Chân Dung Một Người Vô Hình
rong hành trình tìm kiếm sự thật, hãy sẵn sàng với những điều không ngờ tới, vì sự thật rất khó tìm và khi đã tìm ra bạn cũng sẽ thấy thật khó hiểu. - HERACLITUS
Mới ngày nào còn sống đó. Một người, giả dụ đang ở đỉnh cao sức khỏe, thậm chí chưa già, chẳng có tiền sử bệnh tật gì. Mọi thứ vẫn như xưa, như lúc nào cũng vậy. Ông ta sống từ ngày này sang ngày khác, lo việc của mình, mơ về cuộc đời đang trải ra trước mắt. Thế rồi, đùng một cái, cái chết đến. Ông thở nhẹ một hơi, sụp xuống ghế của mình, và thế là chết. Sự đột ngột của cái chết chẳng để chỗ trống cho suy nghĩ, chẳng cho tâm trí cơ hội tìm kiếm từ ngữ nào để an ủi mình. Ta chẳng còn gì ngoài cái chết, một thực tế không thể thay đổi được trong sự vĩnh cửu của chính ta. Chúng ta cam chịu chấp nhận cái chết sau một quãng thời gian bệnh tật kéo dài. Thậm chí cái chết vì tai nạn cũng được cho là bởi số phận. Nhưng một người đàn ông chết mà chẳng rõ nguyên nhân, một người đàn ông chết chỉ vì ông ta là người, đưa ta đến thật gần với ranh giới vô hình giữa sống và chết mà ta chẳng còn biết mình đang ở bên nào. Sự sống trở thành cái chết, như thể cái chết đã luôn sở hữu sự sống ngay từ đầu. Chết không cảnh báo. Như thể có khẩu lệnh: Đời dừng. Và nó dừng bất cứ khi nào.
Tin về cái chết của cha đến với tôi ba tuần trước. Đó là một buổi sáng Chủ nhật, tôi đang trong bếp chuẩn bị bữa sáng cho cậu con trai nhỏ, Daniel. Trên lầu, vợ tôi vẫn ngủ, ấm áp dưới lớp chăn, tận hưởng thêm mấy tiếng ngủ nướng. Mùa đông ở vùng nông thôn: một thế giới im lặng, mùi khói gỗ, màu trắng. Tâm trí tôi đang ngổn ngang suy tư về đoạn mình vừa viết đêm qua, chỉ mong chờ đến chiều để quay lại với công việc. Rồi điện thoại đổ chuông. Tôi biết ngay là có sự không lành. Không ai gọi điện đến vào lúc tám giờ sáng Chủ nhật nếu không phải vì một tin tức không thể chờ đợi. Và tin mà không thể đợi thì lúc nào cũng là tin dữ.
Tôi không thể tập trung vào một ý nghĩ ra hồn nào.
Thậm chí trước khi đóng gói đồ đạc và khởi hành chuyến xe dài ba tiếng tới New Jersey, tôi biết mình phải viết về cha. Tôi chẳng có kế hoạch, chẳng có ý tưởng trước nào về chuyện này. Tôi thậm chí còn không thể nhớ mình đã quyết định thực hiện nó nữa. Nó cứ ở đó, là điều hiển nhiên, một nhiệm vụ choán lấy tôi từ khoảnh khắc tôi nhận được tin. Tôi nghĩ: Cha đi rồi. Nếu tôi không hành động nhanh lên, toàn bộ cuộc đời cha sẽ biến mất cùng ông.
Giờ nhìn lại chuyện ấy, thậm chí chỉ sau vỏn vẹn ba tuần lễ, tôi đã thấy đó là một cách phản ứng thật kỳ quặc. Tôi đã luôn tưởng tượng rằng cái chết sẽ khiến mình đờ ra, bất động trong nỗi đau đớn. Nhưng giờ chuyện đã xảy ra như vậy, tôi không rỏ giọt nước mắt nào, tôi không cảm thấy thế giới quanh mình đổ sụp. Theo một lối lạ lùng, tôi như đã chuẩn bị kỹ một cách đáng kinh ngạc cho cái chết này, bất chấp sự đột ngột. Điều khiến tôi phiền lòng là chuyện khác, không liên quan đến cái chết hay phản ứng của tôi trước chuyện ấy: đó chính là việc nhận ra cha mình chẳng để lại dấu vết nào.
Cha không có vợ, không gia đình ràng buộc, không đời ai phải xáo trộn khi ông ra đi. Một thoáng kinh ngạc, có thể, với mấy người bạn nhăn nheo, khóc sùi sụt vì lo sợ về một cái chết bất thường cũng nhiều bằng vì nỗi mất đi một người bạn, tiếp sau đó là một quãng nức nở ngắn, và rồi hết chuyện. Cuối cùng, cứ như thể cha chưa từng sống trên đời.
Thậm chí trước khi chết cha đã luôn vắng mặt, và từ lâu rồi những người gần gũi nhất với ông cũng đã học được cách chấp nhận sự vắng mặt ấy, coi đó là một giá trị cơ bản trong sự tồn tại của ông. Giờ ông đã đi, chuyện tiêu hóa được sự thật rằng ông ra đi mãi mãi cũng chẳng có gì khó khăn với thế giới. Thuộc tính tự nhiên trong cuộc sống của ông giúp thế giới chuẩn bị sẵn cho cái chết của ông – kiểu chết đã được dự báo – và nếu có lúc ông được nhớ đến, thì cũng chỉ theo cách nhòa nhạt, chỉ nhòa nhạt thế thôi.
Chẳng có chút đam mê, dù là với một đồ vật, một con người, hay một lý tưởng, không thể hoặc không muốn để lộ bản thân ra trong mọi tình huống, cha đã cố gắng giữ mình thật xa khỏi đời sống, để tránh phải dính dáng đến sự nhốn nháo của mọi điều. Ông ăn, đi làm, có bạn bè, chơi quần vợt, và với tất cả những thứ đó ông cũng chẳng có mặt. Theo nghĩa sâu xa, bất di bất dịch nhất, ông là một kẻ vô hình. Vô hình với những người khác, và hầu như cũng vô hình với chính mình. Nếu, khi cha còn sống, tôi đã phải liên tục đi tìm ông, tìm người cha vắng mặt, thì giờ khi ông đã chết, tôi cảm thấy như mình vẫn phải tiếp tục đi tìm. Cái chết không thay đổi gì cả. Sự khác biệt duy nhất là hiện giờ thời gian của tôi đã cạn.
***
Trong suốt mười lăm năm, cha đã sống một mình. Lầm lì, mờ đục, như đã miễn nhiễm với thế giới. Ông không giống một con người chiếm chỗ trong không gian, mà như một khối không gian hình người không thể xuyên qua. Mọi điều nảy bật khỏi ông, vỡ tan khi đập vào ông, cũng có lúc chúng dính được vào ông – nhưng chúng không bao giờ xuyên qua nổi. Suốt mười lăm năm, ông ở lì trong tòa nhà khổng lồ, chỉ một thân một mình, và trong chính ngôi nhà đó ông đã chết.
Trong một quãng thời gian ngắn, cả gia đình chúng tôi đã sống ở đó – cha, mẹ, em gái và tôi. Sau khi cha mẹ tôi ly dị, mọi người ly tán hết: mẹ tôi bắt đầu cuộc sống mới, tôi đi học đại học và em gái tôi ở cùng mẹ cho đến lượt nó cũng đi học. Chỉ cha tôi ở lại. Bởi một điều khoản trong thỏa thuận ly hôn chỉ ra rằng mẹ tôi vẫn sở hữu một phần ngôi nhà và được chia nửa số tiền nếu nhà được bán (điều khiến cha không muốn bán), hoặc vì muốn thầm lặng từ chối sự thay đổi (như thể chỉ ra cho thiên hạ thấy vụ ly dị chẳng hề tác động lên ông theo cách mà ông không kiểm soát được), hoặc đơn giản là vì thói trì trệ, một cơn mê xúc cảm khiến ông chẳng muốn làm bất cứ điều gì, ông cứ ở đó, sống một mình trong ngôi nhà đủ tiện nghi cho sáu, bảy người.
Đó là một tòa nhà ấn tượng: cổ kính, kiên cố, theo phong cách Tudor, với cửa sổ khung chì, mái lợp đá phiến và những căn phòng thuộc tầm vương giả. Việc mua tòa nhà là một bước đi lớn với cha mẹ tôi, là dấu hiệu của việc giàu lên. Đây là khu tốt nhất trong thành phố, và dù không hẳn là một chốn dễ chịu để sinh sống (nhất là cho trẻ con), vẻ đồ sộ đã át đi sự trầm uất của nó. Sự thật là cha đã cuộn mình thật kỹ ở tòa nhà ấy trong toàn bộ phần còn lại của cuộc đời quả là một chuyện mỉa mai vì thoạt đầu ông khăng khăng không chịu chuyển đến đó. Ông than phiền về giá cả (một chủ đề bàn đi nói lại), và khi cuối cùng ông đồng ý, thì đó cũng là một chuyện bi hài kịch. Mặc dù vậy, ông trả bằng tiền mặt. Toàn bộ trong một lần. Không thế nợ, không trả góp hàng tháng. Đó là năm 1959, thời ông còn làm ăn phát đạt.
Lúc nào cũng là người hành động theo thói quen, cha đi làm từ sáng sớm, miệt mài cả ngày, và rồi, khi trở về nhà (vào những ngày cha không về muộn), cha đánh một giấc ngắn trước bữa tối. Một lần trong tuần đầu tiên chúng tôi ở nhà mới, trước khi chúng tôi thực sự chuyển hết đồ đạc vào, cha đã phạm phải một sai lầm ngớ ngẩn. Thay vì lái xe về nhà mới sau ngày làm việc, cha đi thẳng về tòa nhà cũ, như vẫn làm suốt nhiều năm, đậu xe vào lối, đi vào nhà qua lối cửa hậu, bước lên cầu thang, vào phòng ngủ, nằm ra giường và ngủ luôn. Cha ngủ chừng một giờ đồng hồ. Chẳng cần phải bàn, khi nữ chủ nhân của ngôi nhà trở về và thấy một gã đàn ông lạ ngủ trên giường, bà ta đã có chút kinh ngạc. Thế nhưng không như nhân vật Goldilocks, cha tôi không nhảy bật dậy và bỏ chạy. Vụ nhầm lẫn cuối cùng đã được giải thích, và tất cả mọi người được một bữa cười ra trò. Thậm chí giờ đây, chuyện ấy vẫn làm tôi cười. Và nữa, với tất cả những chi tiết ấy, tôi không thể không nhắc đến nó như một câu chuyện đáng thương tội nghiệp. Việc người đàn ông nhầm lẫn lái xe thẳng về ngôi nhà cũ chỉ là một chuyện nhỏ, nhưng tôi thấy cái đáng kinh ngạc là ông không hề nhận ra mọi thứ trong nhà đã thay đổi. Thậm chí một tâm trí mệt mỏi và mông lung nhất cũng phải có một góc phản ứng thuần chất động vật, và có thể báo hiệu cho cơ thể biết nó đang ở đâu. Chỉ có kẻ nào gần như bị hôn mê mới không thấy, hoặc ít nhất, không cảm thấy, rằng ngôi nhà không còn như xưa nữa. “Thói quen,” như một nhân vật của Beckett từng nói, “là một kẻ u mê.” Và nếu tâm trí không còn có thể phản ứng với những dấu hiệu vật chất, thì nó sẽ thế nào khi đối mặt với những dấu hiệu của tinh thần?
* * *
Trong suốt mười lăm năm qua cha hầu như chẳng thay đổi thứ gì trong tòa nhà. Cha không lắp đặt thêm món nội thất nào, cũng chẳng lấy bớt ra món nội thất nào. Các bức tường vẫn có nguyên màu ấy, nồi niêu xoong chảo không hề được thay thế, thậm chí cả váy vóc của mẹ tôi cũng chẳng bị vứt đi – chỉ bị nhét vào trong ngăn kéo tầng áp mái. Kích cỡ của tòa nhà đã bào chữa cho việc cha không đưa ra quyết định gì về những thứ nó chứa. Không phải là vì cha bám lấy quá khứ, cố gắng bảo quản tòa nhà như một bảo tàng. Trái lại, cha dường như chẳng hề biết mình đang làm gì. Sự trì trệ phủ trùm lấy ông, không phải ký ức, và cho dù cha đã sống ở ngôi nhà đó suốt từng đó năm, ông cũng chỉ sống như một kẻ xa lạ ghé qua mà thôi. Mỗi năm trôi qua, cha ngày càng dành ít thời gian ở đó. Cha hầu như chỉ ăn ở các nhà hàng, sắp xếp lịch làm việc sao cho đêm nào cũng bận, và sử dụng tòa nhà còn ít hơn cả một nơi để ngủ. Một lần nọ, nhiều năm trước, tôi tình cờ nhắc đến chuyện đã kiếm được bao nhiêu tiền từ việc viết lách và dịch dọt trong những năm vừa qua (cũng chẳng nhiều nhặn cho lắm theo bất cứ tiêu chuẩn nào, nhưng nhiều hơn mức tôi đã kiếm ra trước đó), và lời đáp mỉa mai của cha là ông còn tốn nhiều hơn thế cho việc đi ăn ngoài. Điểm chính là: cuộc đời cha không quanh quẩn ở nơi cha sống. Nhà chỉ là một trong nhiều chốn cha ghé qua trong chuỗi tồn tại không thả neo, không ngừng nghỉ của ông, và việc thiếu đi một trọng tâm đã đẩy tới việc cha bị biến thành một kẻ ngoài cuộc vĩnh viễn, một vị khách trong chính cuộc đời mình. Bạn không bao giờ có thể cảm nhận được rằng cha đang dừng ở đâu.
Tuy vậy, ngôi nhà vẫn quan trọng với tôi, nếu chỉ giới hạn trong việc nó đã bị bỏ mặc – một biểu hiện cho thấy trạng thái tinh thần đã, thêm một điều khó hiểu khác, tự động vẽ ra các hình ảnh cụ thể trong sự vô thức. Ngôi nhà trở thành ẩn dụ cho cuộc đời cha tôi, là sự phơi bày chính xác và trung thành cho thế giới nội tâm của ông. Cho dù cha đã giữ cho ngôi nhà sạch sẽ và bảo quản nó y như cũ thì dù ít dù nhiều, nó vẫn trải qua một quá trình phân rã chầm chậm không tránh khỏi. Cha ngăn nắp, cha luôn đặt mọi thứ vào chỗ cần để, nhưng chẳng có gì được chăm sóc tới, chẳng có gì được dọn rửa. Nội thất, đặc biệt là trong những căn phòng cha hiếm khi ghé qua, phủ đầy bụi, mạng nhện, dấu hiệu của việc bị quên lãng hoàn toàn; lò nướng không thể cứu vãn bởi cặn của những thứ thức ăn đã cháy thành than; trong tủ chén, đôi khi mòn mỏi trên những chiếc kệ suốt nhiều năm là: những túi bột đã bị mọt ăn, bánh quy đã mốc, từng túi đường đã vón cục, những hũ xi-rô không còn có thể mở nắp. Mỗi khi tự nấu nướng, cha sẽ cần mẫn và ngay tức thì rửa chén bát – nhưng chỉ xoa xoa chúng, chẳng bao giờ dùng đến xà phòng, thế nên từng chiếc cốc, từng chiếc tách, từng chiếc đĩa đều đóng một lớp màng nhớp nhúa. Suốt cả tòa nhà, những chiếc mành cửa lúc nào cũng đóng kín đã đi đến nông nỗi chỉ việc kéo nhẹ thôi cũng khiến chúng rách toạc. Ống nước rò rỉ và làm gỉ ố hết cả đồ đạc, lò sưởi không bao giờ tạo đủ hơi ấm, vòi hoa sen không hoạt động. Tòa nhà trở nên tiều tụy và trầm uất khiến chẳng ai muốn bước vào. Bạn có cảm giác như mình vừa bước vào nhà của một kẻ mù lòa.
Bạn bè và gia đình cha, cảm nhận được sự điên rồ trong cách ông sinh sống tại tòa nhà đó, liên tục thúc giục ông bán nhà chuyển đi nơi khác. Thế nhưng ông luôn tìm cách gạt phắt họ đi với thái độ lập lờ “Ở đây tôi thấy hạnh phúc,” hoặc “Ngôi nhà hợp với tôi.” Tuy nhiên, cuối cùng thì cha cũng chịu đi. Vào đúng phút cuối. Trong cuộc trò chuyện qua điện thoại cuối cùng mà chúng tôi có, mười ngày trước khi cha qua đời, ông nói nhà đã được bán và việc chuyển đi sẽ diễn ra vào ngày mùng một tháng Hai, còn khoảng ba tuần nữa. Cha muốn biết tôi có sử dụng được món nào trong nhà không, và tôi đồng ý sẽ ghé qua cùng vợ và Daniel ngay khi có một ngày rỗi rãi. Cha mất trước khi chúng tôi có cơ hội làm điều đó.
