe, khiến họ xúc động vô cùng. Người đàn ông nào trong phòng cũng ngưỡng mộ nàng, và người phụ nữ nào cũng muốn được như nàng. Melanie có duyên với sàn diễn, và giọng hát nàng có mãnh lực khiến cho mọi người không ai quên được. Sarah ngồi dựa người ra ghế, hoàn toàn hài lòng. Đêm nay thật hoàn hảo. Thức ăn ngon, phòng đẹp lộng lẫy, báo chí nhiệt tình, việc bán đấu giá thu được nhiều tiền, và Melanie trình diễn rất hay. Buổi lễ hoàn toàn thành công. Sarah nghĩ bà đã làm tốt. Seth nói ông rất tự hào về bà, và ngay cả bà cũng tự hào về mình.
Bà thấy Everett Carson đến gần Malanie, chụp cho nàng nhiều bức ảnh nữa. Sarah hân hoan sung sướng và đồng thời bà có cảm giác căn phòng chao đảo. Bà nghĩ chắc mình bị chóng mặt, choáng váng. Rồi tự nhiên bà đưa mắt nhìn lên, thấy những cây đèn chùm trên đầu đung đưa. Bà kinh ngạc vô cùng, bỗng bà nghe có tiếng ầm ầm nho nhỏ như tiếng sấm gần đây. Rồi mọi thứ như dừng lại, ánh đèn chớp sáng, và căn phòng chao đảo. Người ngồi gần bên bà đứng dậy và la lên:
- Động đất! - Âm nhạc ngưng chơi, bàn nghiêng đổ, bát dĩa rơi loảng xoảng, rồi đèn tắt và mọi người la hét. Căn phòng chìm trong bóng tối, tiếng kêu thảm thiết mỗi lúc một to hơn, căn phòng nghiêng đổ dữ dội. Sarah và Seth đang nằm trên sàn nhà, ông liền kéo bà ra khỏi gầm bàn trước khi nó bị lật ngược.
- Ôi lạy Chúa! - bà kêu lên và níu lấy ông. Ông quàng tay ôm bà vào lòng. Bà chỉ nghĩ đến các con, muốn về nhà ngay để xem chúng có bị gì không. Căn phòng tiếp tục chao đảo, tiếng đồ đạc rơi vỡ ào ào. Cảnh tượng như thế kéo dài vài phút mới ngưng. Sau đó tiếng đổ vỡ và tiếng người la hét vẫn tiếp diễn, họ xô đẩy nhau chạy ra ngoài khi đèn báo chỉ lối ra xuất hiện trở lại. Cảnh tượng trong phòng hết sức náo loạn.
- Cứ nằm yên vài phút, - Seth nói, ông và vợ đang nằm trên nền nhà. Sarah cảm thấy chồng mình đang ở bên cạnh, nhưng vì căn phòng quá tối nên không nhìn thấy ông - Chúng ta sẽ bị người ta dẫm lên người đấy.
- Nếu tòa nhà sập đè chúng ta thì sao? - Bà hỏi trong tiếng khóc.
- Nếu nhà sập thì chết, chẳng cần, - ông đáp một cách cộc lốc.
Sarah và mọi người trong phòng đều biết rằng họ đang ở dưới mặt đất ba tầng. Họ không biết đi ra bằng cách nào. Người trong phòng la hét nhau đinh tai nhức óc, rồi nhân viên khách sạn xuất hiện với đèn pin cực mạnh ở dưới các đèn báo chỉ lối ra. Có người nói trên loa cầm tay rằng họ phải giữ bình tĩnh, thận trọng đừng hoảng sợ. Ngoài hành lang có ánh sáng lờ mờ, trong khi phòng khiêu vũ thì tối tăm. Đây là chuyện kinh khủng nhất trong đời Sarah. Seth nắm cánh tay vợ, rồi kéo bà đứng dậy. Năm trăm sáu chục người trong phòng chen lấn nhau đi về các lối ra. Có tiếng khóc, rên la vì đau đớn, có người kêu gọi được giúp đỡ vì người bên cạnh họ đang bị thương.
Xơ Maggie đã đứng dậy, tiến về phía đám đông chứ không đi ra ngoài. - Bà làm gì đấy? - Cha Joe hỏi theo. Nhờ ngoài hành lang có ánh sáng nên họ có thể thấy nhau một cách lờ mờ. Những chậu hoa hồng khổng lồ đã bị đổ nhào, cảnh tượng trong phòng khiêu vũ lộn xộn kinh khủng. Cha Joe nghĩ rằng Maggie đang đi nhầm đường.
- Tôi sẽ gặp cha ở ngoài sau! - Bà hét lớn rồi biến mất trong đám đông. Mấy phút sau, bà quì bên cạnh một người đàn ông bị đau tim. Bà không ngại đưa tay tìm chai thuốc trong túi ông ta, lấy ra một viên, bỏ vào miệng cho ông rồi dặn ông đừng di chuyển. Bà tin viên thuốc sẽ giúp cho bệnh nhân trở lại bình thường.
