Mắc Kẹt epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 2
racy Crosswhite đỗ chiếc Ford F-150 trên đường Beach Drive SW, mũi hướng về phía bắc. Cô vuốt gọn mái tóc màu vàng hoe thành lọn đuôi ngựa rồi nhanh tay buộc nó lại. Dạo này cô không còn thường xuyên buộc tóc đuôi ngựa nữa. Ở cái tuổi bốn mươi ba, cô không muốn xuất hiện trong cái dáng vẻ của một người phụ nữ vẫn cố tỏ ra mình tươi tắn, trẻ trung như cô gái hai mươi ba tuổi, nhưng vào cái giờ sớm sủa thế này, cô không hề cảm thấy tươi tắn, và cũng chẳng để tâm lắm mình trông ra sao. Cô còn chưa tắm rửa và cũng chẳng buồn tô trát tí son phấn nào lên mặt.
Cô mở ứng dụng ghi chú trên điện thoại và kéo xuống ngay dưới ghi chú đầu tiên. Cô đã bắt đầu thu âm lại ngay từ lúc nhận được cuộc gọi từ Billy Williams, quản lý trực tiếp của cô ở Ban Tội phạm Bạo lực thuộc Sở Cảnh sát Seattle. Cô ấn nút ghi âm và bắt đầu nói: “Thời gian: 5:45 sáng. Đỗ xe tại đường Beach Drive SW ở gần công viên Cormorant Cove.”
Williams mới gọi chừng hai mươi phút trước. Trung tâm điều phối nhận được một cuộc gọi qua 911 thông báo về một thi thể được tìm thấy ở eo biển Puget. Hôm nay cái đầu lâu được treo ở vách ngăn bàn làm việc của Tracy. Đó là một cái đầu lâu giả mà các điều tra viên treo ở vách ngăn bàn làm việc của đội trực giải quyết án giết người, và trong vụ này thì đó chính là Tracy và cộng sự của cô, Kinsington Rowe.
Williams nói rằng ông vẫn đang thu thập thông tin, nhưng ai đó đã báo cáo lại rằng thi thể được tìm thấy ở gần công viên Cormorant Cove, cách ngôi nhà thuê của Tracy ở quận Admiral phía tây Seattle có vài dặm. Cô đã tới hiện trường sớm hơn tất thảy mọi người, chỉ trừ vài vị cảnh sát trực sẵn. Ô tô tuần tra của họ đỗ phía bên kia đường, quay mặt về hướng đối diện với xe của cô.
Tracy bước ra khỏi buồng lái. Mảnh trăng sắp tàn trên bầu trời xanh nhàn nhạt mỉm cười với cô. Nhiệt độ bên ngoài, rất dễ chịu vào lúc này, báo hiệu rằng một ngày nóng hầm hập lại sắp đến. Với sáu ngày liên tục lúc nào cũng trên ba mươi hai độ, tháng Sáu đang dần trở thành cái tháng nóng nhất được ghi nhận trong lịch sử.
Tracy ghi âm lại một ghi chú nữa. “Trời trong, không có gió.” Cô kiểm tra ứng dụng thời tiết trên điện thoại và nói tiếp: “Mười hai độ ở Tây Seattle.”
Vào buổi sáng thứ Bảy, bãi biển và những con đường đi dạo được xây cao hơn mặt cát sẽ nhanh chóng đông nghẹt người dắt chó đi dạo, đi chạy bộ và các gia đình ra ngoài tản bộ. Gặp phải một xác chết trên bãi biển sẽ khiến cho những người này cụt hứng ngay đầu kì nghỉ cuối tuần.
Cô tóm lấy chiếc mũ lưỡi trai có huy hiệu của Sở Cảnh sát Seattle, SPD, luồn cột tóc đuôi ngựa qua cái lỗ đằng sau để chỉnh lại kích cỡ và kéo sụp lưỡi của cái mũ xuống. Tiếp đến, cô thoa đều một lớp kem chống nắng chỉ số 50 SPF lên cánh tay, cổ, ngực và mặt. Hai tháng trước, trong một lần kiểm tra sức khỏe định kì, cô đã sợ hết hồn khi bác sĩ phát hiện ra một vùng da bị đổi màu ở gần xương đòn của cô. Cuộc kiểm tra với bác sĩ da liễu sau đó cho thấy đó là một vùng da bị tổn thương chứ không phải là ung thư. Đó là “niềm vui” của việc già đi: những vết chân chim, mỡ bụng dày lên, và phải thoa kem chống nắng trước khi ra khỏi nhà.
Cô lách người đi qua ba chiếc xe đen trắng, hai chiếc Sedan và một chiếc SUV đậu trước khu căn hộ phức hợp Harbor West. Được xây dựng với những cột trụ đóng sâu dưới lớp bùn, khu phức hợp này vươn mình nằm trọn vẹn trên eo biển và đưa ra một định nghĩa mới cho khái niệm “sống trên mặt nước.” Thôi, cảm ơn. Một trận động đất vừa vừa cũng có thể bẻ đôi một trong số những cột gỗ đó. Hơn nữa, nhà của cô nằm trên sườn ngọn đồi cao sáu mươi mốt mét. Và khi bạn chọn phong cảnh thay vì tính thực dụng của căn nhà, bạn sẽ chọn vị trí đó, mặc dù cảnh vật ở đây cũng tuyệt đẹp. Đảo Vashon cùng đảo Bainbridge và hòn đảo Blake nhỏ hơn tạo thành một bức nền đẹp như trong tranh, bảo chứng cho mức giá cắt cổ để thuê và sở hữu những căn chung cư dọc con đường Beach Drive SW này.