* * *
Tôi đã hiểu được rằng chẳng có gì khủng khiếp hơn việc phải đối mặt với đồ đạc của một người đã chết. Đã thành sự bất biến: chúng chỉ có ý nghĩa trong cuộc đời đã dùng tới chúng. Khi cuộc đời đó hết, mọi điều thay đổi, cho dù chúng vẫn y như cũ. Chúng ở đó mà cũng không ở đó: những bóng ma hữu hình, bị mắc kẹt lại trong thế giới mà chúng chẳng còn thuộc về. Thứ để lo đến, chẳng hạn, là một tủ đầy quần áo lặng lẽ chờ người đàn ông sẽ chẳng bao giờ mở cửa trở về mặc lại chúng ư? Hay một trong những gói bao cao su nằm chen giữa những ngăn kéo đầy ắp đồ lót và tất vớ? Hay một chiếc máy cạo râu chạy điện nằm trong phòng tắm, vẫn còn ken đầy vụn râu từ lần cạo cuối cùng? Hay cả tá lọ nhuộm tóc rỗng được giấu kín trong những chiếc va-li du lịch? – đột nhiên phơi bày ra những thứ người ta không mong muốn nhìn thấy, không mong muốn được biết. Có chút xót xa trong đó, và có cả chút gì đó rùng rợn. Tự thân chúng chẳng có ý nghĩa gì, như mấy thứ dụng cụ nấu ăn từ một nền văn minh đã biến mất. Nhưng chúng cũng nói lên điều gì đó với chúng ta, sờ sờ ở kia không phải là những đồ vật mà là những mảnh sót lại của ý nghĩ, của ý thức, tượng trưng cho sự trơ trọi của một người đàn ông đã tự đưa ra quyết định cho bản thân: hoặc là nhuộm tóc, hoặc là mặc chiếc áo kia, hoặc là sống, hoặc là chết. Và sự phù phiếm của tất cả những thứ từng ở đó là cái chết.
Mỗi khi tôi mở một ngăn kéo hoặc cụng đầu vào một chiếc tủ, tôi lại thấy mình như kẻ đột nhập, như tên trộm đang xới tung những góc bí mật trong tâm trí một con người. Tôi cứ mong cha mình bước vào, nhìn chằm chằm vào tôi với vẻ không tin nổi, và hỏi tôi nghĩ mình đang làm cái quái gì vậy. Việc cha không thể phản đối dường như không công bằng lắm. Tôi không có quyền xâm nhập vào chốn riêng tư của ông.
Một số điện thoại được ghi vội vàng nguệch ngoạc trên một tấm danh thiếp có ghi chú rằng: H. Limeburg - Thùng rác các loại. Những tấm ảnh chụp cha mẹ trong tuần trăng mật ở thác Niagara, năm 1946: mẹ căng thẳng ngồi trên lưng con bò để chụp những tấm ảnh hài hước chẳng bao giờ gây buồn cười, và một cảnh bất chợt phi thực về thế giới, thậm chí từ thời tiền sử. Một tủ đầy búa, đinh, và hơn hai chục cái tua-vít. Một giá chất đầy những tấm séc đã bị hủy bỏ từ năm 1953 và những tấm thiệp tôi nhận được hồi sinh nhật sáu tuổi. Và rồi, bị vùi dưới đáy chiếc ngăn kéo trong phòng tắm: chiếc bàn chải đơn sắc từng thuộc về mẹ và chưa hề được chạm hay ngó ngàng đến trong suốt mười lăm năm.
Danh sách ấy dài dằng dặc.
* * *
Chẳng mấy chốc mọi sự đã nói rõ với tôi rằng cha hầu như chẳng chuẩn bị gì cho việc chuyển nhà. Dấu hiệu duy nhất của việc buộc phải chuyển đi mà tôi có thể tìm thấy trong cả tòa nhà là một vài thùng sách – toàn sách vớ vẩn (bản đồ đã lỗi thời, sách giới thiệu các món đồ điện từ năm mươi năm trước, một cuốn ngữ pháp Latin cho học sinh trung học, sách luật cổ đại) mà cha định đem quyên góp. Ngoài ra thì chẳng còn gì nữa. Chẳng có chiếc hộp trống nào chờ được xếp đầy. Không mảnh nội thất nào được bán hay cho. Không có lời bàn bạc nào với công ty chuyển nhà. Như thể cha không tài nào đối mặt với chuyện ấy. Thay vì dọn trống tòa nhà, cha chỉ đơn giản thả cho mình chết. Cái chết là một lối thoát, lối thoát hợp lẽ duy nhất.
Tuy nhiên, chẳng có lối thoát nào cho tôi. Mọi việc phải dàn xếp cho xong, không ai lo việc đó hộ cả. Trong mười ngày tôi đảo qua đồ đạc của cha, dọn sạch đồ khỏi tòa nhà, chuẩn bị chỗ sẵn sàng cho chủ mới. Đó là quãng thời gian khốn khổ, nhưng cũng là một quãng thời gian hài hước một cách kỳ quặc, quãng thời gian của những quyết định liều lĩnh và lố bịch: bán đi, quẳng ra, cho luôn. Vợ tôi và tôi mua một máng trượt lớn bằng gỗ cho bé Daniel mười tám tháng tuổi và đặt giữa phòng khách. Thằng bé phát rồ lên trong sự hỗn loạn: lục lọi giữa đống đồ, đội chụp đèn lên đầu, quăng phỉnh đánh bạc ra khắp nhà, chạy nhảy qua khoảng không mênh mông của những căn phòng cuối cùng cũng được dọn trống. Hàng đêm tôi và vợ nằm dưới những cái chăn cứng như đá tảng xem mấy bộ phim dấm dớ trên truyền hình. Cho đến khi, ngay cả ti-vi, cũng được đem cho nốt. Máy sưởi gặp vấn đề lớn và nếu tôi quên không đổ nước vào thì nó sẽ tự tắt. Một buổi sáng chúng tôi tỉnh dậy và nhận ra nhiệt độ trong nhà giảm xuống chỉ còn bốn độ. Chuông điện thoại đổ hai chục lần mỗi ngày, và cũng hai chục lần tôi phải nói cho ai đó nghe rằng cha tôi đã chết. Tôi nghiễm nhiên trở thành tay buôn nội thất, thợ vận chuyển, người báo tin dữ.
* * *
Tòa nhà bắt đầu biến hình thành sân khấu cho một vở hài kịch nhàm chán về thói đời. Họ hàng chạy vù vào, hỏi xin món đồ này, bộ đồ bếp kia, thử áo vét của cha, lục tung thùng hộp, bàn bạc om sòm như bầy ngỗng. Hội bán đấu giá đến định giá các món hàng (“Chẳng có gì được phủ bọc, chẳng đáng một xu nữa rồi”), hỉnh mũi lên, và bước ra. Đám dọn dẹp rầm rập tiến vào trong đôi ủng nặng nề và lôi đi cả núi rác. Ông quản lý nước đến đọc đồng hồ nước, ông quản lý ga đến đọc đồng hồ ga, ông quản lý dầu đến đọc máy đo dầu. (Một trong số họ, tôi quên mất là ai rồi, kẻ đã bị cha tôi gây ra khối phiền hà rắc rối suốt nhiều năm, nói với tôi trong bộ dạng đồng lõa trắng trợn, “Tôi không thích phải nói điều này” – nghĩa là ông ta thích – “nhưng cha anh là một lão khốn kiếp đáng ghê tởm.”) Người môi giới nhà đất đến để mua lại vài món nội thất cho chủ mới và rốt cuộc thì lấy được một cái gương cho bản thân. Một bà chủ tiệm đồ cổ mua lại mấy chiếc mũ cũ của mẹ tôi. Một gã đồng nát đến với đội tay sai (bốn người da đen tên là Luther, Ulysses, Tommy Pride, và Joe Sapp) và chất lên xe đẩy tất cả mọi thứ từ bộ tạ thể hình cho đến cái lò nướng bánh mì hỏng. Khi đã xếp đặt xong, chẳng còn gì sót lại. Thậm chí không có một tấm bưu ảnh. Thậm chí không một ý nghĩ.
Nếu phải nói đến khoảnh khắc tồi tệ nhất đối với tôi trong những ngày ấy thì đó là khi tôi bước qua bãi cỏ trước nhà trong cơn mưa như trút để tống một ôm đầy cà-vạt của cha vào phía sau chiếc xe Hội Từ Thiện. Phải có đến hơn một trăm chiếc cà-vạt, và nhiều cái tôi thấy từ thuở thơ ấu: hoa văn, màu sắc, kiểu dáng đã hằn sâu những nhận thức đầu đời, rõ ràng như khuôn mặt của cha vậy. Nhìn thấy bản thân mình quẳng chúng đi chẳng khác gì một đống rác quả là một điều vượt quá mức chịu đựng, và đúng là như thế, vào ngay khoảnh khắc tôi thảy chúng vào chiếc xe, tôi đã đi đến ngưỡng gần nhất với sự khóc. Còn hơn cả việc nhìn thấy cỗ quan tài hạ xuống dưới huyệt, hành động vứt bỏ những chiếc cà-vạt ấy trong mắt tôi mới là hiện thân cho khái niệm chôn vùi. Tôi cuối cùng cũng hiểu ra cha mình đã chết.
* * *
Ngày hôm qua, một đứa trẻ con nhà hàng xóm đã tới đây chơi với Daniel. Một cô bé chừng ba tuổi rưỡi gần đây mới khám phá ra là người lớn cũng có thời là trẻ con, và thậm chí chính cha mẹ của cô cũng có cha mẹ. Có một lúc, cô bé nhấc ống nghe điện thoại lên và tiến hành một cuộc trò chuyện tưởng tượng, rồi quay sang tôi nói, “Chú Paul, là cha của chú. Ông muốn nói chuyện với chú.” Thật là kinh hoàng, tôi chợt nghĩ: có một con ma ở đầu dây bên kia, và ông ta thực sự rất muốn nói chuyện với tôi. Phải mất một lúc tôi mới có thể đáp. “Không,” cuối cùng tôi cũng lắp bắp thành câu. “Không thể là cha chú được. Hôm nay ông không gọi điện được đâu. Ông ở nơi khác rồi.”
Tôi đợi đến khi cô bé đặt ống nghe xuống và bước ra khỏi phòng.
* * *
Trong chiếc tủ ở phòng ngủ của cha, tôi tìm được hàng trăm tấm ảnh – được cất giấu kỹ trong trong những phong bì làm từ xơ chuối đã bạc màu, dán lên các tấm giấy đen của những album đã bong sờn, nhồi nhét bừa bãi trong các ngăn kéo. Nhìn vào cách mà chúng được cất đi, tôi đoán ra cha chẳng bao giờ ngó ngàng đến chúng, hay thậm chí còn quên bẵng là chúng ở đó. Một cuốn album cực lớn, bọc bằng vải da hảo hạng với hàng chữ khắc bằng vàng trên bìa – Đây là Cuộc đời chúng ta: Nhà Auster – hoàn toàn chẳng có gì bên trong. Ai đó, có thể là mẹ tôi, đã có lúc vất vả cực nhọc đặt làm album này, nhưng chẳng buồn bận tâm lấp đầy nó.
Lúc trở về nhà, tôi đắm đuối với những tấm ảnh đó cùng một sự say mê gần như điên dại. Tôi thấy chúng bất khả cưỡng lại, quý giá, sánh ngang hàng với những thánh tích thiêng liêng. Dường như chúng có thể kể cho tôi nghe những điều tôi chưa từng được biết, hé lộ những bí mật bị giấu kín trước đây, và tôi nghiên cứu tỉ mẩn từng tấm ảnh một, nắm bắt lấy từng chi tiết, từng bóng dáng không thể nhận diện, cho đến khi tất cả những tấm ảnh trở thành một phần của mình. Tôi không muốn điều gì lạc mất.
Cái chết kéo thân xác của một con người ra khỏi anh ta. Trong sự sống, một con người và thân xác anh ta hợp nhất; trong cái chết, đây là người đó và kia là thân xác của anh ta. Chúng ta vẫn bảo, “Đây là thi thể của X,” như thể thân xác này, thứ vốn từng chính là con người ấy, không phải là hiện thân hay thuộc về anh ta, mà chính là con người có tên là X, đột nhiên chẳng còn gì quan trọng nữa. Khi một người bước vào phòng và bạn bắt tay anh ta, hay bắt tay với thân xác của anh ta, tức là bạn đang bắt tay với chính anh ta. Cái chết thay đổi điều ấy. Đây là thi thể của X, chứ không phải đây là X. Cách diễn đạt đã hoàn toàn khác biệt. Giờ chúng ta đang nói về hai thứ chứ không phải một, ngụ ý rằng người đàn ông vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng chỉ là ở dạng một ý niệm, một tập hợp của những hình ảnh và ký ức trong tâm trí của kẻ khác. Còn về phần thân xác, chẳng có ý nghĩa gì hơn thịt và xương, một khối vật chất thuần túy.
Việc phát hiện ra những tấm ảnh ấy có ý nghĩa quan trọng với tôi bởi chúng dường như đã xác nhận thêm lần nữa cho sự tồn tại về mặt vật chất của cha trong thế giới này, cho tôi được mộng tưởng rằng cha vẫn còn đây. Thực tế là nhiều tấm ảnh trong số ấy tôi chưa từng được nhìn thấy, đặc biệt là những tấm ảnh từ thời cha còn trẻ, cho tôi cái cảm giác lạ lùng là được gặp ông lần đầu tiên, rằng một phần của ông chỉ mới trong đoạn khởi nguyên của sự tồn tại. Tôi đã mất cha. Nhưng cùng lúc đó, tôi đã tìm thấy ông. Miễn là tôi còn giữ những tấm ảnh ấy trước mắt mình, miễn là tôi còn nghiên cứu chúng với sự tập trung tuyệt đối, thì dường như ông vẫn còn sống, thậm chí trong cái chết của mình. Hoặc nếu không sống, thì cũng không chết. Hoặc hơn thế nữa, nghe có vẻ siêu nhiên, ông đang bị khóa lại trong một vũ trụ chẳng hề có cái chết, nơi mà cái chết chẳng bao giờ xâm nhập nổi.
* * *
Hầu hết những tấm ảnh ấy chẳng nói cho tôi nghe được điều gì mới, nhưng chúng giúp tôi lấp đầy những khoảng đứt gãy, khẳng định lại những ấn tượng, cung cấp bằng chứng mà trước kia chưa từng có. Chẳng hạn như một loạt ảnh chụp thời cha còn là một gã độc thân, có thể đã được chụp trong nhiều năm, đã cho ra một bản miêu tả chính xác về những phương diện tính cách đã bị chìm khuất đi trong những năm tháng hôn nhân, một khuôn mặt của cha mà tôi chỉ bắt đầu nhìn thấy sau khi cha ly dị: cha là một kẻ ưa đùa cợt, dân chơi đô thị, cái đinh của bữa tiệc. Hết tấm ảnh này đến tấm ảnh khác cha đứng với nhiều phụ nữ, thường là hai hoặc ba người, tất cả họ đều có kiểu tạo dáng rất hoạt họa, cánh tay họ có thể đang quàng lên nhau, hoặc hai trong số họ ngồi trong lòng cha, hoặc là một nụ hôn gió chẳng hướng tới ai ngoài người chụp ảnh. Hậu cảnh: một ngọn núi, một sân quần vợt, có thể là một bể bơi hoặc một căn nhà gỗ. Có những tấm ảnh được mang về sau những cuộc ngao du dịp cuối tuần đến nhiều khu nghỉ dưỡng khác nhau ở Catskill cùng với những ông bạn độc thân khác: chơi quần vợt, vui vẻ với các cô nàng. Cha đã sống như vậy cho đến tuổi ba mươi tư.
Đó là cuộc đời phù hợp với cha, và tôi có thể hiểu tại sao cha quay về với lối sống ấy sau khi hôn nhân tan vỡ. Với một người đàn ông chỉ thấy đời đáng chịu đựng bằng cách trôi nổi trên bể mặt của chính mình, thì việc ông hài lòng khi chỉ cho thiên hạ nhìn thấy bề nổi của mình cũng là lẽ tự nhiên. Chỉ tiêu thì ít ỏi và sự ràng buộc không hề tồn tại. Hôn nhân, trái lại, đã đóng sập cánh cửa. Sự tồn tại của bạn bó lại trong một không gian hẹp mà bạn phải không ngừng để lộ bản thân – và vì thế, không ngừng bị cưỡng chế phải nhìn vào bản thân, xem xét thế giới sâu hút của riêng mình. Khi cánh cửa được mở ra thì chẳng bao giờ tồn tại vấn đề gì cả: bạn luôn có thể chạy trốn. Bạn có thể tránh những xung đột không mong muốn, dù là với chính mình hay kẻ khác, chỉ đơn giản bằng cách bỏ đi.
Khả năng lẩn tránh của cha là vô tận. Bởi lãnh địa của những kẻ khác là phi thực với cha, thế nên việc xâm nhập vào lãnh địa ấy cũng được thực hiện bằng cái phần mà cha tự thấy là phi thực không kém, một phần bản thể mà cha đã huấn luyện thành một diễn viên đóng vai mình trong vở hài kịch trống rỗng của toàn thể thế giới. Cái phần bản thể đại diện ấy về bản chất là sự bỡn cợt, một đứa trẻ mắc chứng tăng động, một kẻ chuyên bịa ra những chuyện khó tin. Không có gì có thể coi là nghiêm túc cả.