Xơ Maggie để ông ở lại với bà vợ hoảng sợ của ông, rồi len dọc theo lối đi bừa bãi đồ đạc đổ vỡ. Bà tiếc đã không mang đôi giày lao động, vì hiện bà đi đôi giày đế mềm mỏng manh. Nền nhà của phòng khiêu vũ ngổn ngang bàn ghế nghiêng đổ, có cái lộn ngược, thức ăn, đĩa và ly vỡ vương vãi khắp nơi, có một số người nằm trong mớ đổ vỡ đó. Xơ Maggie tiến đến phía họ. Trong phòng có rất nhiều bác sĩ, nhưng chỉ một ít người ở lại để giúp những người bị thương. Một phụ nữ bị gãy nơi cánh tay nói rằng chị ta sắp sinh con. Xơ Maggie nói với chị ta rằng, đừng nghĩ đến chuyện đó cho đến khi đã ra khỏi khách sạn. Chị cười khi Maggie giúp chị đứng lên để đi ra khỏi phòng khiêu vũ, tay chị nắm chặt cánh tay của chồng. Mọi người đều sợ sẽ xảy ra dư chấn, còn nặng hơn trận động đất ban đầu. Họ tin rằng trận động đất vừa rồi đã lên đến bảy, tám độ richter. Trong phòng, còn nhiều người rên rỉ, mặc dù mặt đất đã hết rung, họ vẫn cảm thấy chưa an tâm.
Khi xảy ra động đất, Everett Carson đang ở trước phòng bên cạnh Melanie. Khi căn phòng nghiêng một bên, nàng tuột khỏi sàn diễn, nhào vào tay ông, và cả hai lăn xuống nền nhà. Khi đất hết rung, ông giúp nàng đứng dậy. - Cô có sao không? Nhân tiện xin khen, buổi trình diễn quá tuyệt, - ông nói nhỏ. Khi người ta mở cửa phòng khiêu vũ, ánh sáng từ ngoài hành lang chiếu vào. Ông nhận thấy áo nàng bị rách, để hở một bên ngực. Ông liền cởi áo vest, choàng cho nàng.
- Cám ơn ông, - nàng nói, vẻ bàng hoàng, - Chuyện gì xảy ra thế?
- Động đất, tôi đoán cũng đến bảy hay tám độ richter.
- Everett đáp.
- Ghê quá. Bây giờ chúng ta phải làm gì? - Melanie hỏi với vẻ lo lắng nhưng không hoảng hốt.
- Chúng ta hãy làm theo điều họ nói, cố ra khỏi đây mà không bị dẫm đạp.- Ông đã nếm mùi động đất, nhưng rõ ràng trận này quá lớn. Đây là trận động đất lớn nhất xảy ra ở San Francisco kể từ một trăm năm nay.
- Tôi phải tìm mẹ tôi, - Melanie nói rồi đưa mắt nhìn quanh. Nàng không thấy bà và Jake đâu hết, vả lại ánh sáng trong phòng không đủ để nàng nhìn rõ. Phòng quá tối, lại có nhiều người la hét, cảnh tượng quá lộn xộn ồn ào, không làm sao nghe rõ ai nói gì ngoài người đang đứng bên cạnh mình.
- Cô nên ra ngoài để tìm thì hơn, - Everett đề nghị. Nàng bước đến phía sàn diễn đã sập, các nhạc cụ đều đã văng ra khắp nơi, chiếc dương cầm nằm nghiêng về một bên, may thay là nó không rơi đúng ai. - Cô ổn chứ? - Everett hỏi khi thấy Melanie có vẻ hơi sửng sốt.
- Khỏe... không sao... - Nàng đáp. Rồi ông dẫn nàng đến lối ra và nói rằng ông phải ở lại đây một lát nữa. Ông muốn xem có gì ông có thể giúp đỡ người khác trong phòng hay không.
Mấy phút sau, ông gặp một người phụ nữ đang giúp một người đàn ông bị đau tim. Người đàn bà bỏ đi đến giúp người khác, và Everett đưa người đàn ông đi ra ngoài. Ông và một bác sĩ bèn để ông ta ngồi vào ghế và khiêng lên lầu ba. Ở bên ngoài đã có các thầy thuốc, xe cấp cứu và xe cứu hỏa, họ giúp những người từ trong khách sạn chạy ra. Lính cứu hỏa vào cuộc. Không có hỏa hoạn xảy ra, nhưng đường dây điện bị rơi xuống, nẹt lửa nhiều nơi. Họ dùng loa phóng thanh cầm tay báo cho mọi người biết để tránh xa các chỗ có dây điện rơi, rồi lập hàng rào chặn các chỗ ấy lại. Everett nhận thấy cả thành phố đều tối tăm. Rồi do bản năng nghề nghiệp, ông lấy máy ảnh còn đeo trên cổ, chụp cảnh tượng đang diễn ra trước mắt, kể cả cảnh những người bị thương nặng. Ai nấy đều có vẻ hoảng hốt. Người đàn ông bị đau tim được xe cấp cứu chở đến bệnh viện cùng một người đàn ông khác bị gãy chân. Có nhiều người bị thương ở trên đường, phần lớn đều từ trong khách sạn ra. Đèn giao thông không hoạt động, nên xe cộ chạy tự do. Một toa xe chạy bằng dây cáp treo bị rơi ở ngã tư đường, ít ra có bốn chục người bị thương. Các y sĩ và lính cứu hỏa đã đến giúp đỡ họ. Một phụ nữ đã chết được đắp tấm vải bạt, cảnh tượng rất khủng khiếp. Khi Everett ra khỏi khách sạn, ông mới nhận thấy áo sơ mi của mình có dính máu vì má ông bị rách một đường. Ông không biết tại sao mình bị rách mặt. Vết thương có vẻ nhẹ, nên ông không lo. Nhân viên khách sạn đưa cho ông cái khăn để ông lau mặt. Có hàng chục người ở đấy đưa cho những người bị sốc nào là khăn, chăn mền và nước tinh khiết đóng chai. Không ai biết phải làm gì tiếp theo. Họ chỉ đứng đấy nhìn nhau. Nửa giờ sau, lính cứu hỏa nói rằng phòng khiêu vũ đã được dọn dẹp sạch sẽ. Chính khi ấy Everett mới thấy Sarah Sloane đang đứng bên cạnh chồng. Áo dạ hội của bà bị rách, dính đầy rượu vang và thức ăn tráng miệng. Khi cái bàn ăn lật úp, các thứ này đã đổ lên áo bà.