Ba cảnh sát trong bộ cảnh phục phía dưới đường đi nhìn thấy Tracy bước tới dải băng đánh dấu hiện trường. Tracy không cần cho họ xem phù hiệu. Cho dù không mặc cái áo gió và đội mũ của cảnh sát thì với hơn hai mươi năm công tác, cô cũng tự tin mình đã có được những đặc điểm và cử chỉ của một cảnh sát.
“Chị Tracy.” Một nữ cảnh sát nói.
Cô cũng là nữ điều tra viên án mạng duy nhất ở Seattle, và mới gần đây, cô đã nhận được Huy chương Quả cảm lần thứ hai nhờ vào thành tích tóm được gã giết người hàng loạt có biệt danh “Cao Bồi.” Thật lòng mà nói, cô vẫn sẽ làm cho dù không được chú ý. Cô và cộng sự, Kins, đã nghe được những lời xì xào trong trụ sở cảnh sát về chuyện họ dường như lúc nào cũng là đội sẵn sàng túc trực khi Sở cần phải tìm ra “gã nào đã gây nên chuyện.” Những lời bóng gió nói rằng sếp của họ, Johnny Nolasco, bắt họ làm nhiều vụ đến mức lố bịch. Tracy và Nolasco không hòa hợp với nhau, thậm chí mối quan hệ của họ còn thua cả những người đàn bà trong show truyền hình Những bà nội trợ ở khắp nơi.
“Katie.” Tracy nói.
Katie Pryor làm việc ở phân khu Tây Nam. Cô là một trong số rất nhiều nhân viên cảnh sát mà Tracy đã huấn luyện tập bắn để vượt qua bài kiểm tra sát hạch.
“Chị khỏe chứ?” Pryor hỏi.
“Chị cần ngủ nhiều hơn chút.” Tracy đáp. Theo bản năng, cô đã quan sát hết tổng thể khu vực. Cô chú ý thấy những khúc gỗ dạt được xếp liền nhau dẫn xuống mặt nước, và một chàng trai trẻ đứng bên cạnh chiếc xuồng đánh cá đã được kéo lên bờ. Một sợi dây thừng kéo căng dài chừng hai đến ba mét được buộc ở cuối chiếc xuồng, phần còn lại của nó được thả xuống làn nước màu xanh xám Tracy tự hỏi tại sao một chiếc thuyền đã được kéo lên bờ rồi mà lại còn phải thả neo như thế.
“Chị đoán chàng trai kia là người thông báo tìm thấy cái xác hả?”
Pryor ngoái đầu nhìn lại. “Tên cậu ta là Kurt Schill.”
Tracy đưa mắt nhìn quanh bãi biển lốn nhốn đá, xung quanh vương vãi những khúc gỗ dạt màu trắng bệch. “Cái xác đâu rồi?”
Pryor đáp: “Em sẽ đưa chị đi xem.”
Tracy nguệch ngoạc viết tên mình lên tờ giấy đăng kí rồi cúi người lách qua dải băng. Pryor đưa bảng ghi chép cho một trong hai người cảnh sát còn lại.
Tracy để ý thấy mọi người đã bắt đầu kéo đến bãi biển, liền quay lại nói với những người cảnh sát đó: “Đưa tất cả mọi người ra khỏi bãi biển, lên đường bộ trên cao kia. Nói với họ là hôm nay bãi biển sẽ đóng cửa. Và tìm kiếm xem liệu có ai nhìn thấy gì hoặc biết được gì hay không.” Cô quan sát đường Beach Drive và nhìn thấy một chiếc xe tải màu xanh và một cái xe kéo xuồng. “Sau khi đưa họ đi khỏi, hãy ghi chép lại biển số xe của tất cả các xe đỗ dọc từ đường Beach Drive cho tới đại lộ Sáu Mốt và dưới đường Spokane.” Cô biết ba con đường này giao nhau, tạo thành một tam giác lệch với đường Beach Drive SW là cạnh dài nhất. Kẻ giết người, nếu giả sử đây là một vụ mưu sát, có thể sẽ quay lại hiện trường và theo dõi đội điều tra phá án như thế nào.
Họ đi về phía mặt nước. Sau nhiều ngày nóng nực tích tụ, bờ biển có một mùi mằn mặn dễ nhận thấy. Một cảnh sát mặc cảnh phục đang cúi xuống đóng một cây cọc lên cát, có lẽ là để buộc nốt đầu còn lại của dải băng mà anh ta đang căng để tạo nên khu vực hiện trường hình chữ U.