Bởi chẳng có gì thực sự đáng kể, cha tự cho phép bản thân tự do làm bất cứ điều gì mình muốn (lẻn vào câu lạc bộ, đóng giả chuyên gia phê bình ẩm thực để được một bữa miễn phí), và vẻ quyến rũ mà ông đã luyện để thu phục lòng người chính là thứ khiến cho sự thu phục ấy trở thành vô nghĩa lý. Theo kiểu phù phiếm của đàn bà, cha giấu tuổi thật, bịa ra những mẩu chuyện về hoạt động làm ăn, nói vòng vo về bản thân – từ ngôi thứ ba, như thể về một kẻ cha quen biết (“Có một người bạn của tôi gặp vấn đề này; anh nghĩ xem anh ấy nên làm gì?…”). Mỗi khi tình huống trở nên ngặt nghèo, mỗi khi bị dồn sát đến bước đường phải hé lộ bản thân, cha sẽ lách qua bằng cách nói dối. Cuối cùng, sự dối trá trở thành quán tính và được phép thả phanh vì lợi ích của chính nó. Nguyên tắc là nói càng ít càng tốt. Nếu mọi người không bao giờ biết sự thật về cha, họ sẽ không thể trả đòn và đem chúng tấn công ông. Dối trá là một cách mua sự phòng vệ. Bởi vậy thứ mà mọi người nhìn thấy khi cha xuất hiện trước mặt họ không thực sự là ông, mà là con người ông đã tạo ra, một sinh vật nhân tạo mà ông có thể thao túng nhằm mục đích thao túng kẻ khác. Còn chính bản thân ông lại được nguyên dạng vô hình, một kẻ chơi rối tung hứng mấy sợi dây điều khiển bản thể phân đôi kia từ chốn đơn độc, tối tăm phía sau tấm mành.
Trong mười, mười hai năm cuối đời, cha có một bà bạn gái cố định, và đó là người phụ nữ đi cùng ông trong các sự kiện xã hội, kẻ đóng vai người đồng hành chính thức. Lúc này lúc khác cũng đã có vài lời bâng quơ về đám cưới (với sự nài nỉ của bà), và tất cả mọi người đều cho rằng đó là người phụ nữ duy nhất cha dính dáng đến. Tuy nhiên, sau khi cha chết, những người đàn bà khác bắt đầu bước ra ánh sáng. Người này đã yêu ông, kẻ kia đã sùng bái ông, kẻ khác nữa thì sẽ cưới ông. Bà bạn gái chính thức bàng hoàng khi biết về những người phụ nữ ấy: cha tôi chưa bao giờ hé môi nửa lời về họ với bà. Mỗi người đều được cha cấp cho một tuyến đời, và ai cũng tưởng họ đã chiếm trọn được ông. Thế rồi hóa ra, chẳng ai biết được chút ít nào về ông cả. Cha đã xoay xở để lẩn tránh được tất cả họ.
* * *
Cô độc. Nhưng không phải ở trạng thái cô đơn. Không cô độc theo cách của Thoreau[1], đày ải bản thân để khám phá xem mình đang ở đâu; không cô độc theo cách của Jonah[2], khẩn cầu được giải thoát khỏi bụng của con cá voi. Cô độc theo lối thoái lui. Theo lối không phải nhìn thấy bản thân, hoặc không phải nhìn thấy mình bị bất kỳ kẻ nào trông thấy.
Nói chuyện với cha là một trải nghiệm của sự nỗ lực. Cho dù ông vắng mặt, như ông vẫn thường như vậy, hay tra tấn bạn bằng một tiếng cười khô khốc, một dạng thức khác của sự vắng mặt. Việc ấy giống như bạn đang cố gắng giúp một cụ già lẩn thẩn hiểu bạn vậy. Bạn cứ nói, và cha, không chút thái độ phản ứng nào, hoặc một thái độ chẳng liên quan gì cả, cho thấy cha chẳng hề bước theo cùng dòng chảy từ ngữ của bạn. Trong vài năm gần đây, mỗi khi nói chuyện với cha qua điện thoại tôi lại thấy mình nói nhiều hơn thường lệ, tôi trở nên luyên thuyên hằn học, nói năng liên hồi trong nỗ lực tuyệt vọng giành được sự chú ý, để khích lên một chút phản ứng từ người ở đầu dây bên kia. Rốt cuộc, tôi luôn cảm thấy mình thật ê chề khi phải cố gắng quá mức.
Cha không hút thuốc, cha không uống rượu. Chẳng thèm muốn khoái lạc tình dục, không khao khát khoái lạc trí tuệ. Sách làm cha phát chán, và hiếm lắm mới có một bộ phim hay vở kịch nào mà cha không ngủ quên giữa chừng. Thậm chí lúc tiệc tùng bạn cũng thấy cha phải gắng gượng giữ cho mắt mở, và đa phần là cha bỏ cuộc, ngủ thiếp đi trên chiếc ghế khi người ta vẫn quay cuồng trò chuyện xung quanh. Một người sống chẳng cần hương vị. Bạn cảm thấy như chẳng điều gì có thể xâm nhập vào ông, rằng cha chẳng còn tha thiết gì với những điều mà thế giới này mang lại nữa.
* * *
Ba mươi tư tuổi, kết hôn. Năm mươi hai tuổi, ly dị. Ở một mặt, cuộc hôn nhân kéo dài nhiều năm, nhưng trên thực tế nó chỉ diễn ra trong vài ngày. Cha chưa bao giờ là một người đàn ông đã có gia đình, cũng chẳng phải là một người đàn ông đã ly dị, mà cả đời chỉ là một gã độc thân bất chợt có lúc giải lao là hôn nhân. Cho dù cha không hề trốn tránh trách nhiệm bề ngoài của một người chồng (ông chung thủy, chu cấp đầy đủ cho vợ con, gánh vác tất cả trách nhiệm), nhưng sự thật rõ ràng là cha không được sinh ra để đóng vai trò ấy. Cha đơn giản là chẳng có chút năng khiếu gì cho việc đó cả.
Mẹ tôi chỉ mới hai mươi mốt tuổi khi kết hôn với cha. Thành quả của cha trong mấy ngày tán tỉnh ngắn ngủi thật là giản dị. Không chút đề nghị táo bạo, không lần nào trỗi dậy cơn ghì riết đến nghẹt thở của đàn ông. Họ chỉ đôi lúc cầm tay, trao cho nhau nụ hôn chúc ngủ ngon lịch thiệp. Tình yêu, dù theo cách diễn đạt nào đi nữa, chưa bao giờ được ai trong hai người khẳng định. Khi hôn lễ diễn ra, họ chỉ biết về nhau nhiều hơn mức người dưng.
Chẳng bao lâu sau thì mẹ nhận ra sai lầm của mình. Thậm chí trước khi tuần trăng mật của họ kết thúc (tuần trăng mật, được ghi lại đầy đủ trong những tấm ảnh tôi tìm thấy: hai người họ ngồi cạnh nhau, chẳng hạn vậy, trên một tảng đá bên bờ một mặt hồ tuyệt đối tĩnh lặng, ánh dương trải thành một dải dài phía sau họ soi triền đồi đầy thông đã bắt đầu ngập trong bóng tối, cha vòng tay ôm mẹ, và hai người nhìn nhau, cười bẽn lẽn, như thể tay chụp ảnh đã ép họ phải giữ y nguyên tư thế ấy quá lâu), thậm chí trước khi tuần trăng mật ấy đi qua, mẹ đã biết cuộc hôn nhân này sẽ chẳng đâu vào đâu. Mẹ đã khóc lóc chạy về với mẹ đẻ và nói muốn bỏ chồng. Bằng cách nào đó, mẹ của mẹ đã xoay xở thuyết phục được con gái quay trở lại và cho cuộc hôn nhân ấy thêm cơ hội. Và rồi, trước khi cơn gió bụi ấy lắng xuống, mẹ phát hiện ra mình có thai. Đột nhiên mọi thứ trở thành quá muộn.
* * *
Đôi khi tôi lại nghĩ về chuyện ấy: Chuyện tôi đã được tạo mầm tại khu nghỉ dưỡng dành cho những kẻ đi hưởng tuần trăng mật ở thác Niagara như thế nào. Chuyện ấy xảy ra ở đâu không hẳn là quan trọng. Nhưng ý nghĩ về chuyện vòng tay ôm trống rỗng đam mê, màn rờ rẫm giữa những lớp chăn lạnh giá của khách sạn không bao giờ thất bại trong việc khiến tôi thấy nhục nhã về sự tồn tại không được mong đợi của mình.
Già tám tháng sau đó, vào buổi sáng ngày sinh nhật thứ hai mươi hai, mẹ tôi tỉnh dậy và bảo với cha rằng em bé đòi ra đời rồi. Kỳ quặc, cha bảo, đứa trẻ sẽ không ra đời trong vòng ba tuần nữa đâu – và thản nhiên đi làm, bỏ mặc mẹ ở nhà mà không có lấy một chiếc xe.
Mẹ đợi. Nghĩ rằng cha đã nói đúng. Mẹ đợi thêm chút nữa, rồi gọi điện thoại cho chị chồng nhờ bà chở tới bệnh viện. Bác tôi ở với mẹ hết cả ngày, cứ mấy tiếng lại gọi cha một lần để giục ông đến. Để sau đi, ông đáp, em đang bận, em sẽ đến khi nào có thể.
Quá nửa đêm một chút thì tôi tìm được cách bước ra thế giới, mông ra trước, khóc váng lên không cần thắc mắc.
Mẹ đợi cha xuất hiện, nhưng mãi tới sáng hôm sau cha mới xuất hiện – tháp tùng mẹ của ông, người muốn xem xét đứa cháu thứ bảy. Đó là một chuyến ghé thăm ngắn ngủi, căng thẳng, rồi cha lại cuốn gói đi làm.
Mẹ khóc, tất nhiên rồi. Dù gì đi nữa, mẹ vẫn còn trẻ, và mẹ không muốn mình có quá ít ý nghĩa với cha như vậy. Nhưng cha chẳng bao giờ có thể hiểu được điều ấy. Chẳng thể từ lúc bắt đầu, và cũng chẳng thể vào khi kết thúc. Việc thực sự có mặt ở nơi cha đang đứng là một điều bất khả. Trong suốt cả quãng đời cha sống, ông ở một nơi nào đó khác, lưng chừng giữa ở đây và ở kia. Nhưng chẳng bao giờ thực sự ở đây. Và cũng chẳng bao giờ là thực sự ở kia.
* * *
Ba mươi năm sau, vở kịch nhỏ ấy lại tái diễn y hệt. Lần này thì tôi có mặt ở đó, chính mắt tôi đã được nhìn thấy.
Sau khi con trai tôi ra đời, tôi đã nghĩ: chắc chắn chuyện này sẽ làm cha hài lòng. Chẳng phải người đàn ông nào cũng muốn trở thành ông nội sao?
Tôi đã mong cha vỗ về thằng bé, để cha cho tôi chút minh chứng rằng cha, cuối cùng, có thể cho người ta thấy chút xúc cảm – rằng cha thực sự, rốt cuộc thì, có chung những xúc cảm như những kẻ khác. Và nếu cha có thể bày tỏ chút trìu mến với đứa cháu trai, thì chẳng phải đó cũng là cách gián tiếp để bày tỏ lòng trìu mến cho chính tôi sao? Bạn không bao giờ ngừng khao khát tình yêu từ cha mình, thậm chí cả khi bạn đã trưởng thành.
Nhưng rồi, con người ấy không hề thay đổi. Tổng cộng cha chỉ thăm cháu nội cỡ ba bốn lần, và không lần nào cha có thể nhận ra được thằng bé giữa cái đám khổng lồ trẻ nít không biết của ai với ai được sinh ra trên thế giới mỗi ngày. Daniel được hai tuần tuổi khi cha liếc mắt nhìn thằng bé lần đầu. Tôi vẫn còn nhớ ngày hôm ấy một cách sắc nét: Đó là một ngày Chủ nhật oi nồng vào cuối tháng Sáu, khí trời như lò hun, vùng nông thôn phủ khói xám vì hơi ẩm. Cha tôi dừng xe, nhìn vợ tôi đặt con vào nôi để nó ngủ, và bước tới chào. Ông cúi đầu xuống cái nôi chừng mười giây, đứng thẳng dậy và nói, “Một đứa bé xinh đấy. Chúc may mắn nhé,” rồi tiếp tục đi vào nhà. Cha cũng có thể nói như thế về con cái của một kẻ lạ mặt nào đó ông tình cờ gặp khi xếp hàng ở siêu thị. Trong suốt quãng ghé thăm ngày hôm ấy, cha không hề nhìn Daniel, không một lần nào thèm đề nghị bế thằng bé.
* * *
Tất cả chuyện đó, chỉ mới là một ví dụ.
Tôi nhận ra không thể nào bước vào thế giới cô độc của kẻ khác. Nếu chuyện chúng ta có lúc biết được về sự tồn tại của một bản thể khác, dù chỉ ở một mức độ ít ỏi, thì cũng chỉ có thể là vì anh ta sẵn sàng để kẻ khác biết về mình. Một người sẽ nói: Tôi lạnh. Còn không anh ta chẳng nói gì cả, và chúng ta thấy anh ta run rẩy. Nhưng với kẻ không nói gì mà cũng không run rẩy thì sao? Nơi nào khó tiếp cận thì ở nơi đó có sự khó hiểu và lảng tránh, người ta không làm gì được nhiều hơn là quan sát. Nhưng việc người ta có thể hiểu được những gì mình quan sát được hay không lại là một vấn đề hoàn toàn khác.
Tôi không muốn suy đoán bất cứ điều gì.
Cha không bao giờ nói về bản thân, không bao giờ tỏ ra biết mình có thểnói gì đó. Như thể cuộc sống nội tại cũng lẩn tránh chính cha.
Cha không thể nói về chuyện ấy, chính vì thế cha thường lờ nó đi trong im lặng.
Nếu chẳng có gì khác ngoài im lặng, thì chuyện tôi cứ thế nói năng có phải là quá không cần thiết không? Và nữa, nếu có bất cứ điều gì quan trọng hơn sự im lặng, thì tôi có thấy cần phải nói ra ngay từ đầu hay không?
Lựa chọn dành cho tôi có giới hạn. Tôi có thể giữ im lặng, nếu không thì tôi có thể nói về những điều không thể xác nhận. Ở mức độ tối thiểu, tôi muốn cứ thế thảy hết các dữ liệu thực tế ra, càng sổ toẹt chúng ra càng tốt, và để chúng tự phát biểu bất cứ điều gì chúng muốn. Nhưng thậm chí ngay cả thực tế cũng không phải lúc nào cũng nói ra sự thực.
Cha luôn tỏ ra hết sức lãnh đạm, cách cư xử của ông quá mức dễ đoán, đến nỗi tất cả những hành động của cha đều gây kinh ngạc. Người ta không thể tin nổi rằng có thể tồn tại một con người – kẻ chẳng có chút xúc cảm nào, kẻ đòi hỏi quá ít từ người khác. Và nếu như kiểu con người ấy không tồn tại, thì có nghĩa là có một con người khác, kẻ trốn trong một người không bao giờ có mặt ở đó, và vậy thì bí quyết của vấn đề chính là việc tìm ra ông ta. Với điều kiện là ông ta có tồn tại để mà tìm.
Tất cả để nhận thức được một việc, ngay từ khi bắt đầu, rằng cốt lõi của kế hoạch này là sự thất bại.
* * *
Ký ức đầu tiên: sự vắng mặt của cha. Trong những năm đầu đời tôi, cha đi làm từ sáng sớm, trước khi tôi thức dậy, và trở về nhà sau khi tôi đã đi ngủ từ lâu. Tôi là con trai của mẹ, và tôi sống trong quỹ đạo của bà. Tôi là mặt trăng bé nhỏ bay quanh trái đất khổng lồ là bà, là hạt bụi trong khối cầu chịu lực hút của bà, và tôi điều khiển những con sóng, thời tiết, những cơn xúc cảm. Điệp khúc mà cha dành cho mẹ là: Đừng có nựng nịu nó quá, em làm hư nó bây giờ. Nhưng sức khỏe của tôi không được tốt, và mẹ dùng chuyện ấy để chống chế cho sự nuông chiều dành cho tôi. Chúng tôi dành phần lớn thời gian bên nhau, mẹ với sự cô đơn và tôi với thân hình co quắp kiên nhẫn đợi chờ ở phòng khám để được ai đó dập tắt cơn cồn cào lúc nào cũng nhộn nhạo trong bụng. Thậm chí vào lúc ấy, tôi còn tuyệt vọng bám lấy mấy ông bác sĩ, đòi họ ôm tôi. Ngay từ khi bắt đầu, có vẻ như tôi đã tìm kiếm cha, tìm kiếm trong hoảng loạn một ai đó nhang nhác bóng hình ông.