- Bà không sao chứ? - Ông hỏi. Mọi người gặp nhau đều hỏi như thế. Bà khóc, còn chồng bà có vẻ căng thẳng. Ai cũng đều như vậy. Họ khóc, sửng sốt, lo sợ cho gia đình, không biết những người thân của mình ra sao. Sarah đã gọi điện thoại di động về nhà mà không được. Seth cũng gọi, nhưng vẫn thế, trông ông có vẻ rất hoảng sợ.
- Tôi lo cho các con tôi, - bà nói. - Chúng ở nhà với người giữ trẻ. Tôi không biết làm sao để về nhà. Chắc chúng ta phải đi bộ thôi. - Có thông tin rằng nhà xe đã sập, xe của mọi người đều ở trong đó. Không có cách nào lấy xe ra, những ai có xe đều bị kẹt hết. Không có taxi. Chỉ trong nháy mắt, San Francisco trở thành thành phố ma. Trận động đất đã xảy ra khoảng một giờ. Nhân viên trong khách sạn Ritz - Carlton rất tuyệt vời, họ đi hỏi khắp đám đông có ai cần giúp gì không. Bây giờ không có ai có thể làm gì được, ngoại trừ bác sĩ và lính cứu hỏa đang cố đưa những người bị thương đến bệnh viện.
Mấy phút sau, lính cứu hỏa tuyên bố rằng có trung tâm tạm trú cho những ai bị kẹt trong vụ động đất đến ở tạm cách đấy hai khu phố. Họ hướng dẫn cho mọi người phải đến đó, tránh đứng trên đường phố. Hệ thống điện đã hỏng, trên đường có nhiều dây điện nằm ngổn ngang. Họ cảnh báo mọi người phải đi nhanh đến trại tạm trú chứ không nên về nhà. Khả năng có cơn dư chấn xảy đến làm tất cả đều hoảng sợ. Khi lính cứu hỏa nói mọi người phải làm gì, thì Everett Carson tiếp tục chụp ảnh. Ông thích làm công việc này. Ông thận trọng chụp những hình ảnh để làm bằng chứng cho sự kiện lịch sử này.
Mọi người bắt đầu di chuyển về phía trại tạm trú ở dưới đồi bằng những đôi chân run run. Vừa đi họ vừa nói với nhau về chuyện đã xảy ra, họ kể khi ấy họ ở đâu và mới đầu họ nghĩ chuyện gì xảy ra. Một người đàn ông đang tắm vòi sen trong khách sạn nói rằng, ông tưởng có gì đang rung trong ống nước vào mấy giây đầu tiên. Ông đang mặc chiếc áo khoác dài bằng vải bông và không có gì nữa, chân thì đi trần. Bàn chân bên trái ông bị rách vì đạp phải mảnh gương ngoài đường. Một phụ nữ khác nói rằng bà ta tưởng giường bị gãy khi rơi xuống nền nhà, rồi cả căn phòng lắc lư như trò chơi trong lễ hội. Nhưng đây không phải trò chơi. Đây là tai hoạ khủng khiếp lần thứ hai xảy ra cho thành phố.
Everett lấy chai nước do người giúp việc trong khách sạn đưa. Ông mở chai uống một hơi dài, vì miệng khô khốc. Bụi từ trong khách sạn bay ra đầy trời từ những nơi kiến trúc bị đổ vỡ, và những chỗ bị sập. Lính cứu hỏa đem những thi thể người chết ra để ở tiền sảnh, rồi lấy tấm bạt đắp lên trên. Có chừng hai chục thi thể được đem ra đấy, và còn nhiều người bị mắc kẹt ở trong. Rải rác có nhiều người khóc vì không tìm thấy bạn bè hay bà con đã ở trong khách sạn, hay không có trong nhóm từ phòng lễ gây quỹ từ thiện đi ra. Họ dễ được nhận biết vì áo quần dự lễ rách rưới và dơ bẩn. Trông họ như những người sống sót trên tàu Titanic. Chính khi đó Everett trông thấy Melanie và mẹ nàng. Mẹ nàng khóc như điên, còn Melanie lại tỏ ra bình tĩnh, cảnh giác, và nàng vẫn mặc cái áo vest thuê của ông.