“Bọn em nhận được tin báo từ trung tâm điều phối vào lúc năm giờ ba mươi hai phút.” Pryor nói, đôi giày của cô nghiến lạo xạo lên những hòn đá. “Khi bọn em tới nơi, cậu ta đã đứng đợi ở đây bên cạnh chiếc xuồng.”
“Em mới nói tên cậu ta là gì nhỉ?”
“Kurt Schill. Học sinh cấp ba ở Tây Seattle này.”
Tracy dừng lại để quan sát những khúc gỗ dạt được đặt nằm song song với mặt nước. “Là cậu ta làm à?”
“Em không chắc.” Pryor đáp.
“Nhìn giống cầu tàu tự chế.” Nói rồi, cô dùng điện thoại chụp lại vài bức hình.
“Cậu ta nói rằng cậu ta đang đi đánh cua và cái lồng của cậu ta đã vướng phải thứ gì đó khi cậu ta kéo nó lên.” Pryor nói.
“Một cái xác?” Tracy hỏi, nghĩ ngay tới nó.
“Một cái lồng khác.”
“Chị đã nghĩ là cậu ta tìm thấy cái xác cơ đấy.”
“Cậu ta cũng dám chắc là thế.” Pryor nói. “Bên trong cái lồng.”
Tracy chuyển ánh mắt từ Pryor sang chiếc xuồng và sợi dây thừng căng cứng nối liền với nó. Đó không phải là do mỏ neo. Trước khi đến đây, cô đã nghĩ là mình sẽ thấy một cái xác trên bờ biển, có thể là do đuối nước hoặc do tai nạn tàu thuyền, nếu vậy thì mọi chuyện coi như được giải quyết xong. Nhưng nếu cái xác nằm trong một cái lồng, điều đó sẽ làm thay đổi tất cả theo chiều hướng vô cùng kinh khủng.
“Em nhìn thấy nó chưa?”
“Cái xác á?” Pryor lắc đầu. “Nước sâu quá. Và em cũng không chắc là em muốn nhìn thấy nó. Thằng bé kia nói rằng nó nghĩ nó nhìn thấy một bàn tay chỉa lên bên dưới lũ cua và sao biển. Nhìn rất ghê rợn. Thế là nó kéo cái lồng vào bờ.”
“Một bàn tay hay là cả cái xác?” Tracy hỏi.
“Thằng bé nói nó nhìn thấy một bàn tay. Tuy nhiên dựa vào miêu tả của nó về độ nặng của cái lồng, rất có thế đó là cả một cái xác.”
Tracy lại quan sát chàng trai trẻ. Cô chỉ có thể hình dung ra nỗi sợ hãi khi nhìn thấy một cái xác đang phân hủy làm mồi cho lũ động vật biển.
Cô đi theo Pryor xuống mép nước. Những con sóng vỗ nhẹ lên những hòn đá. Anh chàng cảnh sát mới dựng đường bao xung quanh đang đứng đó, lau mồ hôi trên trán.
“Cảm ơn anh đã dựng đường bao.” Tracy nói. “Nhưng chúng ta sẽ cần mở rộng nó hơn nữa, dọc xuống dưới những khúc gỗ kia và kéo dài lên đường đi bộ trên kia. Tôi sẽ yêu cầu mang rào che tới để những người trên đường tản bộ không nhìn thấy gì dưới này, và tôi sẽ cần anh dựng nó lên chừng nào nó được mang tới. Anh chưa di chuyển hay chạm vào bất cứ thứ gì, đúng không?”
“Chưa có gì ngoại trừ vài tảng đá để đóng cọc.” Đồng nghiệp của Pryor nói.
“Đội Tuần tra Cảng thì sao? Đã có ai gọi cho họ để họ điều động thợ lặn chưa?”
“Vẫn chưa…” Pryor nói. “Bọn em nghĩ tốt nhất nên để nguyên mọi thứ để chờ người đến sắp xếp kế hoạch.”
Tracy nói với người cảnh sát thứ hai. “Gọi cho họ đi. Nói với họ là chúng ta cần họ giúp dựng rào chắn ở ngoài biển, không cho thuyền bè đi vào cho tới khi chúng ta biết rõ mình đang phải giải quyết những gì.” Rồi cô quay sang Pryor. “Khi em tới đây, thái độ của cậu nhóc lái xuồng thế nào?”
“Khá là run rẩy. Bối rối. Sợ hãi.”
“Cậu ta đã khai những gì?”
Pryor xem lại bản ghi chép. “Cậu ta nói cậu ta ra khơi lúc sáng sớm nay để kéo lồng cua mà cậu ta thả ở gần công viên Lincoln. Cậu ta nói cậu ta đã thả nó ở độ sâu chừng hai lăm mét và khi kéo nó lên, cậu ta cảm thấy nó nặng quá mức. Và khi kéo nó lên khỏi mặt nước, cậu ta nhận ra đó không phải là cái lồng mà cậu ta đã thả.”
“Không phải sao?” Tracy hỏi.