Những ký ức về sau: sự khao khát. Tâm trí tôi lúc nào cũng tìm kiếm một cái cớ dù nhỏ nhất để phủ nhận hiện thực, tôi khăng khăng giữ niềm hy vọng về một điều mình sẽ không bao giờ được trao – hoặc được trao quá ít ỏi và quá độc đoán đến mức nó có vẻ như không còn thuộc giới hạn của những trải nghiệm bình thường, ở một nơi mà tôi không bao giờ được phép sống nhiều hơn vài khoảnh khắc trong suốt cuộc đời. Không phải là vì tôi cảm thấy cha không thích mình. Đó chỉ là vì cha lúc nào cũng phân tâm, không thể nào nhìn về hướng tôi. Và hơn tất cả mọi điều, tôi muốn ông chú ý vào mình.
Bất cứ điều gì, dù là nhỏ nhất, cũng đã là đủ. Chẳng hạn như một Chủ nhật nọ gia đình tôi tới một nhà hàng đông đúc và phải đợi xếp bàn, cha bèn đưa tôi ra ngoài, kiếm được một quả bóng bàn (từ đâu nhỉ?), rồi đặt một xu bên vệ đường và bắt đầu trò chơi với tôi: ném quả bóng vào đồng xu. Tôi hồi ấy chắc chỉ mới hơn tám hoặc chín tuổi.
Trong dòng hồi tưởng, không gì còn có thể nhỏ nhoi hơn nữa. Và bất kể sự thật là tôi đã được cha cho vào cuộc chỉ bởi cha ngẫu nhiên đề nghị tôi chia sẻ sự nhàm chán cùng ông, cũng đã làm tôi muốn xỉu vì sung sướng.
Đa số các lần chỉ có sự thất vọng mà thôi. Trong một khoảnh khắc cha dường như đã có thể thay đổi, như đã mở lòng ra được một chút xíu, và rồi, đột nhiên, ông chẳng còn buồn ở đó nữa. Có một lần tôi tìm cách thuyết phục được cha đưa mình đi xem bóng bầu dục (đội Giants đấu với Chicago Cardinals, ở sân vận động Yankee hoặc Polo Grounds, tôi quên mất là sân nào rồi), ông bất thình lình đứng dậy khỏi ghế khi trận đấu đi đến gần khúc cuối và bảo: “Đến giờ đi rồi.” Cha muốn “chạy trước đám đông” và tránh việc bị kẹt xe. Mọi lời tôi nói đều chẳng thể nào thuyết phục nổi cha, và vì thế chúng tôi đi về, đơn giản là vậy, khi trận đấu đang đi đến cao trào. Tôi thấy thất vọng khủng khiếp khi theo ông đi xuống những bậc thềm bê -tông, và rồi, thậm chí còn tồi tệ hơn trong bãi đậu xe, với tiếng vọng ồn ào của đám đông vô hình đang hò hét phía sau.
Bạn không thể nào tin rằng cha biết điều bạn muốn, chia sẻ được những gì bạn đang cảm thấy. Chuyện bạn phải tự nói với ông khiến tất cả mọi điều tiêu tan luôn từ trước, phá hỏng toàn bộ giai điệu trong mơ trước khi một nốt được ngân lên. Và rồi thậm chí ngay cả khi bạn đã nói với cha, cũng chẳng có gì làm chắc là cha sẽ hiểu ý của bạn.
* * *
Tôi nhớ một ngày nọ rất giống ngày hôm nay. Đó là một Chủ nhật mưa phùn, ngôi nhà như lơ mơ và lặng lẽ: thế giới chậm lại một nửa. Cha tôi đang đánh một giấc ngắn, hoặc chỉ mới vừa thức dậy, và tình cờ thế nào tôi lại đang nằm trên giường cùng ông, chỉ hai cha con ở trong phòng. Kể chuyện cho con nghe đi ạ. Chắc bắt đầu phải là như thế. Và bởi vì cha chẳng làm gì khác, bởi vì cha vẫn đang lơ mơ trong cái nặng trĩu của buổi chiều, ông đã làm theo như tôi yêu cầu, ngân nga kể một câu chuyện không bỏ lỡ chi tiết nào. Tôi vẫn nhớ như in câu chuyện ấy. Cứ như là tôi vừa mới bước chân ra khỏi căn phòng, với ánh sáng xám mờ của nó và đống chăn mền hỗn độn trên giường, như thể, chỉ đơn giản nhắm mắt lại, tôi có thể bước trở vào bất cứ khi nào tôi muốn.
Cha kể về những ngày ngao du khám phá của ông ở Nam Phi. Đó là câu chuyện phiêu lưu ly kì, đầy rẫy nguy hiểm chết người, những vụ đào thoát rợn tóc gáy, và những đoạn giật gân yêng hùng không thể nào tin nổi: phát lối đi xuyên rừng với con dao rựa, đánh tan của một băng cướp với hai bàn tay không, bắn chết luôn con lừa khi nó bị gãy chân. Ngôn từ của cha thật hoa mỹ và xoắn xuýt, có thể là tiếng vọng từ một cuốn sách mà chính ông từng đọc khi còn là một cậu bé. Nhưng chính phong cách văn hoa ấy đã làm tôi mê mệt. Không chỉ bởi cha kể tôi nghe những điều mới lạ về bản thân mình, tiết lộ cho tôi về thế giới quá khứ xa xôi của ông, mà còn vì cha kể về chúng với những từ ngữ mới mẻ và lạ lùng. Thứ từ ngữ ấy cũng quan trọng như chính bản thân câu chuyện vậy. Nó là một phần hữu cơ, và theo lối nào đó thì không thể nào phân biệt nổi với câu chuyện. Sự kỳ quặc quá đỗi của nó là bằng chứng cho tính xác thực.
Tôi chẳng hề mảy may nghĩ rằng đó có thể chỉ là một câu chuyện do bịa mà nên. Trong suốt nhiều năm sau tôi vẫn tiếp tục tin nó là sự thật. Thậm chí khi đã đi qua giai đoạn có nhận thức rõ ràng hơn, tôi vẫn cảm thấy đôi điều trong đó phải là sự thật. Nó cho tôi điều gì đó để nắm lấy cha mình, và tôi hết sức miễn cưỡng để buông ra. Cuối cùng thì tôi cũng có được lời giải thích cho sự lảng tránh bí ẩn ấy của mình, sự thờ ơ của cha dành cho tôi. Cha là một mẫu hình lãng mạn, một người với quá khứ bí mật đầy hấp dẫn, và cuộc sống hiện tại của ông chỉ là một trạm dừng, một cách để gặm nhấm thời giờ cho đến khi ông khởi hành chuyến chu du mới. Ông đã lên kế hoạch hết cả, đã tìm ra cách để lấy được kho vàng được chôn sâu trong lòng dãy núi Andes.
* * *
Thường trực trong tâm khảm tôi: nỗi khao khát làm được điều gì đó phi thường, gây ấn tượng với cha bằng chiến tích thuộc tầm cỡ anh hùng. Cha càng xa lánh, mục tiêu của tôi càng cao. Dù khao khát của một đứa trẻ con chỉ là sự liều lĩnh và lý tưởng hóa, thì nó đồng thời cũng thực tế một cách lố bịch. Tôi chỉ mới mười tuổi, và chẳng có đứa trẻ con nào để tôi cứu khỏi một tòa nhà đang bốc cháy, không có thủy thủ nào để tôi cứu trên biển. Tuy nhiên, tôi lại là một đứa chơi bóng chày rất cừ, ngôi sao nhí trong đội Little League, và cho dù cha chẳng có chút hứng thú nào với môn bóng chày, tôi nghĩ rằng nếu cha xem tôi thi đấu, chỉ một lần thôi, cha có thể nhìn thấy ánh sáng mới trong tôi.
Cuối cùng thì cha cũng đến. Bố mẹ của mẹ cũng ghé thăm chúng tôi vào đúng đợt ấy, và ông ngoại, người hâm mộ cuồng nhiệt của môn bóng chày, cùng đến xem với cha. Đó là trận đấu đặc biệt kỷ niệm ngày Liệt sĩ, và chỗ ngồi chật kín. Nếu tôi muốn làm một điều gì đó để lại dấu ấn tên tuổi, thì đây chính là lúc để làm điều đó. Tôi vẫn nhớ đã nhìn thấy họ trên băng ghế gỗ, cha tôi mặc chiếc áo sơmi trắng không đeo cà-vạt và ông ngoại quấn một chiếc khăn tay màu trắng trên cái đầu trọc để tránh nắng – toàn bộ khung cảnh ấy giờ lóa lên dưới luồng sáng trắng trong tâm trí tôi.
Có thể quên chuyện đó đi mà không cần phải kể rằng tôi đã phá hỏng tất cả. Tôi không vụt trúng quả nào, tôi mất đi tư thế đĩnh đạc của mình trong trận đấu và không thể nào căng thẳng hơn được nữa. Trong hàng trăm trận đấu tôi từng chơi suốt thời thơ ấu, đó là trận tồi tệ nhất.
Sau đó, khi đi bộ về xe với cha, cha bảo tôi đã chơi một trận rất hay. Không phải như vậy, tôi đáp, đó là một trận khủng khiếp. Chà, con đã cố gắng hết sức rồi, cha đáp. Con không thể lúc nào cũng chơi hay được.
Không phải cha đang cố gắng động viên tôi. Cha cũng chẳng cố gắng để tỏ ra tàn nhẫn. Thực ra, cha chỉ đang nói điều mà bất cứ ai cũng nói trong tình huống ấy, như theo một quán tính. Chúng là những lời đúng đắn nên nói, và chúng cũng được nói ra với chẳng chút xúc cảm, tỏ ra lịch thiệp, với đúng thứ giọng lơ đãng cha sẽ dùng tới trong gần hai mươi năm sau khi cha nói, “Một đứa bé xinh đấy. Chúc may mắn nhé.” Tôi có thể thấy tâm trí cha đã ở nơi nào khác.
Thực ra mà nói, chuyện ấy chẳng có gì quan trọng. Điều quan trọng là: tôi nhận ra rằng kể cả nếu tôi có làm được những điều mình kỳ vọng, thì phản ứng của cha cũng y như vậy. Tôi thành công hay thất bại cũng chẳng có chút mảy may ảnh hưởng nào tới cha. Tôi không được cha định nghĩa qua những gì tôi làm, mà ở việc tôi là cái gì, và điều này có nghĩa là cách ông nhìn nhận về tôi chẳng bao giờ thay đổi, rằng chúng tôi đã bị đóng đinh trong một mối quan hệ bất di bất dịch, tách biệt khỏi người kia bằng hai mặt của một bức tường. Thậm chí còn hơn thế nữa, tôi nhận ra rằng tôi chẳng làm được gì trong chuyện ấy. Mọi thứ chỉ thuộc về cha mà thôi. Giống như tất cả những điều khác trong cuộc đời cha, cha nhìn về tôi qua màn sương mù của sự cô độc, như thể tôi là một thứ xa vời khỏi bản thân ông. Tôi nghĩ thế giới là một vùng đất xa xôi với cha, một vùng đất mà cha chẳng bao giờ có thể thực sự bước vào, và xa xôi ở ngoài kia, giữa những bóng dáng mờ ảo cứ thấp thoáng qua lại trước mặt ông, tôi được sinh ra, trở thành con trai ông rồi lớn lên, như thể tôi cũng chỉ là một bóng dáng mờ ảo khác, hiện lên rồi biến mất trong lãnh địa chỉ thắp sáng nhờ nhờ là vùng ý thức của ông.
* * *
Với đứa con gái, được sinh ra khi tôi ba tuổi rưỡi, có vẻ như chuyện ấy dễ dàng hơn với ông. Nhưng cuối cùng thì hóa ra chuyện ấy lại khó khăn hơn cực độ.
Em là một đứa trẻ xinh đẹp. Mong manh hiếm có, với đôi mắt nâu tuyệt vời có thể dâng đầy nước chỉ với một chút trêu đùa. Phần lớn thời gian em chỉ muốn một mình, một dáng hình nhỏ bé lang thang trong mảnh đất tưởng tượng của yêu tinh và thần tiên, nhón gót nhảy múa trong bộ đầm múa ba lê voan tỉa tót, hát thầm thì chỉ đủ mình em nghe thấy. Em là phiên bản thu nhỏ của Ophelia đầy bi đát, dường như vậy, trong cuộc đời đầy ắp những đấu tranh nội tại. Em chỉ có vài người bạn, khó khăn lắm mới chịu đến trường, và bị nỗi nghi ngờ bản thân quấy nhiễu, thậm chí khi còn bé xíu, em đã biến những việc hàng ngày đơn giản nhất thành cơn ác mộng của nỗi đau khổ và thất bại. Đã có những cơn cáu kỉnh, những màn khóc lóc thảm thương, và chuỗi biến đổi xúc cảm đột ngột không ngừng. Chẳng có gì được yên ổn dài lâu.
Nhạy cảm với những sắc thái xung quanh một cuộc hôn nhân thiếu hạnh phúc hơn tôi, cảm giác bất an của em biến thành bất thường và méo mó. Ít nhất một lần trong ngày em lại hỏi mẹ “có yêu cha không.” Câu trả lời lúc nào cũng vậy: tất nhiên là có rồi.
Đấy chẳng phải là một lời nói dối thuyết phục cho lắm. Nếu nó thuyết phục, thì em đã chẳng có nhu cầu phải hỏi lại câu đó vào ngày hôm sau.
Ở mặt khác, thật khó mà thấy được nếu chuyện ấy là thật thì sẽ cải thiện được gì.
* * *
Gần như là em đã tỏa ra mùi hương tuyệt vọng. Người ta khao khát được bảo vệ em ngay lập tức, để che chắn cho em khỏi sự tấn công của cuộc đời. Như tất cả mọi người, cha nuông chiều em. Em càng khóc lóc đòi sự chiều chuộng thì cha càng sẵn lòng trao nó cho em. Chẳng hạn như dù em đã biết đi từ lâu lắm rồi, cha vẫn cứ khăng khăng đòi bế em đi xuống cầu thang. Chẳng có gì để thắc mắc về chuyện cha làm thế vì tình yêu thương, hạnh phúc được làm thế bởi em là một thiên thần nhỏ. Nhưng ẩn dưới sự chiều chuộng ấy là một thông điệp không hiện hình là em sẽ chẳng bao giờ có thể làm được điều gì cho bản thân mình. Em chẳng phải là một con người đối với cha, mà là một thiên thần, và bởi vì em chẳng bao giờ đòi được hành động như một cá thể độc lập, em sẽ chẳng bao giờ trở thành như vậy.
Tuy nhiên mẹ tôi lại thấy được những gì đang diễn ra. Khi em gái tôi lên năm tuổi, mẹ đưa em đến một cơ sở tư vấn, với một chuyên viên tâm lý trẻ em, và vị bác sĩ khuyên rằng nên bắt đầu một đợt trị liệu. Đêm đó, khi mẹ nói với cha về kết quả của cuộc khám bệnh, cha đã nổi trận lôi đình. Không đứa con gái nào của tôi… vân vân. Ý nghĩ rằng con gái cha cần đến sự trợ giúp về mặt tâm thần chẳng khác gì bảo em bị bệnh hủi. Cha không chấp nhận chuyện ấy. Cha thậm chí không thèm bàn luận gì đến chuyện ấy.
Đây chính là điều mà tôi muốn nói đến. Cha từ chối nhìn vào bản thân chỉ có thể là do cha cứng đầu cứng cổ không chịu nhìn vào thế giới, để chấp nhận những bằng chứng không thể chối cãi nhất đang thọc ngay trước mũi ông. Hết lần này đến lần khác trong đời, cha có thể nhìn chằm chằm vào một vật gì đó, và rồi quay đi thản nhiên nói nó chẳng hề tồn tại. Chuyện ấy làm việc đối thoại với ông trở thành bất khả. Khi bạn xoay xở để tạo dựng được một cái nền ngang bằng với ông, ông sẽ lôi chiếc xẻng ra và xúc nó biến khỏi chân bạn.
* * *
Nhiều năm sau, khi em gái tôi đã phải trải qua nhiều trận suy sụp tinh thần khốn khổ, cha tôi vẫn tiếp tục tin rằng em chẳng gặp vấn đề gì cả. Cứ như thể cha bị thiểu năng bẩm sinh nên không thể nhận ra tình trạng của em.
Trong một cuốn sách, R. D. Laing[3] có miêu tả ông bố của một cô gái bị rối loạn tâm thần, kẻ mỗi lần tới thăm con ở bệnh viện lại nắm lấy vai cô lắc thật lực, bảo cô là “bỏ cái thói đó đi.” Cha tôi không nắm lấy em gái nhưng thái độ của ông về cơ bản thì cũng y hệt. Điều em cần, cha bảo, là kiếm việc mà làm, tắm rửa sạch sẽ, bắt đầu sống trong thế giới thực. Tất nhiên là em đã làm. Nhưng đó cũng chính là điều em không thể nào làm nổi. Em chỉ quá nhạy cảm thôi, cha sẽ bảo thế, em cần phải vượt qua sự nhút nhát của mình. Bằng cách quy nạp luôn vấn đề thành một trò bỡn cợt của nhân cách, ông có thể cứ thế yên tâm mà tin rằng chẳng có chuyện gì cả. Đó chẳng phải là sự mù quáng mà là sự thất bại của trí tưởng tượng. Vào khoảnh khắc nào một ngôi nhà lại có thể ngừng là một ngôi nhà? Khi mái nhà bị dỡ ra? Khi cửa sổ bị tháo ra? Khi bức tường bị đập đổ? Vào khoảnh khắc nào nó trở thành một đống ngổn ngang? Con bé chỉ khác người thôi, cha sẽ bảo thế, nó chả có vấn đề gì đâu. Và rồi một ngày những bức tường của ngôi nhà cuối cùng cũng sụp. Tuy nhiên, nếu cánh cửa vẫn còn y nguyên đó, tất cả những gì bạn phải làm là bước xuyên qua, và bạn lại ở trong nhà. Thật dễ chịu khi được ngủ dưới những vì sao. Đừng lo về chuyện mưa gió. Chúng chẳng rơi mãi được đâu.