- Cô không sao chứ? - Ông hỏi câu hỏi quen thuộc. Nàng cười và gật đầu.
- Không sao. Mẹ tôi sợ sắp có trận động đất khác lớn hơn. Ông có lấy cái áo không? - Nếu nàng trả áo cho ông, nàng sẽ hầu như trần truồng. Ông lắc đầu. - Tôi có thể lấy cái chăn quấn quanh người cũng được.
- Cô cứ giữ cái áo mà dùng. Mọi người trong nhóm cô đều bình an cả chứ? - Ông biết đoàn người theo Melanie rất đông, nhưng hiện ông chỉ thấy mẹ nàng thôi.
- Cô bạn Ashley của tôi bị trẹo mắc cá chân, các y sĩ đang chăm sóc cho cô ấy. Bạn trai của tôi thì say mèm, những người trong ban nhạc phải mang anh ấy ra ngoài. Anh ấy nôn mửa khắp nơi. - Nàng ra dấu chỉ bâng quơ và nói tiếp: - Mọi người khác đều ổn cả. - Bây giờ ra khỏi sàn diễn trông nàng có vẻ như một cô bé tuổi teen, nhưng ông nhớ là cuộc trình diễn của nàng quá tuyệt. Chắc người nào đã xem nàng tối nay cũng đều nghĩ như thế.
- Quí vị nên đến chỗ tạm trú mà nghỉ, ở đấy sẽ được bình an hơn, - Everett nói với hai mẹ con Melanie. Janet Hasting liền kéo con gái đi. Bà muốn đi khỏi đây ngay vì sợ cơn động đất khác sẽ xảy ra.
- Chắc con phải ở lại đây một lát, - Melanie nói nhỏ với mẹ. Nàng bảo bà nên đi một mình đến nhà tạm trú. Bà khóc lớn. Melanie muốn ở lại để giúp mọi người, Everett cảm thấy nàng thật đáng phục. Lần đầu tiên ông muốn uống một ly, nhưng ông không uống. Đây cũng là lần đầu tiên ông sung sướng thấy mình cương quyết không uống rượu, dù trước lý do đã xảy ra cơn động đất lớn. Nghĩ đến chuyện đó ông cười tươi. Janet định đi về phía nhà tạm trú với vẻ hoảng sợ, Melanie thì biến mất trong đám đông.
- Cô ấy sẽ không sao đâu, - Everett cam đoan với Janet. - Khi tôi gặp lại Melanie, tôi sẽ đưa cô ấy đến nhà tạm trú với bà. Bà cứ đi với những người khác. - Janet có vẻ không yên tâm, nhưng thấy đám đông đi đến nhà tạm trú, bà liền theo họ. Everett nghĩ rằng, dù ông có gặp nàng lại hay không, thì Melanie cũng sẽ được an toàn. Nàng còn trẻ và tháo vác, những thành viên trong ban nhạc hiện đang ở gần nàng, nếu nàng muốn giúp đỡ những người bị thương, thì đây là một việc làm rất quí. Nhiều người đang cần sự chăm sóc, vì các bác sĩ thực sự đã quá tải.
Khi gặp người đàn bà nhỏ nhắn tóc đỏ đã giúp người đàn ông đau tim rồi bỏ đi nơi khác, ông chụp ảnh bà ta.
Ông thấy bà ta giúp một em bé, rồi đưa em cho lính cứu hỏa để họ tìm mẹ giúp em. Everett liền chụp ngay bức ảnh của bà, rồi bỏ máy ảnh xuống, hỏi.
- Bà là bác sĩ à? Bà có vẻ thành thạo khi cứu giúp người đàn ông bị đau tim.
- Không, tôi là y tá, - bà đáp, đôi mắt xanh sáng long lanh nhìn vào mắt ông, rồi bà cười. Vẻ lạc quan của bà khiến ông xúc động. Ông chưa bao giờ thấy người nào có đôi mắt tinh anh như thế.
- Các y tá rất nỗ lực trong đêm nay, - Nhiều người bị thương, có người nặng, người nhẹ, và nhiều người bị sốc. Ông đã thấy bà trong buổi lễ từ thiện, nhưng bà mặc áo dài nữ tu và đi giày đế phẳng đơn giản, không phù hợp với khung cảnh chút nào hết. Sau khi trận động đất xảy ra, chiếc mũ nỉ trên đầu bà biến mất. Ông không biết bà làm gì ngoài nghề y tá của mình. Nhìn mặt bà, ông thấy rất khó đoán tuổi, ông nghĩ bà khoảng trên dưới bốn mươi một chút, và thực ra thì bà bốn hai. Bà dừng lại nói chuyện với người nào đấy khi ông đi theo bà, rồi bà ngừng lại để uống nước. Bụi trong khách sạn bay ra khiến người ta hắt hơi liên tục.
- Bà có đến khu tạm trú không? Có lẽ mọi người ở đấy cũng cần sự giúp đỡ, - ông nói. Ông đã vứt chiếc nơ trên áo sơ mi có dính máu chảy từ vết thương nơi má. Bà lắc đầu khi nghe ông hỏi.
- Tôi phải làm việc ở ngoài này. Người trong khu vực tôi ở rất cần có tôi giúp đỡ.