“Vâng. Rõ ràng là cậu ta đã kéo nhầm nó. Rồi cậu ta nói rằng khi kéo nó lại gần hơn, cậu ta dùng đèn pin soi và nhìn thấy thứ mà cậu ta nghĩ là một bàn tay người. Cậu ta sợ mất mật. Thế là cậu ta thả tuột cái lồng xuống, nó nặng tới nỗi suýt chút nữa làm lật úp cả cái xuồng của cậu ta. Cậu ta đã cố gắng kéo nó cho tới khi vào bờ và đáp lên đất liền. Rồi cậu ta gọi 911 bằng điện thoại của mình.”
“Chúng ta còn biết gì về cậu ta nữa?”
“Cậu ta vừa kết thúc năm học thứ hai tại trường Trung học Tây Seattle và sống trên đường Bốn Ba. Bố mẹ cậu ta đang trên đường tới đây.”
“Cậu nhóc đó đang làm gì vào lúc sáng sớm như thế?”
Pryor mỉm cười. “Điều này thì em hiểu. Cậu ta nói rằng cậu ta thả lồng sớm như thế để khỏi phải tranh giành với những thuyền lớn.”
Đoán được ý nghĩa ẩn giấu trong tông giọng của Pryor, Tracy hỏi: “Em không tin cậu ta sao?”
Pryor đáp: “Vấn đề là bây giờ vẫn chưa phải mùa đánh bắt cua, chỉ có các bộ tộc bản địa được làm vậy thôi.”
“Sao em biết?”
“Thỉnh thoảng Dale và em cũng đi bắt cua. Bọn em làm vậy chủ yếu là để đưa bọn nhóc lên tàu. Các bộ tộc bản địa gần như được đánh bắt cua bất kì lúc nào họ muốn. Đối với tất cả những người còn lại, mùa đánh bắt sẽ bắt đầu từ tuần sau, mùng Hai tháng Bảy. Em dám chắc là như thế.”
“Vậy tại sao cậu ta lại ở ngoài này?”
“Cậu ta nói cậu ta không biết quy định đó. Nhưng cá nhân em nghĩ cậu ta chỉ đang giả vờ mà thôi.”
“Tại sao?”
Pryor hất đầu về phía chiếc xuồng bằng nhôm. “Nhìn cái xuồng ngon nghẻ đằng kia kìa. Những cậu chàng với cái xuồng tốt như thế chắc chắn hiểu rất rõ về luật, phí phạt sẽ cao ngất ngưởng. Em nghĩ cậu ta đang tranh thủ đi thả câu sớm trước lúc vào mùa và câu trộm một ít từ các bộ tộc bản địa. Một vài nhà hàng quanh đây sẽ trả một món tiền béo bở. Đó cũng không phải một cách làm tồi để kiếm thêm chút tiền đối với một cậu nhóc trung học dám nghĩ dám làm như cậu ta.”
“Ngoại trừ việc như thế là phạm pháp.”
“Vâng, vấn đề là thế đấy.” Pryor nói.
“Giới thiệu chị với cậu ta đi.” Tracy nói. “Và chị sẽ rất biết ơn nếu em lấy điện thoại chụp giúp chị vài bức ảnh. Chụp tất cả, bất cứ thứ gì.”
Rồi họ cùng tiến đến chỗ Kurt Schill. Tracy để Pryor giới thiệu. Giới thiệu xong, Pryor rời đi để chụp ảnh, Schill đưa tay ra bắt tay Tracy và lắc mạnh đến mức khiến Tracy ngỡ ngàng. Nhìn cậu ta còn chưa đến tuổi cạo râu mà. Trên trán cậu ta còn lấm tấm mụn bọc.
“Cậu vẫn ổn chứ?” Tracy hỏi.
Schill gật đầu. “Vâng ạ.”
“Cậu có muốn ngồi xuống không?“ Cô chỉ tay về phía một khúc gỗ trên bờ biển.
“Không, cháu vẫn ổn.”
“Tôi biết cậu vừa mới kể lại với cảnh sát viên Pryor về những chuyện xảy ra sáng nay. Cậu có phiền không nếu tôi hỏi cậu một vài câu hỏi?”
“Có.” Schill nhắm chặt mắt và lắc đầu. “Cháu xin lỗi, ý cháu là cô cứ hỏi đi.”
“Được rồi, chúng ta sẽ làm việc từ từ thôi.” Tracy nói. “Cậu thả bẫy cua từ lúc nào?”
Hai hàng lông mày của Schill nhíu lại. “Ừm. Cháu nghĩ là lúc… Cháu cũng không nhớ chính xác nữa.”
“Cậu Schill.” Tracy đợi cho tới khi Schill nhìn vào mắt cô. “Tôi không phải là Hiệp hội Đánh bắt cá, hiểu chứ? Tôi không quan tâm đến chuyện đó. Tôi chỉ cần cậu thành thật và kể cho tôi nghe chính xác những gì cậu đã làm, có như thế tôi mới tìm ra được liệu cậu có nhìn thấy thứ gì hay không.”
“Cháu có nhìn thấy thứ gì hay không ấy ạ?”
“Nào, hãy nhớ lại một chút. Bắt đầu từ lúc cậu thả bẫy.”