* * *
Từng chút từng chút một, khi tình hình ngày càng trở nên bi đát, cha buộc phải thừa nhận chuyện ấy. Nhưng ngay cả khi đó, ở từng giai đoạn một, sự chấp nhận của cha cũng thật kỳ dị, theo một lối quái gở, gần như là tự vô hiệu hóa. Chẳng hạn, cha bị thuyết phục rằng cách có thể giúp được em là một chương trình liệu pháp vitamin sơ khởi. Đó chính là phương pháp hóa trị học để chữa bệnh tâm thần. Cho dù nó chưa bao giờ được chứng minh là một cách chữa trị hữu hiệu, phương pháp này vẫn có cả đám đông tin theo. Người ta có thể thấy được tại sao cách ấy lại thu hút cha tôi. Thay vì phải chiến đấu với một chứng bệnh làm kiệt quệ tinh thần, cha chỉ nhìn vào căn bệnh như một vấn đề sinh học, thứ bệnh mà bạn có thể chữa trị y như chữa cúm vậy. Nó biến thành một chứng bệnh ngoài da, một loại rận mà bạn có thể tống khứ đi bằng một tác động đối chiều với lực tương đương. Trong mắt cha, em gái tôi bị lãnh đạm một cách kỳ quặc trước tất cả những điều đó. Em chỉ đơn giản là một bãi đấtnơi trận chiến diễn ra, có nghĩa là tất cả những điều xảy ra chẳng ảnh hưởng gì đến em cả.
Cha dành ra nhiều tháng cố gắng thuyết phục em bắt đầu chương trình trị liệu vitamin liều cao này – thậm chí tới mức tự uống mấy viên thuốc đó luôn, để chứng minh rằng em sẽ không bị đầu độc - và khi cuối cùng thuận theo ý cha, em cũng chẳng uống chúng lâu hơn hai hay ba tuần lễ. Mấy viên vitamin thì đắt đỏ, nhưng cha chẳng cằn nhằn gì về chuyện phải tiêu tiền. Mặt khác, cha lại giận dữ nhất định không chịu chi trả cho các cách chữa khác. Cha không tin là một gã lạ hoắc lại có thể quan tâm tới chuyện xảy ra với em. Lũ bác sĩ tâm thần chỉ là đồ lang băm, chúng chỉ hứng thú với việc bòn tiền của bệnh nhân và được lái xe sang. Cha từ chối trả các hóa đơn, khiến em không còn mấy cơ hội nhận những dịch vụ y tế công cộng xoàng xĩnh nhất. Em là một kẻ nghèo túng, không có thu nhập cá nhân, nhưng cha gần như chẳng gửi cho em chút gì.
Thế nhưng, cha còn hơn cả hăng hái khi đòi nắm hết mọi việc vào tay mình. Cho dù việc ấy chẳng mang lại cho cha hay em lợi ích gì, cha muốn em sống ở nhà mình để cha được nhận trách nhiệm chăm sóc em. Ít nhất cha có thể tin tưởng vào cảm nhận của chính mình, và cha biết rằng mình quan tâm đến em. Nhưng rồi, khi em đến (trong vòng vài tháng, sau một trong những đợt điều trị tại bệnh viện), cha chẳng thèm thay đổi lối sinh hoạt thường ngày để chăm chút cho em – vẫn vắng nhà suốt, để mặc em vạ vật quanh ngôi nhà khổng lồ như một bóng ma.
Cha là một người lơ đễnh và cứng đầu. Nhưng mà ẩn sau những điều ấy, tôi biết cha đau khổ. Đôi khi, trên điện thoại, khi ông và tôi bàn về chuyện em gái, tôi có thể nghe tiếng cha đứt đoạn dù chỉ thoảng qua, như thể cha đang cố gắng chặn một tiếng nức nở. Không giống bất kỳ điều gì mà cha từng đối mặt, căn bệnh của em gái tôi cuối cùng đã làm cha đau đớn– dù chỉ gây ra cho ông cảm giác vô cùng tuyệt vọng. Không có nỗi đau khổ nào lớn hơn cảm giác tuyệt vọng ấy. Bạn phải chấp nhận chuyện ấy, thậm chí ngay cả khi không thể. Và rồi bạn càng chấp nhận, thì bạn càng vô vọng.
Sự vô vọng của cha thật khủng khiếp.
* * *
Hôm nay khi lang thang quanh ngôi nhà, không mục đích, không nặng lòng, cảm thấy mình đang bị tuột ra khỏi những gì mình viết, tôi tình cờ nhặt được đoạn viết từ lá thư của Van Gogh: “Như tất cả những người khác, tôi cảm thấy cần có gia đình và bạn bè, sự quan tâm và giao cảm thân thiện. Tôi không được làm ra từ đá hay kim loại như cái vòi nước máy hay một cột đèn.”
Có thể đó chính là điều quan trọng: chạm đến được cốt lõi của xúc cảm loài người, bất chấp mọi thứ bằng chứng phản bác.
* * *
Những chi tiết bé nhỏ nhất trong những tấm ảnh: không thể sửa chữa, lún xuống vũng bùn của ký ức, không thể chìm hẳn xuống cũng không thể kéo lên. Và rồi từng điều, trong chính bản thân nó thoáng hiện lại một khoảnh khắc mà như đã biến mất. Chẳng hạn như cách cha bước đi, cân bằng theo cách kỳ cục, thoăn thoắt trên hai nửa bàn chân trước, như thể cha sắp lao thẳng về phía trước, mù quáng, vào một thứ gì chưa rõ. Hoặc cách cha vục đầu xuống bàn khi ăn, vai cha căng lên, lúc nào cũng chỉ tập trung vào việc ngốn ngấu, chẳng bao giờ thưởng thức. Hoặc mùi bốc ra từ những cái xe cha dùng để đi làm: dầu rỉ, khói thải; tiếng leng keng của những dụng cụ kim loại cha sử dụng; tiếng rột roạt không ngừng khi chiếc xe di chuyển. Ký ức về một ngày tôi cùng cha lái xe ngang khu trung tâm Newark, chỉ chưa quá sáu năm trước, ông giộng chân trên bàn phanh, việc phanh gấp khiến tôi đập đầu vào bàn điều khiển: sự đột ngột của một đám người da đen bu lại quanh xe xem tôi có bị làm sao không, đặc biệt là người phụ nữ dúi một que kem va-ni cho tôi qua ô cửa sổ đang mở, và cách tôi nói, “không, cảm ơn bà,” rất nhã nhặn, quá bàng hoàng với việc biết mình thực sự muốn gì. Hoặc một ngày khác trong một chiếc xe khác, vài năm sau đó, khi cha tôi khạc ra ngoài cửa xe mà không nhận ra kính chưa được hạ, và sự hứng khởi kỳ quặc, vô biên của tôi khi thấy bãi nước miếng chảy thành dòng trên mặt kính. Và nữa, tôi nhớ chuyện khi còn bé, cha đôi khi lại dẫn tôi đi cùng tới mấy nhà hàng Do Thái ở những khu dân cư mà tôi chưa từng thấy, những nơi u tối toàn là người già, mỗi bàn lại được chiêu đãi một chai nước khoáng bé xíu, và chuyện tôi mau chóng thấy buồn nôn, để lại nguyên đĩa thức ăn, rồi co ro nhìn cha ngốn ngấu hết súp củ cải đường, bánh nhân gan gà, và thịt luộc cuốn rau cải như thế nào. Tôi, kẻ được nuôi lớn như một cậu bé Mỹ, kẻ biết về tổ tiên của mình còn ít hơn biết về chiếc mũ của Hopalong Cassidy[4]. Hoặc chuyện, khi tôi mười hai hay mười ba, tôi thèm đến chết được đi đâu đó với vài người bạn, tôi gọi cho cha ở sở làm để xin phép, và cha nói lại tôi, với một giọng luống cuống, không biết nên đáp lại ra sao, “Các con chỉ là một lũ nhóc,” và rồi, nhiều năm sau đó, bạn bè và tôi (một trong số họ giờ đã chết vì quá liều heroin) thường nhắc lại những lời đó như một mẩu chuyện dân gian, một chuyện cười đầy hoài niệm.
* * *
Kích cỡ bàn tay của cha. Những nốt chai sần.
Ăn hết lớp váng đọng trên tách sô-cô-la nóng.
Trà với chanh.
Đôi kính gọng sừng đen nằm vất vưởng quanh nhà: trên bệ bếp, trên mặt bàn, trên thành bồn tắm- lúc nào cũng mở gọng, nằm đó như một loại động vật lạ lùng không thể xác định chủng loài.
Xem cha chơi quần vợt.
Cách đầu gối của cha đôi khi lại oằn xuống khi cha rảo bước.
Khuôn mặt cha.
Nét hao hao giống Abraham Lincoln, và chuyện mọi người vẫn nhắc về điều đó như thế nào.
Việc cha không sợ chó.
Khuôn mặt cha, và một lần nữa, khuôn mặt cha. Những con cá vùng nhiệt đới.
* * *
Thường thì cha dường như đánh mất sự tập trung, quên mất rằng mình ở đâu, như thế cha đã mất cảm giác về sự tiếp diễn của chính mình. Nó khiến cho cha bị ngã chúi xuống: khi đập đinh bằng búa, hàng loạt tai nạn nhỏ trong xe.
Việc làm một người lái xe thả hồn lên mây: đến mức đôi khi trở thành kinh hoàng. Tôi luôn nghĩ sẽ có một chiếc xe đâm trúng ông.
Mặt khác, sức khỏe cha quá tốt đến mức không gì làm tổn thương được, khác hẳn với tình trạng thể chất ốm yếu đã đánh bại tất cả những người còn lại. Như thể không gì có thể chạm đến ông.
* * *
Cách cha nói: như thể nỗ lực hết sức để nhô thoát khỏi sự cô độc của mình, như thể giọng cha đã bị han rỉ, như đã mất đi thói quen nói. Cha lúc nào cũng e hèm và ư hừm nhiều lần, hắng giọng, như có vẻ sẽ lắp bắp ở lưng chừng câu. Bạn cảm thấy, rất rõ ràng, rằng cha chẳng có chút thoải mái nào.
Theo cùng cách đó, thời còn bé lúc nào tôi cũng thấy buồn cười khi nhìn cha ký tên. Cha không thể đơn giản đặt đầu bút lên mặt giấy và ký. Như thể vô thức trì hoãn lại khoảnh khắc của sự thật, cha lúc nào cũng khẽ khoát tay đầy màu mè, một cái ngoáy tay thành vòng tròn cách mặt giấy chừng một hai phân, như một con ruồi vo ve trong không khí rồi mới nhắm vào mục tiêu, trước khi cha thực sự đặt tay xuống mà ký. Đó là một phiên bản có sửa đổi cách mà nhân vật Norton của nam diễn viên Art Carney thường ký tên ông ta trong phim The Honeymooners.
Cha thậm chí còn phát âm một số từ hơi kỳ cục. Chẳng hạn, “bên trưn” thay cho “bên trên,” như thể sự màu mè của bàn tay cha liên thông với giọng của ông. Có chút gì đó như giai điệu, như uyển chuyển trong cách nói ấy. Mỗi lúc cha nghe điện thoại, sẽ là tiếng “Xin chàooo” du dương chào đón bạn. Hiệu ứng ấy không được hài hước hay dễ mến cho lắm. Nó làm cho cha có phần ngớ ngẩn, như thể cha đang lệch pha với cả thế giới – nhưng không lệch quá nhiều. Chỉ một hai độ thôi.
Ấy là tật máy giật ở cha.
* * *
Trong những cơn căng thẳng, điên rồ mà cha đôi khi sa vào, cha luôn nảy ra những quan điểm rất kỳ quặc, cha không thực sự coi chúng là nghiêm túc, nhưng cha hạnh phúc được làm kẻ biện hộ của quỷ để giữ cho mọi thứ sống động. Việc trêu chọc mọi người đưa cha vào trạng thái sôi nổi, và sau sau một câu nhận xét ngớ ngẩn về riêng ai đó, cha thường bóp cẳng chân kẻ đó – vào điểm gây nhột. Ông thực sự khoái kéo chân người ta.
* * *
Lại chuyện cái nhà.
Dù bên ngoài nhìn vào người ta có thể thấy cha đã bỏ bê ra sao, cha vẫn tin vào hệ thống riêng của mình. Như một nhà phát minh điên rồ bảo vệ cho bí mật của chiếc máy hoạt động không ngừng, cha sẽ không cho phép ai quấy nhiễu nó. Một lần, khi vợ tôi và tôi phải chuyển từ căn hộ này sang căn hộ khác, chúng tôi ở lại nhà cha trong vòng ba đến bốn tháng. Cảm thấy bóng tối trong nhà quá ngột ngạt, chúng tôi cuốn tất cả những rèm che trong nhà để ánh sáng tràn vào. Khi cha tôi đi làm về và thấy việc chúng tôi đã làm, ông bùng lên một cơn thịnh nộ không kiểm soát được, vượt xa khỏi giới hạn của bất cứ sự chống trả nào có thể đưa ra.
Sự giận dữ kiểu ấy hiếm khi được ông bộc lộ - chỉ có những lúc cha cảm thấy bản thân phiền hà vì sự vi phạm vào thế giới riêng, bị quấy nhiễu bởi sự tồn tại của người khác. Các rắc rối về tiền bạc đôi khi cũng khiến cơn giận ấy bùng nổ. Hoặc nếu không thì một tiểu tiết khác: rèm che trong nhà ông, một chiếc đĩa vỡ, một chuyện vặt vãnh không đáng kể.
Dù sao đi nữa, cơn giận đã sẵn ở trong ông – tôi luôn tin điều ấy. Như ngôi nhà đã được sắp xếp đâu vào đấy và đồng thời cũng đang rã nát từ bên trong, người đàn ông trong cha bình lặng, sự điềm tĩnh của cha gần như là siêu nhiên, và đồng thời cũng là nạn nhân của một sự xáo trộn, một sức mạnh không chặn nổi của cơn giận dữ nội tại. Cả đời, cha đã vật lộn để tránh khỏi sức mạnh ấy, chăm bón cho lối cư xử quán tính cho phép ông né được nó. Trông cậy vào những thói quen cố định cho phép ông thoát khỏi sự cần thiết phải nhìn vào chính mình khi phải đưa ra quyết định; những lời sáo rỗng mau chóng đậu lên môi ông (“Một đứa bé xinh xắn đấy. Chúc may mắn nhé.”) thay vì những lời cha phải bước ra và tìm kiếm. Tất cả những điều này khiến cho ông thẳng bẹt ra, về phương diện cá tính. Nhưng cùng lúc, đó cũng là điều đã cứu ông, là điều cho phép ông sống. Nói đúng hơn là ông có thể sống là nhờ vào nó.
* * *
Từ một chiếc túi chứa các tấm ảnh rời: một tấm ảnh kiểu trừu tượng được chụp vào khoảng những năm bốn mươi. Cha phân thân thành nhiều người ngồi xung quanh một cái bàn, mỗi phân thân đó lại được chụp từ một góc khác, nên thoạt đầu bạn tưởng đó là một nhóm rất nhiều người khác nhau. Bởi bóng tối chạng vạng vây quanh họ, bởi sự đứng yên tuyệt đối của mỗi tư thế, nên trông như thể họ tập trung lại để làm lễ gọi hồn. Và rồi, khi bạn nghiên cứu tấm ảnh, bạn bắt đầu nhận những kẻ đó chỉ là một người. Cuộc gọi hồn biến thành một cuộc gọi hồn thực sự, và như thể cha đã đến đó để triệu hồn chính mình, để đưa bản thân mình về từ cõi chết, như thể, bằng cách phân mình ra, ông đã tình cờ làm chính mình biến mất. Có năm phân thân của cha ở đó, và đặc tính của thứ ảnh chỉnh sửa cấy ghép này đã từ chối khả năng tạo ra tương tác mắt giữa các phân thân ấy. Mỗi phân thân bị cưỡng ép luôn phải nhìn vào khoảng không, cứ như chịu sự kiểm soát của những kẻ khác, nhưng chẳng nhìn gì cả, chẳng bao giờ có thể nhìn thấy gì. Đó là một tấm ảnh của cái chết, chân dung của người vô hình.