- Bà ở chỗ nào? - Ông hỏi, mặc dù ông chẳng biết gì rõ về thành phố này. Nhưng, người đàn bà này có gì đấy khiến ông tò mò muốn biết. Bản năng nhà báo nơi ông khiến ông chú ý đến bà.
Nghe ông hỏi, bà cười. - Tôi ở tại khu Tenderloin, không xa đây mấy. - Nhưng nơi bà ở rất khác với cuộc sống ở đây. Ở đấy có vài khu phố rất khác biệt.
- Khu ấy rất căng phải không? - Ông càng tò mò hơn. Ông đã nghe nói đến khu Tenderloin, nơi này có nhiều người nghiện ma tuý, nhiều đĩ điếm, và những kẻ sống lang thang.
- Phải, đúng vậy, - bà thành thật đáp. Nhưng bà sung sướng vì được ở đấy.
- Thế bà ở tại Tenderloin à? - Ông ngạc nhiên hỏi, vẻ bối rối.
- Phải. - Bà cười đáp rồi vuốt mái tóc đỏ, gương mặt bà lấm lem bụi đất. Cặp mắt xanh tinh anh cười cợt với ông. - Tôi thích sống ở đấy. - Giác quan thứ sáu báo cho ông biết chuyện đời của bà rất ly kỳ, ông nghĩ bà sắp trở thành vị anh hùng trong đêm nay. Ông muốn theo bà đến khu Tenderloin đấy.
- Tôi tên là Everett. Tôi có thể đi với bà được không?
- Ông hỏi. Bà ngần ngừ một lát rồi gật đầu.
- Đến Tenderloin rất nguy hiểm, vì dây điện còn nằm ngổn ngang trên đường. Người ta không vội giúp đỡ những người ở đấy đâu. Các đội cứu hộ đều ở đây hay tại những nơi khác trong thành phố. Xin ông gọi tôi là Maggie.
Họ làm việc thêm một giờ nữa mới rời khỏi hiện trường ở ngoài khách sạn Ritz. Khi ấy đã gần ba giờ sáng. Mọi người hầu hết đã đến khu tạm trú hoặc đi về nhà. Everett không gặp lại Melanie, nhưng ông không lo cho nàng. Xe cứu thương đã chở hết những người bị thương nặng đi, và lính cứu hỏa có vẻ đã kiểm soát được hoàn toàn tình thế. Họ nghe tiếng còi hụ xa xa vọng lại. Everett biết các ống dẫn nước bị hỏng, nên họ phải khó khăn lắm mới dập tắt được ngọn lửa. Ông lẽo đẽo đi theo người đàn bà nhỏ nhắn về phía nhà bà. Họ đi dọc đường California đến Nob Hill hướng về phía Nam. Họ qua khu Union Square và cuối cùng rẽ phải, hướng về phía Tây đến O’ Farrell. Cả hai đều sửng sốt khi thấy cửa sổ ở các cửa hàng tổng hợp tại khu Union Square đều bị rơi xuống đường, gãy vỡ hết. Cảnh tượng ngoài khách sạn St. Francis cũng giống như vậy. Các khách sạn thì trống vắng, mọi người đều được đưa đến các khu tạm trú. Họ phải đi mất nửa giờ mới đến nơi ở của Maggie.
Người ta đứng trên đường, ở đây cảnh tượng trông rất khác. Họ ăn mặc rách rưới, có người đang say thuốc, có người đầy vẻ lo sợ. Cửa sổ các nhà hàng bị hư hỏng, những người say rượu nằm ra đường, một đám gái điếm ngồi sát bên nhau. Everett ngạc nhiên khi thấy hầu như mọi người đều biết Maggie. Bà dừng lại nói chuyện với họ, hỏi han công việc của họ ra sao, có ai bị thương không, họ có được giúp đỡ gì không. Họ nói chuyện thân mật với bà, cuối cùng bà và Everett ngồi xuống trước ngưỡng cửa một ngôi nhà xấu xí. Khi ấy đã năm giờ sáng, nhưng Maggie không có vẻ gì mệt mỏi.
- Bà là ai? - ông hỏi. Ông thấy bà rất kỳ lạ. - Tôi có cảm giác như mình đang xem một bộ phim điện ảnh lạ, chiếu cảnh thiên thần hạ giới, và có lẽ không ai thấy ngoài tôi. - Bà cười trước sự miêu tả của ông, nụ cười nhắc cho ông nhớ rằng không có ai thắc mắc khi gặp bà. Bà là người thật, mắt mọi người đều nhìn thấy, bất kỳ cô gái điếm nào trên đường phố cũng đều đồng ý như thế.
- Có lẽ câu trả lời dành cho ông là tôi làm gì, chứ không phải tôi là ai, - Bà đáp, lòng ước chi cởi được chiếc áo nữ tu ra khỏi người. Chỉ là chiếc áo dài đen xấu xí, thô sơ, bà nhớ chiếc quần jeans tiện dụng. Bà thấy tòa nhà bà ở có lẽ đã bị lung lay, nhưng không sập, không có dấu hiệu gì nguy hiểm khiến bà không nên vào trong. Lính cứu hỏa và cảnh sát không đưa người ở đây đến khu tạm trú.