“Tối qua. Khoảng mười giờ ba mươi.”
“Được rồi, vậy là tôi đoán lúc đó trời rất tối.”
Schill gật đầu. “Vâng, khá tối.”
Vào tháng Sáu ở Seattle, mặt trời chỉ lặn sau chín giờ tối, và hoàng hôn sẽ còn le lói trong vòng bốn mươi lăm phút sau đó.
“Cậu còn nhìn thấy ai khác ngoài biển không? Hay một con thuyền, con tàu nào khác?”
“Có lẽ là một hoặc hai con thuyền.”
“Cũng đi đánh cua à?”
“Không ạ, Chỉ là… ở ngoài đó. Cháu nghĩ một trong số đó có lẽ đang đi câu nhấp”
“Câu cá sao?”
“Câu cá hồi ạ.”
“Ở cùng với chỗ cậu thả lồng cua?” Tracy hỏi
“Không ạ. Cháu chỉ nhìn thấy họ thôi, cô biết mà”
“Không có gì bất thường sau đó sao?”
“Bất thường ấy ạ? Như thế nào cơ ạ?”
“Có bất cứ thứ gì khiến cậu phải chú ý, ngừng tay và nhìn lại nó thêm một lần nữa không? Có điều gì giống như thế không?”
“Ồ, không ạ. Thực sự là không.”
“Sáng nay mấy giờ cậu quay trở lại đây?”
“Khoảng bốn giờ ạ.”
“Vì sao cậu thả lồng muộn và quay trở lại sớm như vậy?” Tracy hỏi, mặc dù cô cũng đã đoán ra câu trả lời.
Schill cau mặt. “Để kéo lồng lên trước khi có ai đó nhìn thấy cháu.”
“Cậu làm việc này thường xuyên chứ?”
Vẫn là gương mặt nhăn nhó đầy ngượng ngùng. “Tuần này có vài lần”
“Tôi hỏi lại lần nữa, cậu có nhìn thấy bất cứ con thuyền nào hay thứ gì đó khiến cậu phải ngừng lại và suy nghĩ một chút không?”
Schill ngừng lại một chút trước khi trả lời. Và rồi cậu lắc đầu. “Thực sự là không có gì.”
“Cậu có thể dẫn tôi tới nơi cậu kéo được cái lồng không?”
“Bây giờ ấy ạ?” Schill hỏi, nghe có vẻ cảnh giác.
“Không, một lát nữa. Chúng ta cần đợi thợ lặn tới, và tôi muốn cậu đưa chúng tôi quay lại chỗ cậu tìm thấy cái lồng.”
“Được ạ.” Schill nói, giọng có vẻ miễn cưỡng.
“Có vấn đề gì sao?” Tracy hỏi.
“Sáng nay cháu có tiết ôn thi SAT”
“Tôi nghĩ hôm nay cậu sẽ không thể lên lớp được đâu.” Tracy nói.
“Ôi.”
“Bố mẹ cậu đang trên đường tới đây hả?”
“Bố cháu đang tới.”
“Được rồi, hãy ở đây và chờ một chút.” Tracy nói. Rồi cô bắt đầu đi về chỗ Pryor đang chụp ảnh.
Schill gọi lớn. “Điều tra viên?”
Tracy quay lại. “Sao thế?”
“Cháu không nghĩ cô ấy ở dưới đó quá lâu.”
Tracy bước lại về phía cậu học sinh. “Cậu nghĩ đó là phụ nữ à?”
“Vâng, ý cháu là, cháu không dám chắc chắn, nhưng cái bàn tay… mấy ngón tay ấy ạ nước sơn móng vẫn còn.”
Cô ghi nhận thông tin đó. “Được rồi. Còn gì khác nữa không?”
“Hết rồi ạ.”
Katie Pryor gọi tên Tracy và chỉ tay về phía đường lớn.
Chiếc xe đưa tin của kênh KRIX 8 với cái đĩa vệ tinh nhô lên từ nóc xe vừa đỗ trên đường, và Maria Vanpelt, con kền kền săn tin “yêu mến” của Ban Tội phạm Bạo lực đang bước ra từ cửa xe. Vanpelt là ngôi sao đang lên trong giới truyền thông ở khu vực này, một cô nàng tóc vàng hoe với vẻ ngoài xinh xắn, dường như có khả năng đánh hơi được những gì giật gân nhất, nhưng mới đây vừa mới bị nhận thẻ vàng cảnh cáo vì đưa tin sai lệch về gã Cao Bồi. Đã mấy tháng Tracy không gặp cô ta, nhưng sự xa cách lâu đến thế cũng chẳng khiến Tracy có thêm chút thích thú nào đối với cô ta. Ở Ban Tội phạm Bạo lực, mọi người gọi Vanpelt là “Manpelt” và suy đoán rằng cái gã mà cô nàng này đang bám vào chẳng phải ai khác ngoài sếp của họ, Johnny Nolasco.