Image
Cứ từ từ, tôi dần hiểu được sự kỳ quặc của nhiệm vụ mà tôi tự trao cho mình. Tôi cảm thấy như mình đang cố gắng đi tới đâu đó, như thể tôi biết mình muốn nói điều gì, nhưng càng đi xa, tôi càng thấy rõ là con đường dẫn tôi tới kẻ kia chẳng hề tồn tại. Tôi phải phát minh ra con đường, từng bước một, và điều này có nghĩa là tôi sẽ chẳng bao giờ chắc chắn rằng mình đang ở đâu. Cảm giác rằng mình đang xoay mòng mòng, của việc phải tìm kiếm rồi từ bỏ mãi mãi, của việc phải khởi hành về nhiều hướng cùng lúc. Và kể cả khi tôi xoay xở tiến lên được tí chút, tôi cũng không cảm thấy được thuyết phục rằng điều ấy sẽ đưa tôi đến với nơi tôi nghĩ mình đang đến. Không hẳn là vì bạn đang lang thang trong sa mạc thì có nghĩa là sẽ có vùng đất hứa.
Khi tôi mới bắt đầu, tôi nghĩ mọi chuyện sẽ đến rất ngẫu nhiên, như một dòng thác miên man. Thật tuyệt vời khi tôi thấy cần viết ra, tôi nghĩ câu chuyện sẽ tự viết về nó. Nhưng hóa ra từ ngữ cho tới giờ xuất hiện thật chậm chạp. Thậm chí trong ngày viết lách hiệu quả nhất tôi cũng không thể viết được nhiều hơn một hoặc hai trang. Dường như tôi bị hành hạ, nguyền rủa vì sự mất tập trung của trí não trước điều mình đang làm. Hết lần này đến lần khác, tôi thấy ý nghĩ của mình trượt khỏi những điều ngay trước mắt mình. Ngay khi tôi nghĩ tới điều này thì nó lại gợi cho tôi về điều khác, và rồi một điều khác nữa, cho đến khi đống chồng chất của các chi tiết quá ngợp đến mức tôi thấy mình muốn nghẹt thở. Chưa bao giờ tôi nhận thấy rõ đường nứt rạn giữa suy nghĩ và viết lách như lúc này. Trên thực tế trong mấy ngày qua, tôi bắt đầu cảm thấy rằng câu chuyện mình đang cố kể dường như không có sự nối kết ngôn ngữ, rằng mức độ phi ngôn ngữ lại chính là thước đo chính xác những gì quan trọng tôi muốn nói, và rằng vào đúng cái lúc tôi dự cảm được cái gì quan trọng (giả như có thật), thì tôi lại không sao nói ra được.
Đã có một vết thương lòng và giờ tôi nhận ra là nó thực sự sâu sắc. Thay vì chữa lành cho bản thân như tôi từng nghĩ, việc viết ra chỉ khiến cho vết thương này hở miệng. Có những lúc tôi thậm chí cảm nhận rõ nỗi đau từ nó tập trung lại trên bàn tay phải, như thể mỗi lần tôi nhấc chiếc bút và ấn lên trang giấy, bàn tay tôi lại bị toạc ra thành trăm mảnh. Thay vì chôn cất cha hộ tôi, những từ ngữ ấy đã giữ cha sống động, có thể là còn hơn bao giờ hết. Tôi không chỉ thấy cha như cha trong quá khứ, mà còn cả ở hiện tại và tương lai, và mỗi ngày ông ở đó, xâm nhập vào dòng suy nghĩ của tôi, rình bám lấy tôi không lời cảnh báo: nằm trong quan tài dưới lòng đất, thân thể cha vẫn y nguyên, móng tay và râu tóc của ông vẫn tiếp tục mọc. Có cảm giác rằng nếu tôi định hiểu điều gì, tôi phải thâm nhập vào hình ảnh của bóng tối đó, tôi phải bước vào vùng tối tuyệt đối của trái đất.
Kenosha, Wiscosin. 1911 hoặc 1912. Thậm chí cha cũng không chắc chắn về ngày tháng. Trong sự hỗn loạn của một gia đình nhập cư đông đúc, chuyện ngày sinh tháng đẻ không được coi là quan trọng cho lắm. Điều quan trọng là cha là một trong năm đứa con còn sống sót – một con gái và bốn con trai, tất cả đều được sinh ra trong vòng tám năm – và chuyện mẹ của cha, một người phụ nữ bé tí, khắc nghiệt chỉ nói được đôi chút tiếng Anh, là người đã buộc các thành viên lại với nhau. Bà là nữ chúa, kẻ độc tài thực thụ, nhà cầm quyền đứng giữa trung tâm vũ trụ.
Cha của cha mất năm 1919, có nghĩa là trừ đi quãng thời gian còn bé xíu ông chẳng có cha. Trong suốt thời thơ ấu của tôi cha đã kể cho tôi nghe ba câu chuyện khác nhau về cái chết của cha mình. Trong một phiên bản, ông tôi đã chết trong một tai nạn lúc đi săn. Trong phiên bản khác, ông bị ngã thang. Trong phiên bản thứ ba, ông đã bị bắn chết trong cuộc chiến tranh thế giới thứ Nhất. Tôi biết sự mâu thuẫn ấy chẳng có nghĩa gì, nhưng tôi đoán điều này có nghĩa là thậm chí cha cũng chẳng biết sự thật ở đâu. Bởi vì cha còn quá bé khi chuyện ấy xảy ra – chỉ mới bảy tuổi – tôi cho rằng cha chưa bao giờ được nghe kể lại câu chuyện chính xác. Nhưng rồi, chuyện ấy cũng thật vô lý. Một trong các ông anh chắc chắn phải từng kể cho cha nghe.
Tuy nhiên, tất cả anh chị em họ của tôi bảo với tôi là họ cũng nhận được nhiều lời giải thích khác nhau về chuyện đó từ cha mình.
Không ai từng nói về ông nội tôi. Phải cho đến vài năm trước, tôi chưa từng thấy một tấm hình nào của ông. Cứ như thể cả gia đình đều quyết định xem như ông chưa từng tồn tại.
Trong số những tấm ảnh tôi tìm thấy trong nhà của cha mình tháng trước có một tấm chân dung gia đình từ những ngày đầu ở Kenosha. Tất cả con cái đều có mặt trong đó. Cha tôi, chưa đầy một tuổi, đang ngồi trong lòng mẹ, và bốn đứa con khác đứng quanh bà giữa một bãi cỏ cao chưa cắt. Có hai cái cây đằng sau họ và một căn nhà gỗ thật to đằng sau mấy cái cây. Cả một thế giới dường như hiện lên cùng với tấm chân dung này: một quãng thời gian khác biệt, một nơi chốn khác biệt, một cảm giác không thể nào xóa đi được về quá khứ. Lần đầu tiên nhìn vào tấm ảnh, tôi nhận ra nó đã bị rách toạc ra ở đoạn giữa và được dán lại một cách vụng về, khiến một trong số mấy cái cây ở đằng sau như lơ lửng trong không khí. Tôi cho rằng tấm ảnh đã bị vô tình xé rách và chẳng buồn nghĩ gì về nó nữa. Tuy nhiên, lần thứ hai nhìn nó, tôi nghiên cứu chỗ rách ấy kỹ hơn và nhận ra những điều tôi đã mờ mắt mà bỏ qua trong lần trước. Tôi thấy đầu ngón tay của một người đàn ông bám lấy thân hình của một người bác; tôi thấy, rất rõ ràng, rằng một người bác khác không đặt tay lên lưng em trai mình, như thoạt đầu tôi đã lầm tưởng, mà lên một chiếc ghế đã không còn ở đó. Và rồi tôi nhận ra điểm lạ lùng trong tấm ảnh: ông nội tôi đã bị xé ra khỏi nó. Tấm ảnh trở nên kỳ dị vì một phần của nó đã bị loại bỏ. Ông tôi đã ngồi trong một chiếc ghế cạnh vợ với một đứa con trai đứng giữa hai đầu gối – và ông không còn ở đó. Chỉ có đầu ngón tay ông còn lại: như thể ông đang cố bò trở lại vào tấm ảnh từ một cái hố sâu của thời gian, như thể ông đã bị hút vào một chiều không gian khác.
Tất cả những điều ấy khiến tôi run rẩy.
* * *
Tôi biết được về cái chết của ông nội vào một dịp gần đây. Nếu không phải vì một sự tình cờ đáng kinh ngạc, chuyện ấy có lẽ sẽ chẳng bao giờ được biết đến.
Năm 1970, một người chị họ của tôi tới châu Âu nghỉ mát với chồng. Trên máy bay, chị ngồi cạnh một ông cụ và, như lẽ thường người ta vẫn làm, họ bắt chuyện để giết thời gian. Hóa ra là ông cụ đã sống ở Kenosha, Wisconsin. Chị họ tôi thấy sự tình cờ ấy thật thú vị và kể rằng cha chị đã từng sống ở đó thời bé. Vì hiếu kỳ, ông cụ hỏi họ của gia đình là gì. Khi chị đáp là Auster, cụ ông trở nên tái mét. Auster? Bà nội chị không phải là mụ đàn bà tóc đỏ bé nhỏ điên khùng đấy chứ? Phải, đó là bà tôi, chị họ tôi trả lời. Một bà tóc đỏ bé nhỏ điên khùng.
Và rồi ông cụ kể cho chị nghe câu chuyện ấy. Chuyện đã xảy ra từ hơn năm mươi năm trước, nhưng cụ vẫn nhớ được những chi tiết quan trọng.
Khi cụ già quay lại nhà sau kỳ nghỉ, cụ lần lại những bài báo liên quan đến câu chuyện, sao lại chúng và rồi gửi cho chị họ của tôi. Đây là lá thư đính kèm của cụ:
Image
Ngày 15 tháng Sáu, 70
– và – thân mến,
Thật tốt khi nhận được thư của anh chị, và dù thoạt nhìn thì có vẻ công việc này rất phức tạp, nhưng tôi đã gặp may. – Fran và tôi đi ăn tối với Fred Plons, vợ ông ta, và cha của Fred là người đã mua khu chung cư ở Park Ave từ gia đình chị. – anh Plons trẻ hơn tôi khoảng ba tuổi, nhưng anh ấy khẳng định rằng vụ việc (vào thời điểm ấy) khiến anh rất chú ý và nhớ được kha khá chi tiết. – Anh ấy nói rằng ông nội của chị là người đầu tiên được chôn cất tại nghĩa trang Do Thái ở Kenosha này. – (Trước năm 1919 người Do Thái không có nghĩa trang tại Kenosha, mà chôn cất người thân yêu của họ tại Chicago hay Milwaukee.) Với thông tin ấy, tôi chẳng vất vả gì trong việc ra mộ của ông nội chị. – Và tôi có thể xác định được ngày tháng. Phần còn lại là những bản sao mà tôi gửi cho chị đây. –
Tôi chỉ yêu cầu là không nên cho cha chị biết những thông tin mà tôi trao cho chị – tôi không muốn ông phải thêm đau khổ sau những gì ông đã chịu đựng…
Tôi hy vọng điều này sẽ soi tỏ hơn về lối ứng xử của cha chị suốt những năm qua.
Gửi tới cả hai anh chị tấm lòng trân trọng nhất –
Ken & Fran
* * *
Những bài báo ấy đang nằm trên bàn làm việc của tôi. Giờ chính là khoảnh khắc để viết về chúng; tôi ngạc nhiên khi thấy mình đã cố làm mọi điều để gạt chuyện ấy sang một bên. Tôi đã trì hoãn việc ấy suốt buổi sáng. Tôi mang rác đi vứt. Tôi chơi với Daniel trong sân cả tiếng đồng hồ. Tôi đọc toàn bộ báo chí – đến tận bảng điểm xếp hạng của những trận đấu bóng chày khởi động của mùa xuân. Thậm chí ngay cả lúc này, khi tôi viết về sự miễn cưỡng phải viết, tôi thấy mình nôn nóng một cách bất bình thường: cứ sau vài từ, tôi lại nhảy bật lên khỏi ghế, dậm bước trên sàn, lắng nghe tiếng gió bên ngoài khi nó đập những máng nước bám một cách lỏng lẻo vào ngôi nhà. Thứ nhỏ nhặt nhất cũng có thể khiến tôi phân tâm.
Tôi không e sợ sự thật. Tôi thậm chí không ngại nói ra điều ấy. Bà nội tôi đã giết ông nội. Vào ngày 23 tháng Một năm 1919, chính xác đúng sáu mươi năm trước ngày cha tôi mất, mẹ ông đã bắn chết cha ông trong căn bếp thuộc ngôi nhà của gia đình trên phố Fremont ở Kenosha, Wisconsin. Sự thật ấy không làm tôi thấy phiền lòng như đáng lẽ phải như vậy. Điều khó khăn là phải thấy chúng ở trong những dòng chữ in – không được chôn giấu, phải nói là như vậy, trong lãnh địa của bí mật và trở thành một sự kiện cộng đồng. Có hơn hai mươi bài báo, hầu hết là dài, tất cả đều đăng trên tờ Kenosha Evening News. Thậm chí là qua những đoạn viết chỉ đọc được đôi chút, gần như đã bị mờ hết bởi thời gian và đã bị nhòe đi vì chỉ là bản sao, chúng vẫn khiến cho người ta phải sốc. Tôi đoán chúng đều là những bài báo điển hình vào thời đó, nhưng cũng chẳng khiến chúng bớt đi tính giật gân. Chúng là sự trộn lẫn giữa gièm pha và thương cảm, li kỳ hóa với yếu tố là những người liên đới đều là dân Do Thái – vì thế mà thật lạ lùng, gần như có sẵn trong định nghĩa – điều làm cho toàn bộ lối viết có một âm điệu như hạ cố, trêu ngươi. Và nữa, cứ cho là có khiếm khuyết trong cung cách, thì những chi tiết có thật cũng được nói đến. Tôi không nghĩ là chúng có thể giải thích cho tất cả mọi điều, nhưng không có gì phải thắc mắc rằng chúng đã giải thích được phần lớn. Một cậu bé không thể trải qua chuyện như vậy mà chẳng bị ảnh hưởng gì khi đã trưởng thành.
* * *
Bên rìa những bài báo đó, tôi chỉ cố gắng đoán ra được vài mảnh tin tức nhỏ hơn vào khoảng thời gian ấy, những sự kiện trở thành thứ yếu thậm chí là không đáng kể khi so sánh với vụ giết người. Ví dụ: Vớt được xác của Rosa Luxemburg từ kênh Landwehr. Ví dụ: Hội nghị hòa bình tại Versailles. Và cứ thế, cứ thế, ngày qua ngày, theo dòng sự kiện: vụ Eugene Debs; ghi nhận về bộ phim đầu tiên của Caruso (“Các trường hợp… được miêu tả là rất kịch tính và đầy xúc động làm run rẩy con tim”); các bản tin về cuộc nội chiến tại Nga; đám tang của Karl Liebnecht và ba mươi mốt người theo phong trào Spartacus khác (“Hơn năm mươi ngàn người tuần hành trên một đoạn đường dài tới năm dặm. Hai mươi lăm phần trăm số này đội vòng hoa. Không có tiếng la hét hoặc cười nói nào”); luật cấm rượu khắp cả nước được phê chuẩn (“William Jennings Bryan – người đã làm cho món nước nho trở nên nổi tiếng – đã ở đó với một nụ cười rộng mở”); cuộc biểu tình của ngành sợi ở Lawrence, Massachusetts, dẫn đầu bởi hội Wobbly; cái chết của Emiliano Zapata, “kẻ dẫn đầu băng cướp ở nam Mexico”, Winston Churchill; Bela Kun, Lãnh tụ Lenine (nguyên văn); Woodrow Wilson; Dempsey đấu lại Willard.
Tôi đã đọc qua cả loạt bài báo về vụ giết người hàng tá lần. Thế mà, tôi vẫn cảm thấy khó mà tin nổi là tôi không mơ về chúng. Chúng ám vào tôi với tất cả sức mạnh từ sự giảo hoạt của vô thức, làm biến dạng thực tế theo đúng cách giấc mơ vẫn làm. Bởi vì những cái tiêu đề lớn quanh vụ giết người khiến mọi thứ khác trên thế giới xảy ra trong ngày hôm ấy trở nên bé nhỏ, chúng đem đến cho vụ việc vẻ trọng đại chẳng khác gì những điều xảy ra trong đời sống riêng của chúng ta. Nó gần như là bức tranh do một đứa trẻ vẽ ra khi đứa nhỏ đang phải đối mặt với nỗi niềm không sao diễn tả nổi: điều quan trọng nhất luôn là thứ được vẽ to nhất. Bố cục bị lạc vào trong sự ưu tiên cho tỷ lệ thức – điều không được quy định bởi mắt mà bởi yêu cầu của trí não.
Tôi đọc những bài báo đó như thông tin lịch sử. Nhưng cũng như những hình vẽ hang động trên mặt trong của chính bộ xương mình.
Tiêu đề trong ngày đầu tiên, 24 tháng Một, chiếm hết hơn một phần ba trang đầu.
HARRY AUSTER BỊ GIẾT
VỢ BỊ CẢNH SÁT BẮT
– – –
Ông Trùm Bất Động Sản Đã Bị Bắn Chết trong Bếp Ngôi Nhà của Chính Vợ Mình vào Đêm Thứ Năm Sau Một Vụ Cãi Cọ Về Tiền Bạc – và Một Phụ Nữ Khác.