- Bà nói thế nghĩa là sao? - Everett hỏi, vẻ ngạc nhiên. Ông mệt mỏi. Hai người đã trải qua một đêm khó nhọc, nhưng trông bà vẫn tươi như đoá hồng.
- Tôi là nữ tu sĩ, - bà đáp. - Tôi làm việc với những người này, tôi săn sóc họ. Tôi làm việc trên đường phố. Như thế đấy. Tôi đã sống ở đây gần mười năm rồi.
- Bà là tu sĩ à? - Ông hỏi với vẻ sửng sốt. - Tại sao bà không cho tôi biết?
- Tôi không biết. - Bà nhún vai đáp một cách rất tự nhiên, thoải mái, ngay ở giữa đường. Đây là nơi bà quen thuộc. - Tôi không nghĩ đến chuyện đó. Nó có gì khác biệt không?
- Ờ, có... mà không, - ông chỉnh lại, rồi nói như trước.
- Chuyện đó khác chứ. Đây là nét đặc biệt của bà. Bà không sống trong tu viện hay ở đâu khác à?
- Không, tu viện của tôi đã giải thể từ lâu rồi. Dòng tu không có đủ nữ tu để duy trì được sinh hoạt. Họ đã biến tu viện thành trường học rồi cho tiền trợ cấp để chúng tôi ở trong chung cư. Nữ tu sống thành từng nhóm hai hay ba người, nhưng không ai muốn ở đây với tôi. - Bà cười thoải mái. Họ muốn sống ở những khu tốt hơn. Công việc của tôi là ở đây. Nó là sứ mạng của tôi.
- Tên thật của bà là gì. - Ông tò mò hỏi. - Tôi muốn nói đến tên nữ tu của bà.
- Xơ Mary Magdalen, - bà đáp nho nhỏ.
- Tôi rất kinh ngạc, - ông nói rồi lấy trong túi ra một điếu thuốc. Đây là điếu đầu tiên ông hút trong cả đêm, và bà đã không phản đối. Bà có vẻ thoải mái dù thực tế bà là nữ tu. Bà là nữ tu đầu tiên ông nói chuyện trong nhiều năm nay, và không bao giờ có được cảm giác thoải mái như thế này. Họ như hai chiến hữu sau những giờ cùng nhau chiến đấu trong một hoàn cảnh giống nhau. - Bà thích làm nữ tu không? - Ông hỏi. Bà gật đầu, suy nghĩ một lát rồi quay qua hỏi ông:
- Tôi thích chứ. Tôi rất thích vào tu viện. Tôi đã muốn đi tu từ khi còn nhỏ. Người ta gọi đấy là thiên hướng sớm. Tôi luôn luôn có thiên hướng này.
- Có bao giờ bà hối tiếc vì đã đi tu không?
- Không. - Bà cười sung sướng với ông. - Không bao giờ. Tôi hoàn toàn thích cuộc sống tu hành. Sau khi học xong trường điều dưỡng là tôi đi tu ngay. Tôi lớn lên ở Chicago, là chị cả trong gia đình bảy người con. Tôi luôn luôn nghĩ rằng việc đi tu rất hợp với tôi.
- Bà có bạn trai không? - Ông rất kinh ngạc trước điều bà nói.
- Có một người, - bà đáp một cách thoải mái, không ngại ngùng gì. Đã từ lâu bà không nghĩ đến anh ta. - Khi tôi đang học trường điều dưỡng.
- Chuyện xảy ra như thế nào? - Ông tin rằng vì tình yêu trắc trở nên bà đã đi tu. Ông không nghĩ đến lý do nào khác khiến bà làm thế. Đối với ông, chuyện đi tu là việc hết sức kỳ lạ. Ông lớn lên trong giáo phái Luther. Không bao giờ gặp một nữ tu nào cho đến khi rời khỏi nhà. Chuyện đàn bà đi tu đối với ông là điều hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng người đàn bà này rất đặc biệt, bà ta có vẻ sung sướng, hài lòng khi nói đến cuộc sống của mình giữa đám gái điếm và các con nghiện ma tuý. Thái độ hân hoan, thanh thản của bà làm cho ông ngạc nhiên.
- Anh ấy chết vì tai nạn xe hơi lúc tôi đang học năm thứ hai trường điều dưỡng. Nhưng dù anh ấy có sống đi nữa, thì vấn đề vẫn không có gì thay đổi. Tôi đã nói cho anh ấy biết ngay từ đầu rằng tôi muốn đi tu, nhưng anh ấy không tin tôi. Sau đó không bao giờ tôi đi chơi với ai, vì khi ấy tôi đã quyết định chắc chắn. Nếu anh ấy còn sống, có lẽ tôi cũng không đi chơi với anh ấy nữa. Nhưng cả hai chúng tôi còn trẻ, chúng tôi thơ ngây và mọi việc đều vô hại, so với tiêu chuẩn của bây giờ. - Tóm lại Everett nghĩ rằng bà còn trinh khi vào tu viện, và bây giờ cũng vậy. Ông thấy vấn đề này thật kỳ lạ và khó tin. Như thế tức là đã phí cuộc đời của một người đẹp. Ông thấy bà rất hoạt bát, vui vẻ.
- Rất đáng ngạc nhiên.