Tracy gọi điện thoại cho Billy William. Cô bảo ông yêu cầu đội Điều tra hiện trường CSI mang thêm lều cùng với rào chắn. Họ sẽ dựng lều ở gần mép nước để làm trung tâm chỉ huy và để có thêm sự riêng tư. Cô ngờ rằng những chiếc trực thăng đưa tin cũng chẳng cách mấy chiếc xe tải này bao xa. Cô có thể yêu cầu thiết lập vùng cấm bay, nhưng nếu các kênh tin tức cho rằng câu chuyện này đáng tiền, họ sẵn sàng nộp phạt. Trong lúc lắng nghe Williams ở đầu dây bên kia, Tracy quay lại mép nước. Đôi mắt cô nhìn theo sợi dây thừng buộc vào đằng sau chiếc xuồng.
Chắc chắn không phải một vụ dễ dàng.
Đám săn tin huyên náo và đám đông người dân tới nghe ngóng tin tức đã bu kín phía trên bãi biển. Mọi người đứng chen chúc nhau dọc theo hàng rào chắn bằng kim loại, xen lẫn giữa họ là cánh phóng viên đưa tin và quay phim. Thêm một vài xe cảnh sát, hai chiếc xuồng màu xanh dương và trắng của Đội Tuần tra Cảng đang lướt dọc eo biển, giữ cho tàu thuyền ở lại ngoài vịnh, một đám người mặc đồng phục và các sĩ quan cảnh sát mặc thường phục, lại còn có một cái lều, tất cả những thứ đó quả là điều hấp dẫn khó cưỡng. Thậm chí các du khách cũng chẳng còn bận tâm nhiều tới hai trong số những điểm tham quan là biểu tượng của khu vực này - hình ảnh hùng vĩ của núi Rainier vươn cao trên đường chân trời phía nam và những bức tường trát vữa trắng ngà cùng mái ngói đỏ rực của hải đăng Mũi Alki ở phía bắc, với phông nền ngoạn mục là vịnh Elliott và đường chân trời của Seattle.
Các thợ lặn đã cố gắng tách gỡ cái đống rối rắm bên dưới chiếc xuồng của Kurt Schill, lúc này đã được kéo lên chỉ còn cách mặt nước ba mét. Chiếc lồng bắt cua của Schill, đường kính chừng sáu mươi centimet, sẽ đi theo cái xuồng và xe ô tô của cậu ta về đồn cảnh sát. CSI sẽ tiến hành xử lý để tìm dấu vân tay và ADN. Chiếc lồng lớn phía trên vẫn ở lại trong lều. Những gì chứa bên trong đó quả thực vô cùng kinh khủng.
Thi thể bên trong cái lồng là của một người phụ nữ khỏa thân. Lớp da trương phình đã đổi màu và trở nên dai như thịt của con bào ngư, nó có màu xám ngắt, nhợt nhạt, dai nhách như cao su và loang lổ những đường gân và mạch máu màu tím. Có những dấu hiệu cho thấy thi thể đã bị sinh vật biển ăn mất một phần. Đối lập hoàn toàn với cái hình ảnh kinh khiếp ấy là bộ móng tay sơn màu xanh dương tươi tắn. Nhìn chúng giống như những chiếc móng tay của một con búp bê bằng sứ, xước xát, sứt mẻ sau nhiều năm sử dụng.
Trong lều, mọi người vẫn đang tiếp tục tranh luận làm cách nào để đưa cái xác về văn phòng của cơ quan pháp y nằm trên đường Jefferson ở trung tâm thành phố Seattle. Mặc dù với cấp bậc của mình, Tracy có quyền kiểm soát tại hiện trường, nhưng cô lại không có quyền hạn gì trong việc xử lý thi thể. Đó là nhiệm vụ của pháp y và Stuart Funk, cán bộ pháp y của quận King, là người chịu trách nhiệm. Funk đã quyết định không di chuyển cái xác ra khỏi lồng để tránh nguy cơ làm hỏng bất cứ bằng chứng nào. Vấn đề là không ai dám chắc chắn liệu cái lồng có vừa với phần sau chiếc xe tải màu xanh dương của cơ quan pháp y hay không, và tất cả mọi người đều không muốn nhét cái lồng ấy vào xe trước mặt một đám đông đang đứng hóng tin. Funk yêu cầu một người nào đó đi tìm thước dây.
Tracy đợi bên ngoài chiếc lều cùng với Kins, Billy Williams và Vic Fazio cùng với Delmo Castigliano, hai thành viên còn lại của đội A thuộc Ban Tội phạm Bạo lực, chuyên phụ trách những công việc phụ trợ trong quá trình điều tra những vụ án giết người. Mặc quần âu, khoác áo vest và đi giày tây, nhìn Faz và Del giống như mấy tên sát thủ ở New Jersey đang cố trà trộn vào đám đông trên bãi biển Cocoa nhưng không thành công. Cơ quan công tố quận King đã điều Rick Cerrabone, công tố viên cấp cao của Chương trình Phòng chống Tội phạm Tối nguy hiểm tới. Tracy đã làm việc với Cerrabone trong vài vụ án mạng, mặc dù đối với những hiện trường án mạng hoàn toàn mới mẻ, phi truyền thống như thế này, Cerrabone chẳng có mấy việc để làm. Bằng chứng có thể sẽ rất hạn chế. Nước biển có thể đã phá hủy dấu vân tay và ADN có trong chiếc lồng, và bởi vì chiếc lồng đã bị nhấn chìm xuống lòng biển tới hai mươi lăm mét nên việc lùng sục bãi biển để tìm chứng cứ sẽ là vô ích.