– – –
BÀ VỢ NÓI CHỒNG MÌNH TỰ TỬ
Người đã chết Có Một Vết Thương trên Cổ và bên Hông Trái và bà Vợ Thừa Nhận rằng Khẩu Súng Đã Được Sử Dụng Là Thuộc Sở Hữu Của Mình – Cậu Con Trai Chín Tuổi, Nhân Chứng của Bi Kịch, Có Thể Là Người Biết Rõ Bí Mật
Theo bài báo, “Ông Auster và vợ đã ly thân được một thời gian và đơn xin ly hôn đang được xử lý tại Tòa Án Khu Vực quận Kenosha. Họ đã có nhiều trục trặc trong vấn đề tiền nong. Họ cũng đã tranh cãi quanh sự thật là ông Auster có quan hệ (bất chính) với một phụ nữ mà bà vợ gọi là ‘Fanny.’ Người ta tin rằng ‘Fanny’ gây ra mâu thuẫn giữa gia đình Auster và bà vợ đã ngay lập tức rút súng ra bắn…”
Bởi bà nội tôi không thú nhận gì cho đến tận ngày hai mươi tám, nên đã có nhiều bàn tán về việc chuyện gì đã thực sự xảy ra. Ông nội tôi (ba mươi sáu tuổi) về nhà lúc sáu giờ tối với “mấy bộ quần áo” cho hai đứa con trai lớn “và theo lời nhân chứng thì ông đang ở trong phòng ngủ để dỗ bé Sam, con trai út, đi ngủ. Sam [cha tôi] khẳng định là không nhìn thấy mẹ lấy khẩu súng ra khỏi nệm khi cậu bé được đưa vào giường ngủ đêm hôm đó.”
Có vẻ như sau đó ông tôi đã đi vào bếp để sửa một cái công tắc điện và một trong số các ông bác của tôi cầm nến soi cho ông. “Cậu bé khẳng định rằng cậu đã trở nên hoảng loạn khi nghe thấy tiếng nổ và ánh sáng lóe lên từ một khẩu súng, bèn bỏ chạy ra khỏi phòng.” Theo lời bà nội tôi, chính chồng bà đã tự bắn mình. Bà thừa nhận là họ đã cãi nhau về tiền bạc, và “rồi ông ấy nói, bà tiếp tục, ‘phải có người phải kết thúc hoặc là cô hoặc là tôi,’ ông ấy đe dọa tôi. Tôi không biết ông ấy giữ khẩu súng. Tôi đã giấu nó dưới nệm giường của mình và ông ấy biết chuyện ấy.”
Vì bà tôi chẳng nói được chữ tiếng Anh nào, tôi đoán là lời phát biểu này, cũng như mọi lời mà người ta gán cho bà, đều chỉ do các phóng viên bịa đặt ra. Dù bà nói gì đi nữa, cảnh sát không hề tin lời bà. “Bà Auster đã nhắc đi nhắc lại lời mình với nhiều vị cảnh sát khác nhau mà không có chút thay đổi nào trong đó và bà tỏ ra vô cùng kinh ngạc khi được thông báo là sẽ bị cảnh sát bắt giữ. Với một vẻ hết sức dịu dàng bà hôn chúc ngủ ngon bé Sam rồi tới nhà tạm giam của quận.
“Hai cậu bé nhà Auster đã là khách của sở cảnh sát đêm qua, ngủ tại phòng tập trung và sáng nay thì có vẻ đã hồi phục sau cơn chấn động mà chúng phải chịu đựng với thảm kịch tại nhà.”
Phần cuối bài báo, thông tin đưa ra xoay quanh ông nội tôi. “Harry Auster xuất thân từ nước Áo. Ông đến đất nước này nhiều năm trước và đã cư ngụ tại Chicago, Canada, và Kenosha. Ông và vợ mình, theo như lời của cảnh sát, sau đó đã quay về Áo nhưng bà đã trở lại cùng chồng lúc họ chuyển đến Kenosha. Gia đình Auster mua một số căn nhà tại phường số hai và một thời gian sau việc làm ăn của ông mở rộng ra thành quy mô lớn. Ông xây một tòa nhà chung cư ba tầng lớn ở đại lộ South Park và một cái khác được biết với tên chung cư Auster trên phố South Exchange. Sáu hoặc tám tháng trước đó ông đã gặp phải vài trục trặc tài chính…
“Một quãng thời gian trước, bà Auster đã yêu cầu cảnh sát giúp đỡ bà trong việc theo dõi ông Auster khi bà khăng khăng cho rằng ông có quan hệ với một phụ nữ trẻ mà bà tin là cần phải điều tra. Đó chính là cách mà cảnh sát lần đầu được nghe đến người phụ nữ có tên ‘Fanny’…
“Nhiều người đã gặp gỡ, nói chuyện với ông Auster vào chiều thứ Năm, tất cả đều khẳng định rằng ông có thái độ bình thường và chẳng có dấu hiệu gì của việc sẽ tự sát…”
* * *
Ngày tiếp theo là quá trình điều tra về cái chết. Bác tôi, với tư cách là nhân chứng duy nhất của vụ việc, đã được gọi đến lấy lời khai. “Một cậu bé có đôi mắt buồn bã, căng thẳng vặn chiếc mũ len, viết ra những tình tiết khác trong vụ giết người bí ẩn của nhà Auster vào chiều thứ Sáu… Nỗ lực của cậu bé để giữ lấy danh dự cho gia đình thật đáng tội nghiệp. Hết lần này đến lần khác, khi được hỏi cha mẹ có cãi nhau hay không, cậu bé trả lời ‘Họ chỉ nói chuyện thôi’ cho đến cuối cùng, có vẻ như đã nhớ ra lời tuyên thệ của mình, cậu bé nói thêm ‘có thể là có cãi nhau – chỉ một chút thôi ạ.’” Bài báo miêu tả ban hội thẩm như bị khuấy đảo một cách kỳ cục bởi nỗ lực để che chắn cho cả cha và mẹ của cậu bé.”
Ý tưởng về việc tự tử rõ ràng là không rửa sạch được điều gì. Trong đoạn viết cuối cùng, phóng viên viết rằng “những người thi hành luật pháp càng lúc càng tỏ ra ngạc nhiên.”
* * *
Rồi tới chuyện đám tang. Nó tạo cho một phóng viên ẩn danh cơ hội được tranh đua với cách diễn đạt như kịch thời Victoria. Vào thời điểm này vụ giết người không chỉ là một vụ rùm beng. Nó đã trở thành một màn giải trí sôi động.
GÓA PHỤ TỈNH KHÔ TRƯỚC MỘ AUSTER
– – –
Bà Anna Auster Tham Dự Lễ Tang Của Chồng,
Harry Auster, Ngày Chủ Nhật Dưới Sự Giám Sát
– – –
“Mắt ráo hoảnh và không có chút dấu hiệu của đau thương nào, bà Harry Auster, người bị giam giữ tại đây vì nghi liên đới tới cái chết bí ẩn của chồng bà, Harry Auster, tới dự lễ tang của ông, vào sáng Chủ Nhật dưới sự giám sát, vì mối liên quan tới cái chết dẫn đến việc bà bị bắt giữ.
“Dù ở nhà tù Crossin, nơi bà được chuyển đến đầu tiên kể từ đêm thứ Năm vì cái chết của chồng hay nơi chôn cất ông bà cũng không hề để lộ chút yếu lòng. Chút biểu lộ duy nhất của bà phá vỡ vẻ cứng cỏi đáng kinh ngạc trước thách thức khi trước ngôi mộ, sau khi tang lễ đã được hoàn tất, bà đòi được nói chuyện với đức cha. M. Hartman, mục sư tại giáo đoàn B’nai Zadek…
“Khi các nghi lễ đã hoàn tất, bà Auster bình thản cài khuy cổ áo lông cáo sát vào cổ và ra dấu cho các cảnh sát là bà đã sẵn sàng rời đi…
“Sau một buổi lễ mang tính tôn giáo, đoàn đưa tang lễ tập trung trên phố Wisconsin. Bà Auster hỏi rằng liệu bà có được phép đi theo đến chỗ huyệt mộ không và yêu cầu ấy vốn đã được bên cảnh sát đồng ý sẵn. Bà có vẻ hậm hực khi thấy không có chiếc xe nào được chuẩn bị cho mình, có thể bà đang hồi tưởng khoảng thời gian ngắn ngủi của sự giàu có phô phang khi chiếc xe Limousine của nhà Auster lượn quanh Kenosha…
“… Quãng thời gian thách thức dài đến bất thường bởi vài chậm trễ trong quá trình chuẩn bị cho ngôi mộ và khi đợi, bà gọi Sam, con trai út, lại chỗ mình, rồi xăn lại cổ áo khoác của cậu chặt hơn quanh cổ. Bà khe khẽ nói với cậu bé, đây là một ngoại lệ vì bà im lặng cho đến khi các nghi lễ thực hiện xong.
“Một nhân vật đáng chú ý tại buổi lễ là Samuel Auster, sống ở Detroit, em trai của Harry Auster. Ông dành sự quan tâm đặc biệt cho những đứa cháu nhỏ hơn và cố an ủi chúng qua cơn đau khổ.
“Trong cách phát biểu và cử chỉ, ông Auster tỏ ra rất cay đắng về cái chết của anh trai. Ông tỏ rõ rằng mình không tin chuyện tự tử và đặc biệt nhấn mạnh thái độ buộc tội với bà góa phụ…
“Đức cha M. Hartman… có bài thuyết giáo tại ngôi mộ. Cha than tiếc là người đầu tiên được chôn cất tại nghĩa trang mới lại là người bị giết trong bạo lực và có đạo đức tốt đẹp. Cha ca ngợi sự nghiệp của Harry Auster cũng như xót xa cho cái chết quá sớm của ông.
“Bà góa phụ tỏ ra không chút xúc động trước sự ngợi ca dành cho người chồng quá cố của mình. Bà thản nhiên mở áo khoác để giáo trưởng rạch lên chiếc áo len đan tay của bà, hành động tượng trưng cho nỗi đau xót trong quan niệm của người Do Thái.
“Giới chức tại Kenosha thất bại trong việc gạt bỏ nghi ngờ rằng ông Auster đã bị vợ sát hại…”
* * *
Bài báo ngày tiếp theo, 26 tháng Một, đăng tin về lời thú tội. Sau buổi gặp gỡ với giáo sĩ Do Thái của mình, bà đã yêu cầu được nói chuyện với cảnh sát trưởng. “Khi bước vào phòng, bà run rẩy một chút và hơi bối rối khi cảnh sát trưởng đưa cho bà một chiếc ghế. ‘Bà biết là cậu con nhỏ của bà đã nói gì với chúng tôi rồi đấy,’ vị cảnh sát trưởng bắt đầu khi ông nhận ra khoảnh khắc yếu mềm đã đến. ‘Bà không muốn chúng tôi nghĩ cháu đã nói dối chúng tôi, phải không nào?’ Và bà mẹ, người đã mang bộ mặt kín bưng che giấu mọi điều kinh hoàng bên trong suốt nhiều ngày, đã xé toạc lớp ngụy trang, đột nhiên trở nên rất dịu dàng và nức nở kể ra bí mật khủng khiếp của mình. ‘Cháu không hề nói dối các ông; tất cả những điều cháu kể đều đúng. Tôi đã bắn ông ấy và tôi muốn nhận tội.’”
Đây là lời khai chính thức của bà: “Tên tôi là Anna Auster. Tôi bắn Harry Auster tại thành phố Kenosha, Wisconsin vào ngày 23 tháng Một năm 1919. Tôi đã nghe mọi người nhận định rằng có ba phát súng được bắn ra, nhưng tôi không nhớ rõ có bao nhiêu phát súng được bắn ra ngày hôm ấy. Lý do tôi bắn ông Harry Auster là vì thực tế rằng ông ta, Harry Auster, đã hành hạ tôi. Tôi đã như phát điên khi tôi bắn Harry Auster. Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện bắn ông Harry Auster cho đến khoảnh khắc tôi bắn ông ta. Tôi nghĩ đây chính là khẩu súng tôi đã dùng để bắn ông Harry Auster. Tôi cung cấp lời khai này trên tinh thần tự nguyện, không hề có sự ép buộc nào.”
Phóng viên tiếp tục, “Trên chiếc bàn trước mặt bà Auster đưa ra khẩu súng đã dùng để bắn chết chồng. Khi nhắc đến khẩu súng, bà run rẩy chạm vào nó và rồi rụt tay lại với một vẻ rùng mình kinh hãi rõ rệt. Không nói lời nào, cảnh sát trưởng đặt khẩu súng sang một bên và hỏi bà Auster rằng bà muốn nói điều gì không.
“‘Giờ thì chỉ thế thôi,’” bà trả lời mạch lạc. ‘Ngài ký cho tôi rồi tôi điểm chỉ.’
“Yêu cầu của bà – trong một khoảnh khắc ngắn bà lại trở về với vẻ trịnh trọng – được thực hiện, bà xác nhận chữ ký, và yêu cầu được trở về phòng giam…”
Trong phiên tòa buộc tội ngày hôm sau, lời bào chữa rằng không có tội đã được luật sư của bà đệ trình. “Nhồi kín trong một chiếc áo khoác vải lông và khăn choàng lông cáo, bà Auster bước vào phòng xử án… Bà mỉm cười với bạn bè trong đám đông và ngồi xuống trước bàn.”
Với sự quan sát của chính người phóng viên, phiên tòa “khá yên ả”. Nhưng dù thế, anh ta cũng không thể bỏ qua được việc miêu tả rằng: “Một vụ việc xảy ra khi bà quay lại phòng tạm giam đã làm dấy lời bình luận về trạng thái tinh thần của bà Auster.
“Một phụ nữ, bị bắt vì tội quan hệ bất chính với một người đàn ông đã có vợ, đã bị đưa tới nhà tù để thụ án trong phòng ngục kế bên. Khi nhìn thấy bà ta, bà Auster đã hỏi về người mới đến và biết được đầu đuôi vụ việc.
“‘Cô ta phải bị phạt mười năm tù,’ bà ta nói một cách tàn nhẫn khi cánh cửa sắt sập lại. ‘Chính cái loại đàn bà đó đã đẩy tôi vào đây.’”
* * *
Sau vài cuộc hội đàm rắc rối bàn về khoản bảo lãnh được báo cáo tỉ mỉ vào vài ngày sau, bà đã được thả ra. “‘Ông thấy có khả năng nào là người phụ nữ này sẽ không xuất hiện tại phiên tòa xét xử hay không?” Tòa hỏi các luật sư bào chữa. Luật sư Baker là người trả lời: “Một người phụ nữ với năm đứa con thơ thế này thì đi đâu được? Bà ấy gắn với chúng và tòa có thể thấy chúng bám lấy bà.’”
Bốn tuần trôi qua trong im lặng. Rồi, tới ngày 8 tháng Hai, có một bài về “một thông tin bổ sung khác về nguyên nhân vụ việc được đưa ra trên vài tờ báo tiếng Do Thái xuất bản tại Chicago. Một số tờ báo đã đăng các bài tranh cãi về vụ án của bà Auster và người ta khẳng định rằng những bài báo này thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần biện hộ dành cho bà.
“Chiều thứ Sáu, bà Auster với một đứa con ngồi trong văn phòng luật sư của bà và những bài báo đó được đọc lên. Bà khóc nức nở như trẻ con khi người phiên dịch đọc cho luật sư nghe nội dung trong các bài báo…
“Luật sư Baker tuyên bố vào sáng nay rằng điểm để biện hộ cho bà Auster là bà thuộc vào nhóm phạm tội trong tình trạng bị kích động…
“Phiên tòa xử bà Auster hứa hẹn sẽ là một trong những phiên tòa xét xử tội giết người thú vị nhất từng diễn ra tại Tòa Án Khu Vực quận Kenosha và câu chuyện thú vị về nhân tính được nêu bật để biện hộ cho người phụ nữ này đang được mong chờ là sẽ được phát triển thêm tại phiên tòa xét xử.”
* * *
Rồi không có gì khác nữa trong vòng một tháng. Vào ngày 10 tháng Ba một tiêu đề hiện lên:
ANNA AUSTER TỪNG TOAN TỰ TỬ
– – –
Vụ tự tử diễn ra tại Peterboro, Ontario năm 1910 – bằng cách uống phenol và rồi chuyển sang khí ga. Luật sư đã trình thông tin này ra trước tòa nhằm xin phép trì hoãn phiên xét xử để ông có đủ thời gian chăm lo cho các bản tuyên thệ. “Luật sư Baker giữ quan điểm rằng cùng lúc đó người phụ nữ này đã là mối nguy hiểm cho hai đứa con của mình và chuyện bà từng toan tự tử rất quan trọng vì nó cho thấy trạng thái tinh thần của bà Auster.”
* * *
Ngày 27 tháng Ba. Phiên xét xử đã được ấn định vào ngày 7 tháng Tư. Sau đó, một tuần lễ im lặng khác. Và rồi, vào ngày 4 tháng Tư, như thể tình tình có vẻ trở nên quá uể oải nên một diễn biến mới đã xảy ra.