- Thực ra chẳng có gì đáng ngạc nhiên. - Bà xem việc này rất bình thường, mặc dù đối với ông thì đây là vấn đề đáng ngạc nhiên. - Còn ông thì sao? Có vợ chứ? Hay đã ly dị? Ông có mấy con? - Bà nghĩ ông sẽ rất thoải mái khi thổ lộ tâm tình với bà. Ông nhận ra chiếc áo dài đen bình dị là áo dài nữ tu. Vì thế mà bà không mặc áo dạ hội để đi dự lễ từ thiện như mọi người.
- Khi mười tám tuổi, tôi đã làm cho một cô gái có thai, rồi phải cưới, vì bố cô ta nói nếu tôi không cưới, ông ta sẽ giết tôi. Nhưng một năm sau chúng tôi chia tay nhau. Hôn nhân không thích hợp cho tôi, vì khi ấy tôi còn quá nhỏ. Cô ta nộp đơn ly dị rồi lấy chồng khác, tôi đoán thế. Sau đó, tôi chỉ gặp con trai tôi một lần khi nó chừng ba tuổi. Tôi không phù hợp với cương vị làm cha. Khi bỏ đi, tôi cảm thấy mình rất sai, nhưng với tuổi đời còn nhỏ, tôi không đủ tư cách để làm việc ấy. Cho nên tôi đã ra đi. Tôi không biết làm gì hơn. Tôi đã bỏ con để phiêu bạt khắp nơi trên thế giới, sống trong những vùng chiến tranh, những nơi có nhiều tai hoạ, làm phóng viên cho hãng AP. Cuộc sống ấy rất nguy hiểm, nhưng hợp với tôi. Tôi thích như vậy. Bây giờ tôi già rồi, còn nó thì đã trưởng thành. Nó không cần tôi nữa, còn mẹ nó, sau đó đã được giáo hội huỷ cuộc hôn nhân của chúng tôi để bà có thể tái giá. Tôi thật sự không có trong cuộc đời bà ta.
- Chúng ta luôn luôn cần đến bố mẹ, - xơ Mary nói nhỏ. Hai người im lặng một lát. - Chắc hãng AP sẽ rất sung sướng về những bức hình ông đã chụp trong đêm nay, - bà khích lệ. - Ông không cho bà biết chuyện ông đã có giải thưởng Pulitzer.
- Tôi hết làm cho họ rồi, - ông đáp. - Khi đi khắp nơi để tác nghiệp, tôi đã nhiễm nhiều tật xấu. Những tật xấu này vượt ra khỏi tầm kiểm soát tôi cách đây một năm, khiến tôi suýt chết vì rượu ở Bangkok, may nhờ cô gái điếm đã cứu tôi. Cô ta đưa tôi đi bệnh viện. Sau khi bị hãng AP sa thải, tôi vào trung tâm cai rượu. Họ đuổi tôi là đúng. Tôi cai một năm thì dứt được. Bây giờ tôi đã hết uống rượu và đang làm cho một tờ tạp chí tại Hollywood, tôi đến đây để tường thuật buổi lễ này cho họ. Tôi không thích công việc mình đang làm. Tôi thích dấn thân vào những nơi sơ khai, hơn là mặc đại lễ để đến dự những buổi tiệc ồn ào.
- Tôi cũng thế, - bà cười đáp. - Tôi không thích mặc đại lễ đi dự tiệc - Bà nói bà có vé ngồi ở bàn danh dự là do một người bạn cho, và bà đi kẻo uổng. - Tôi muốn làm việc ngoài đường với những người bất hạnh còn hơn vào dự những buổi lễ từ thiện quá trang trọng. Thế còn ông. Ông có nghĩ đến con mình không? Có muốn gặp cậu ta không? Bây giờ cậu ta bao nhiêu tuổi rồi? - Bà rất muốn biết về Everett, nên đã nhắc đến con trai ông. Bà rất tin tầm quan trọng của gia đình trong cuộc sống của một con người. Hiếm khi bà có cơ hội để nói chuyện như thế này. Còn ông cũng cảm thấy rất kỳ lạ khi nói chuyện với người nữ tu.
- Vài tuần nữa, con trai tôi sẽ được ba mươi tuổi. Thỉnh thoảng tôi nghĩ đến nó, nhưng bây giờ thì trễ rồi. Khi con đã ba mươi tuổi, mình không thể trở về với nó để hỏi han cuộc sống của nó. Có lẽ nó ghét tôi tận xương tuỷ vì tôi đã bỏ nó mà đi.
- Ông có hận mình vì đã bỏ con không? - Bà hỏi.
- Thỉnh thoảng. Không thường xuyên. Khi tôi ở trung tâm cai rượu, tôi đã nghĩ đến chuyện này. Nhưng khi nó đã khôn lớn, mình không nên xen vào cuộc sống của nó.
- Có lẽ ông phải hỏi thăm con trai mình, - bà nói. - Có thể cậu ấy rất muốn gặp ông. Ông có biết cậu ấy ở đâu không?
- Trước đây thì biết. Tôi sẽ cố tìm ra chỗ ở của nó, dù không biết làm vậy có đúng không. Tôi sẽ nói gì với nó nhỉ?