“Thậm chí chúng ta còn chẳng biết một chiếc thuyền sẽ cập cảng tại điểm nào.” Tracy giải thích với những người còn lại. “Dọc phía bên này của bờ biển có một vài bến dốc để cập cảng, và gần điểm này nhất là bến Don Armeni. Đấy là giả sử nếu chúng sử dụng bến dốc. Nhưng cậu Schill thì không.”
“Chúng có thể cập bến ở bất cứ đâu, từ đảo San Juan cho tới Olympia.” Faz nói. Với giọng nói đậm chất New Jersey, từng từ nói ra như muốn cào rát cổ họng ông. Thi thoảng ông lại dùng khăn tay lau trán và gáy.
“Tôi không nghĩ vậy.” Tracy nói. “Đáng lẽ ra chúng có thể vứt cái xác ở vùng nước sâu hơn, xa bờ hơn nữa. Tôi nghi ngờ cái xác bị vứt ở đây là bởi điều đó thuận tiện hơn, kẻ giết người biết rõ khu vực này, hoặc là bởi hắn không muốn đi xa.”
“Cái xác bị vứt xuống đó lúc nào, cô có phán đoán được gì không?”
“Nhận định ban đầu của Funk là cái xác đã bị vứt xuống đó nhiều nhất là vài ngày, hai bàn tay bị phù tương đối nhẹ và các lớp da bên ngoài vẫn còn nguyên vẹn.”
“Có vẻ như chúng ta vẫn sẽ phải mò kim đáy bể.” Faz nói.
“Có lẽ thế” Del đáp. “Nhưng tôi dám cá chẳng phải vô tình mà thằng nhóc lại mắc phải cái lồng.”
“Anh nghĩ thằng bé không vô tình mắc phải nó sao?” Tracy nói.
“Tôi chỉ nói là việc đó tình cờ đến mức khó tin.” Del nói.
“Tôi cá là bây giờ thằng bé sẽ chẳng dám ăn cua nữa đâu.” Faz nói.
Tracy nhìn quanh để đảm bảo rằng không có viên cảnh sát tuần tra nào ở quanh. Với quy định mới, cảnh sát được yêu cầu phải mang theo camera gắn trên người. Điều đó có nghĩa là tất cả mọi người sẽ phải thận trọng hơn với những gì họ nói và với những biểu cảm trên mặt họ. Việc các điều tra viên cười đùa tại hiện trường có thể dễ dàng bị dư luận hiểu sai. Công chúng chẳng hiểu được rằng những trò vui đùa có thể khiến họ mất việc ấy nhiều khi chính là cơ chế phản vệ mà họ sử dụng để không bỏ ngang công việc của họ. Điện thoại di động khiến cho việc soi mói hạnh kiểm của cảnh sát trở nên tệ hơn. Giờ đây, ai ai cũng là một nhà quay phim không chuyên.
Williams chỉ tay về phía hai tòa nhà gần lối vào bãi biển nhất. “Hãy đi dò hỏi cư dân các tòa nhà và các bến tàu xung quanh đây xem. Biết đâu có ai đó đã nhìn thấy điều gì.”
“Sẽ dễ hơn nhiều nếu chúng ta có được một bức ảnh rõ ràng của nạn nhân.” Faz nói. “Hỏi xem liệu có ai nhận ra cô ta không.”
“Chúng ta đang cầm đèn chạy trước ô tô đấy hả?” Kins hỏi.
“Biết đâu chúng ta lại gặp may và dấu vân tay của cô ta có trong dữ liệu quản lý. Có thể cô ta là gái mại dâm hay dân hút chích thì sao?”
“Nếu cô ta là gái mại dâm hay dân nghiện ma túy, có lẽ gã giết người đã chẳng phải đi xa đến thế để phi tang cái xác.” Tracy nói.
“Ừm, nếu cô ta không phải gái mại dâm hay dân nghiện ngập, có lẽ sẽ có ai đó tới trình báo mất tích.” Kins nói.
“Bọn giết người ở quê tôi thường làm thế này” Faz nói. “Một phát vào sau gáy, và mời anh đi ngủ với cá.”
“Có thể anh nói đúng.” Kins nói. Anh quay sang Williams. “Tôi chỉ muốn nói rằng chúng ta có thể bớt đi một bước.”
Williams lắc đầu. “Chúng ta sẽ đi hỏi thăm ngay bây giờ, khi mọi thứ vẫn còn đang nóng hổi. Thêm nữa, nếu cô ta bị bắn, điều đó có nghĩa là vẫn còn một hiện trường khác ở đâu đó”
“Điều đó có lẽ cũng “dễ tìm ra” giống như việc xác định được thuyền cập bến ở đâu vậy.” Kins nói.
Funk bước ra khỏi lều. Sau khi thay đổi kiểu tóc một chút, nhìn ông bớt giống một vị giáo sư nhớ trước quên sau hơn. Cái đầu mới cắt giúp cho mái tóc bạc gọn gàng hơn chứ không còn rối tung như thể không bao giờ chải, và cặp kính râm mà ông đang đeo nhìn cũng thời trang hơn cặp kính gọng bạc cũ vốn quá to so với cái đầu bé nhỏ của ông.
“Chúng ta có thể cho chiếc lồng vào trong xe. Tôi sẽ đưa nó về văn phòng.” Ông nói. “Nhưng không phải là hôm nay.”
“Có hình xăm hay chỗ nào bị xước xát không?” Tracy hỏi.
“Ban đầu thì chưa thấy gì.” Funk nói.
“Thế còn đặc điểm nhận dạng?” Kins hỏi.
Funk lắc đầu. “Cũng chưa biết nữa.”
“Theo ước tính, cô ta đã ở dưới đó bao lâu rồi, thưa bác sĩ.” Faz hỏi.
“Hai hoặc ba ngày.” Funk nói. “Không hơn.”
“Tôi muốn cái lồng cua được giữ càng nguyên vẹn càng tốt.” Tracy nói. “Có thể trong đó có chứa thứ gì gợi ý cho chúng ta biết nó từ đâu tới.”
“Tôi sẽ cố hết sức.” Funk nói.
“Hãy gọi cho chúng tôi khi ông bắt đầu làm việc với cô ấy.” Tracy nói.
Khi Funk rời đi, Williams quay sang nói với Del và Faz. “Bắt đầu đi dò hỏi các khu nhà thôi.” Tracy và Kins sẽ đi cùng với đội Tuần tra Cảng tới nơi Schill tìm thấy cái lồng. “Chúng ta sẽ gặp lại nhau ở khu trung tâm vào chiều nay.”
Trong lúc Tracy và Kins đi tới chiếc thuyền đang chờ, Kins nói: “Cô có kem chống nắng không?” Tracy đưa cho anh tuýp kem. Anh bóp kem vào lòng bàn tay và thoa lên sau gáy. “Tôi đang hình dung chiều thứ Bảy này sẽ trôi qua với những thứ còn tồi tệ hơn.”
“Cô gái vô danh kia còn chẳng có cơ hội mà tận hưởng một ngày thứ Bảy.” Tracy nói.
Phần còn lại của buổi chiều được Tracy và Kins dành để thiêu đốt mình dưới nắng. Nhiệt độ đã đạt tới ba mươi hai độ, nhưng ở trên biển còn có cảm giác nóng hơn khi không có lấy một gợn gió thổi. Khi Schill đưa họ tới “ổ cua”, một vài vấn đề nhanh chóng xuất hiện. Do con nước lớn và sợi dây thừng dài hơn hai mươi tư mét, Schill không thể chỉ ra chính xác cậu kéo phải cái lồng kia ở chỗ nào, thậm chí cũng không thể xác định được chính xác cái lồng của cậu đã được thả xuống ở chỗ nào trong eo biển này. Điều đó khiến cho phạm vi tìm kiếm được mở rộng hơn rất nhiều. Ở độ sâu như thế cũng rất tối khiến cho tầm nhìn bị giới hạn chỉ còn dưới vài mét. Các thợ lặn đã phải lùng sục cả một khu vực lớn nơi họ tưởng là đã đúng chỗ nhưng chẳng tìm được bất kì một khẩu súng hay thứ gì khác có vẻ có liên quan tới người phụ nữ ở trong bẫy cua. Điều đó chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Tên giết người rõ ràng đã có chủ đích không để cho ai tìm thấy cái xác.
Sau khi lên bờ, Tracy muốn lái xe về nhà ngay để nhảy vào buồng tắm và xả nước lạnh, nhưng việc đó đành phải để sau. Cô và Kins phải quay trở lại trụ sở cảnh sát ở khu trung tâm thành phố để gặp Faz, Del và Billy Williams trong phòng họp.
Faz báo cáo lại cuộc tiếp xúc đầu tiên của họ với cư dân ở các tòa chung cư và khu căn hộ cũng như ở bến tàu. Họ cũng không thu được gì hữu ích.
“Sẽ tốt hơn nếu chúng ta có ảnh của cô ta.” Faz nhắc lại một lần nữa.
Tracy đã gọi cho Funk khi cô rời khỏi con thuyền. Văn phòng của ông đã đưa được cô gái ra khỏi lồng, nhưng ông nói rằng có lẽ bức ảnh chụp khi mổ tử thi không khả dụng cho lắm. Có thể sẽ cần tới một họa sĩ phác họa để vẽ thêm vào những chỗ đã bị sinh vật biển ăn mất. Còn bây giờ, nếu Faz và Del lấy bức ảnh mổ tử thi của cô ta để đưa cho những người sống ở các tòa nhà và khu vực bến tàu, họ sẽ chỉ nhận được rất nhiều bãi nôn mà thôi…
Mắc Kẹt Mắc Kẹt - Robert Dugoni Mắc Kẹt