- Có thể cậu ấy muốn hỏi ông nhiều chuyện và cậu ấy cũng có nhiều việc rất hay để nói với ông. Ông phải cho cậu ta biết rằng, chuyện ông bỏ đi không có liên quan gì đến cậu ta. - Xơ Mary là người khôn khéo, Everett nhìn bà gật đầu.
Sau đó họ đi quanh trong khu vực một lát, mọi thứ có vẻ rất thứ tự. Một số người đã đến khu tạm trú. Một số ít thì bị thương và đã được đưa đến bệnh viện. Số còn lại có vẻ mạnh khỏe. Mọi người đều nói đến sức mạnh của trận động đất. Đây là trận động đất lớn.
Lúc sáu giờ rưỡi sáng, Maggie nói cần bà đi ngủ một lát, rồi vài giờ nữa sẽ trở lại đường phố để kiểm tra mọi thứ. Everett bảo rằng có lẽ ông sẽ đi xe bus, tàu hoả, hay máy bay để về L.A khi tình hình cho phép, hay thuê xe hơi nếu có để về. Ông đã chụp nhiều ảnh. Vì có mục đích riêng, nên ông muốn đi một vòng quanh thành phố để xem có gì cần phải chụp nữa không. Ông không muốn bỏ sót chuyện gì, ông muốn mình có được những tài liệu quí giá về trận động đất. Thực ra ông muốn ở lại thêm vài ngày nữa, nhưng ông không biết vị tổng biên tập có bằng lòng hay không. Hiện ở San Francisco và những khu vực chung quanh, điện thoại không liên lạc được với thế giới bên ngoài, cho nên ông không biết ý kiến của vị tổng biên tập ra sao.
- Tối nay tôi chụp được nhiều bức hình của bà rất đẹp,
- Everett nói khi ông chia tay xơ Mary. Bà sống trong một tòa nhà cũ kỹ, vừa xấu xí lại vừa có vẻ kỳ cục, nhưng bà không hề buồn rầu. Bà nói bà sống ở đây lâu năm rồi, bất di bất dịch. Ông ghi địa chỉ của xơ Mary và nói ông sẽ gởi ảnh đến cho bà. Ông hỏi bà số điện thoại để phòng khi ông trở lại thành phố. - Nếu khi nào tôi trở lại, tôi sẽ mời bà đi ăn tối, - ông hứa. - Tôi đã được nói chuyện với một người rất tuyệt.
- Tôi cũng vậy, - bà đáp và cười với ông. - Phải mất một thời gian dài mới dọn dẹp xong thành phố. Tôi mong sao đêm nay số người chết không nhiều quá. Bà có vẻ lo lắng. Họ không có cách gì để biết thông tin. Họ bị cách biệt với thế giới bên ngoài, không điện và cả điện thoại. Tình trạng hiện tại rất tồi tệ.
Khi ông chào tạm biệt xơ Mary thì mặt trời đã mọc, ông phân vân không biết có gặp lại được bà hay không. Có lẽ không thể gặp được. Đêm nay thật là một đêm kỳ lạ, khó quên đối với họ.
- Tạm biệt, Maggie, - ông nói khi bà đi vào nhà. Trên hành lang có nhiều mảnh hồ trên tường rơi xuống nằm ngổn ngang. Bà cười, nụ cười bình thản để đáp lại lời ông.
- Bà bảo trọng nhé.
- Ông cũng vậy, - bà đáp và vẫy tay chào ông rồi đóng cửa. Khi xơ Mary mở cửa hành lang, mùi xú uế trong nhà xộc đến mũi họ, ông không ngờ bà có thể ở một nơi như thế này. Ông vừa đi khỏi ngôi nhà, vừa nghĩ rằng bà thật là một con người thánh thiện, rồi ông cười thầm. Ông đã trải qua một đêm động đất tại San Francisco với một nữ tu. Ông nghĩ xơ Mary là người anh hùng và ông rất nôn xem ảnh của bà. Bỗng kỳ lạ thay, khi ông rời khỏi tòa nhà, ông nghĩ đến con trai, nhớ đến dáng dấp của Chad khi lên ba, và lần đầu tiên trong hai mươi bảy năm vắng mặt con, ông nhớ cậu ấy. Có lẽ một ngày nào đấy. Đó là điều ông phải nghĩ đến. Điều gì Maggie nói cũng đều ngấm vào da thịt ông, và ông phải lôi nó ra từ óc. Ông không muốn có mặc cảm tội lỗi với con. Ông để lâu quá, chuyện này sẽ không hay cho cả hai. Ông rảo bước, hai chân mang đôi giày cao cổ may mắn, đi qua những người say và những ả gái điếm trên đường phố của Maggie. Mặt trời lên cao, ông đi về phía trung tâm để xem có gì đáng chụp sau trận động đất hay không. Quả là có rất nhiều điều cần chụp. Ông nghĩ, biết đâu ngày nào đó ông sẽ được tặng thêm giải Pulitzer. Dù có nhiều biến cố đau thương trong đêm vừa rồi, nhưng ông cảm thấy thoải mái hơn những năm qua rất nhiều. Ông đã trở lại cương vị của một nhà báo, lòng cảm thấy tin tưởng và tự chủ hơn bao giờ hết.
Những Trái Tim Vàng Những Trái Tim Vàng - Danielle Steel Những Trái Tim Vàng