ÔNG AUSTER BẮN BÀ VỢ GÓA CỦA ANH TRAI
– – –
“Sam Auster, em trai của Harry Auster… đã thực hiện hụt ý định trả thù cho cái chết của anh mình ngay vào lúc mười giờ hơn vào sáng nay với việc bắn vào bà Auster… Vụ bắn súng xảy ra ở ngay ngoài cửa hàng thực phẩm Miller…
“Ông Auster bám theo bà Auster ra ngoài cửa và bắn một phát vào bà, dù bà không trúng đạn, ngã xuống vỉa hè và ông Auster quay lại cửa hàng rồi tuyên bố với các nhân chứng, ‘Ờ, tôi mừng vì mình đã làm thế.’ Rồi ông bình tĩnh đợi cảnh sát đến bắt ở đó…
“Tại sở cảnh sát… ông Auster, hết sức căng thẳng, suy sụp, giải thích cho hành vi bắn súng của mình.
“‘Ả đàn bà đó,’ ông nói, ‘đã giết chết bốn người anh em của tôi và cả mẹ tôi. Tôi đã cố gắng giúp đỡ nhưng bà ta không để tôi giúp.’ Rồi khi bị giải vào phòng giam, ông ta nức nở: ‘Chúa sẽ dẫn đường cho tôi, tôi biết điều ấy’.
“Ở trong phòng giam, ông Auster khẳng định là đã cố gắng hết sức để giúp đỡ mấy đứa con của người anh trai quá cố. Việc tòa án từ chối trao cho ông quyền giám sát thừa kế vì họ tuyên bố là người góa phụ vẫn có quyền hạn trong vụ việc đã bám lấy tâm trí ông gần đây… ‘Bà ta mà góa phụ cái gì,’ ông bình luận về vụ việc sáng nay. ‘Bà ta là một kẻ giết người và không được phép có quyền gì hết…’
“Ông Auster sẽ không bị buộc tội ngay lập tức để việc điều tra xuyên suốt vụ việc có thể được thực hiện. Cảnh sát thừa nhận là cái chết của người anh trai và những sự kiện tiếp theo có thể đã ám ảnh ông nên ông chịu hoàn toàn trách nhiệm trước hành động bộc phát của mình. Ông Auster đã nhiều lần thể hiện niềm hy vọng rằng ông muốn được chết theo và mọi biện pháp cảnh giác đã được thực thi để tránh việc ông tự kết liễu cuộc đời mình…”
Ngày hôm sau, tờ báo có thêm thông tin bổ sung này: “Ông Auster đã có một đêm đầy đau khổ trong nhà tù của thành phố. Các nhân viên cảnh sát nhiều lần thấy ông khóc lóc trong phòng giam và có vẻ rất kích động…
“Đã có xác nhận là bà Auster đã ‘rơi vào tình trạng căng thẳng tột cùng’ sau nỗi kinh hoàng đã tấn công vào sự sống của bà ngày thứ Sáu, nhưng người ta vẫn khẳng định rằng bà sẽ có mặt tại tòa án trong buổi xét xử tội trạng của bà vào tối thứ Hai.”
Sau ba ngày cả bang tạm quên vụ việc. Căn cứ vào việc vụ giết người là không có âm mưu từ trước, luật sư của quận phần lớn dựa vào lời khai của một người là bà Mathews, nhân viên tại cửa hàng thực phẩm Miller, bà khai rằng “bà Auster vào cửa hàng ba lần trong ngày hôm đó để sử dụng điện thoại. Vào một trong ba lần đó, nhân chứng kể, bà Auster gọi cho chồng và bảo ông đến nhà sửa bóng đèn. Bà kể rằng ông Auster đã hứa sẽ đến vào lúc sáu giờ.”
Nhưng kể cả khi bà mời ông vào nhà thì cũng không có nghĩa là bà đã định giết ông khi ông có mặt ở đó.
Dù sao thì cũng không có gì khác. Dù sự thật là như thế nào đi nữa, bên luật sư đã khéo léo biến tất cả mọi thứ thành có lợi cho mình. Chiến thuật của ông là đưa ra những bằng chứng đáng kinh ngạc ở hai mặt trận: Một mặt, cho thấy sự không chung thủy của ông nội tôi, và mặt khác, chứng minh tiền sử tâm thần bất ổn của bà tôi – cả hai điều ấy hòa trộn vào nhau tạo thành một vụ án giết người chính đáng hoặc giết người “vì mất kiểm soát.” Bên nào thắng cũng được.
Các điểm nhấn mạnh của luật sư Baker là nhằm chiêu dụ chút xíu sự cảm thông nào đó có thể có từ ban hội thẩm. “Ông kể ra chuyện bà Auster đã cực nhọc cùng chồng xây dựng nên tổ ấm và cuộc sống hạnh phúc từng là của cả hai ở Kenosha sau khi đã trải qua bao năm khổ ải như thế nào… ‘Rồi sau khi đã vất vả cùng nhau xây nên tổ ấm này,’ luật sư Baker tiếp tục, ‘một mỹ nhân từ thành phố xuất hiện và Anna Auster đã bị gạt sang bên như một cái bao rách. Thay vì nuôi sống gia đình, chồng bà đã nuôi Fanny Koplan trong một căn hộ tại Chicago. Tiền bạc mà bà đã chung sức làm ra bị hoang phí cho một người đàn bà xinh đẹp hơn và sau từng đó nỗi đau đớn hành hạ thì có gì phải thắc mắc khi tâm trí của bà trở nên rối loạn và trong một khoảnh khắc bà đã mất khả năng điều khiển được xúc cảm của mình.’”
Nhân chứng đầu tiên của bên biện hộ là bà Elizabeth Grossman, chị gái duy nhất của bà nội tôi, người sống tại một nông trang ở gần Brunswick, New Jersey. “Bà đã đóng vai một nhân chứng xuất sắc. Bà thuật lại toàn bộ câu chuyện về cuộc đời bà Auster một cách đơn giản; về việc bà chào đời tại Áo, về cái chết của người mẹ khi bà Auster mới lên sáu tuổi, về cuộc hành trình của chị em bà tới đất nước này tám năm sau đó; về những ngày dài làm mũ và mũ trùm đầu ở các cửa hàng trang phục nữ ở New York; về chuyện nhờ công việc này mà cô gái nhập cư có thể kiếm được vài trăm đô-la. Bà kể về cuộc hôn nhân của cô em gái với ông Auster ngay sau khi em gái bà tròn hai mươi ba tuổi và khi công việc làm ăn của họ xuống dốc; về sự thất bại của họ với một cửa hàng kẹo nhỏ và hành trình dài tới Lawrence, Kas., nơi họ định khởi đầu lại và nơi—, đứa con đầu tiên chào đời; về việc quay trở lại New York và việc thất bại lần thứ hai trong làm ăn dẫn đến phá sản và chuyến bay của nhà Auster tới Canada; về thái độ thờ ơ của ông Auster với vợ và lũ con nhỏ và chuyện ông nói ông ‘sẽ tìm lối đi riêng’ [nguyên văn] như thế nào và việc ông nói với vợ sẽ mang theo năm mươi đô-la theo người để khi ông chết, người ta có thể tìm thấy nó trong người ông và dùng nó để chôn cất ông tử tế… Bà kể là thời gia đình em gái bà còn ở Canada, họ được biết đến với tên ông bà Harry Ball…
“Nếu câu chuyện còn tồn tại chút đứt gãy không được bà Grossman giải thích thỏa đáng, thì đã được cựu nguyên soái Archie Moore và Abraham Low lo liệu, cả hai đều đến từ quận Peterboro, Canada. Những người này kể lại chuyện ông Auster rời khỏi Peterboro và nỗi đau khổ của người vợ. Ông Auster, theo lời họ, rời khỏi Peterboro vào ngày 14 tháng Bảy năm 1909, và ngày hôm sau ông Moore phát hiện bà Auster với tình trạng bị ngạt khí ga trong ngôi nhà tồi tàn của họ. Bà và lũ trẻ nằm trên chiếc chiếu trải trên sàn khi ga phun ra từ bốn vòi đang mở. Moore kể thêm chi tiết nữa là ông đã tìm thấy một lọ đựng phenol trong phòng, trên môi của bà Auster có dấu vết của chất hóa học đó. Bà được đưa vào bệnh viện, nhân chứng khẳng định, và liệt giường trong nhiều ngày sau. Cả hai người đàn ông này đều cho biết là theo quan điểm của họ thì chẳng có gì nghi ngờ rằng bà Auster đã bộc lộ dấu hiệu mất trí vào lúc bà định kết liễu đời mình tại Canada.”
Các nhân chứng khác bao gồm hai đứa con lớn, mỗi đứa kể lại theo trình tự thời gian các vấn đề nội bộ của gia đình. Phần lớn là vì Fanny, và những trận cãi vã thường xuyên ở nhà. “Cậu bé kể rằng ông Auster có thói quen ném đĩa và đồ thủy tinh, có một lần mẹ cậu đã bị thương rất sâu và cần phải gọi một người băng bó đến chăm sóc cho bà. Cậu bé khẳng định rằng cha cậu đã dùng những từ ngữ tục tĩu và sỉ nhục với mẹ mình trong những lúc ấy…”
Một nhân chứng khác từ Chicago phát biểu rằng bà thường xuyên thấy bà nội tôi dập đầu vào tường trong những cơn giận dữ cuồng nộ. Một cảnh sát tại Kenosha kể lại đã có lần “nhìn thấy bà Auster chạy điên cuồng xuống phố ra sao. Ông mô tả rằng tóc bà ‘ít nhiều’ rối bời và bổ sung thêm là bà cư xử như một người mất trí.” Một bác sĩ cũng được gọi đến, và ông khẳng định bà mắc chứng “rối loạn hưng cảm.”
Bà nội tôi trình bày lời khai trong ba tiếng. “Giữa những tiếng sụt sùi và đầm đìa nước mắt, bà kể lại câu chuyện đời mình với ông Auster cho đến thời điểm xảy ra ‘tai nạn’… Bà Auster đối mặt với thử thách khi trả lời các câu hỏi với thái độ rất vững vàng, và câu chuyện của bà được kể đi kể lại ba lần mà gần y như nhau.”
Kết luận là “luật sư Baker đã đưa ra được lời bào chữa đầy xúc động để thả tự do cho bà Auster. Trong một bài phát biểu kéo dài gần một giờ rưỡi, ông đã thuật lại hùng hồn câu chuyện của bà Auster… Nhiều lần bà Auster đã xúc động phát khóc vì lời phát biểu từ luật sư của mình và phụ nữ trong phòng xét xử cũng nhiều lần nức nở khi vị luật sư vẽ ra bức tranh đầy khổ ải của một người phụ nữ nhập cư tìm cách giữ gìn tổ ấm.”
Tòa án chỉ cho ban hội thẩm hai lựa chọn kết luận: có tội hay không có tội trong việc giết người. Chỉ mất chưa đến hai giờ họ đã đưa ra kết luận. Như bảng thông báo ngày 12 tháng Tư đưa ra: “Vào lúc bốn giờ rưỡi chiều nay, ban hội thẩm trong phiên tòa xét xử bà Anna Auster đã đưa ra lời phán quyết rằng bị cáo không có tội.”
* * *
Ngày 14 tháng Tư. “‘Giờ tôi thấy mình hạnh phúc hơn bất cứ lúc nào trong suốt mười bảy năm qua, bà Auster nói vào buổi chiều thứ Bảy khi bắt tay từng thành viên trong ban hội thẩm sau khi lời phán quyết được đưa ra. ‘Khi Harry còn sống,’ bà nói với một người trong số họ, ‘tôi luôn lo sợ. Tôi chưa bao giờ biết được hạnh phúc thực sự. Giờ tôi hối hận vì ông ấy đã phải chết dưới tay tôi. Giờ tôi hạnh phúc như tôi vẫn từng mong ước…’
“Khi bà Auster rời khỏi phòng xử án, bà đã được gặp con gái mình… và hai đứa con nhỏ hơn, những đưa trẻ đã kiên nhẫn chờ đợi trong phòng xử án để nghe phán quyết thả tự do cho mẹ chúng…
“Tại nhà giam của quận, ông Sam Auster… trong lúc không thể hiểu hết mọi thứ, đã nói ông sẵn lòng nghe theo quyết định của mười hai thành viên hội thẩm đoàn.
“‘Đêm qua khi tôi nghe tin về lời phán quyết,’ ông nói khi được phỏng vấn vào sáng Chủ Nhật, ‘tôi ngã vật xuống sàn. Tôi không thể tin nổi là bà ta lại có thể tự do trong sạch sau khi giết chết anh trai tôi cũng như chồng mình. Tất cả đều quá sức chịu đựng của tôi, tôi không hiểu nổi, nhưng giờ tôi phải để tất cả qua đi. Tôi đã cố gắng một lần để dàn xếp theo cách của mình và thất bại, tôi không thể làm gì khác ngoài chuyện chấp nhận những gì tòa đã nói.” Ngày hôm sau, ông cũng đã được thả. “‘Tôi sẽ quay lại với công việc tại nhà máy’, ông Auster nói với luật sư quận. ‘Ngay khi kiếm đủ tiền tôi sẽ dựng một tấm bia đá trên mộ anh trai mình và sẽ cống hiến sức lực của mình để hỗ trợ cho các con của một trong các anh trai tôi đang sống tại Áo, người đã hy sinh khi chiến đấu cho quân đội Áo.’
“Cuộc thẩm vấn sáng nay cho biết một sự thật rằng Sam Auster là người cuối cùng còn sống trong năm anh em nhà Auster. Ba người khác đã chiến đấu cho quân đội Áo và cả ba đều đã hy sinh tại chiến trường.”
Trong bài báo cuối cùng về vụ việc, đoạn cuối có ghi “Bà Auster đang lên kế hoạch mang bọn trẻ tới miền Đông vài ngày… Có thông tin rằng bà Auster quyết định làm điều này theo lời khuyên của các luật sư, họ đã nói rằng bà nên chuyển tới một ngôi nhà mới và bắt đầu một cuộc đời mới ở nơi không ai biết đến vụ xét xử.”
Tôi nghĩ đó là một kết thúc có hậu. Ít nhất là đối với những người đọc báo ở Kenosha, luật sư Baker thông minh, và, không nghi ngờ gì, cho bà nội tôi. Không có thông tin gì thêm sau đó, tất nhiên, về gia tài của gia đình Auster. Những thông tin công khai ghi lại được kết thúc với lời thông báo về việc họ lên đường đến miền Đông.
Bởi cha hiếm khi nói chuyện với tôi về quá khứ, tôi chỉ biết được chút ít về những gì xảy ra sau đó. Nhưng qua vài điều mà ông nhắc đến, tôi đã có thể hình dung tương đối rõ về tình trạng mà cả gia đình đã trải qua.
Ví dụ, họ phải di chuyển liên tục. Không có gì là lạ khi cha tôi chuyển trường hai, hoặc thậm chí ba lần trong một năm. Bởi họ không có tiền, cuộc sống trở thành một chuỗi những lần chạy trốn khỏi những người cho thuê nhà và chủ nợ. Trong một gia đình vốn đã khép chặt thế giới của riêng mình, lối sống du mục này lại càng tạo ra bức tường vây kín lấy họ. Chẳng có gì đáng để nhắc đến: không nhà, không thành phố, không bạn bè có thể cậy nhờ. Chỉ có duy nhất chính gia đình đó. Họ gần như sống trong sự cách ly.
Cha tôi là em bé, và trong suốt đời mình cha tiếp tục nhìn lên ba người anh. Thời còn bé cha được gọi là Sonny. Cha bị hen suyễn và các chứng dị ứng, học giỏi, chơi trong đội bóng bầu dục và chạy thi ở cự ly 440 mét cho đội điền kinh tại Central High ở Newark. Ông tốt nghiệp phổ thông vào năm đầu tiên của giai đoạn đại suy thoái, theo học luật ban đêm trong một hay hai kỳ gì đó, rồi bỏ học, y như các anh trai đã từng làm trước đó.
Bốn anh em gắn chặt với nhau. Có một điều gì đó gần như là cổ điển trong lòng trung thành của họ với những người còn lại. Cho dù họ có những khác biệt, và ở nhiều phương diện thì còn chẳng ưa nhau, tôi nghĩ về họ như bốn cá thể tách biệt nhưng tụ lại thành một bộ lạc, hình ảnh một bộ tứ quý trong cỗ bài. Ba người họ - ba đứa em – hợp lại thành các đối tác làm ăn và sống chung trong một thành phố, và người thứ tư, sống chỉ cách đó hai thành phố, được ba người em sắp xếp công việc cho. Gần như chẳng ngày nào mà cha tôi không gặp các anh em trai. Điều đó diễn ra trong suốt cả cuộc đời ông: tất cả mọi ngày trong suốt hơn sáu mươi năm.
Họ bắt chước thói quen của nhau, cách ăn nói, những cử chỉ nhỏ, hòa lẫn vào nhau đến mức không thể nào nói được ai mới là khởi nguồn của bất kỳ thái độ hay ý tưởng nào từng được đưa ra. Tình cảm của cha tôi là thứ không thể bẻ cong: Ông không bao giờ nói một lời chống đối lại bất cứ người anh nào. Và nữa, đó lại là một điều khác được định nghĩa không phải từ điều ông làm mà dựa trên chính bản thân ông. Nếu một trong số các anh tỏ vẻ coi thường ông hoặc làm điều gì đó chướng mắt, cha tôi sẽ vẫn cứ thế từ chối phán xét điều ấy. Ông ấy là anh tôi, cha sẽ bảo vậy, như thể điều ấy giải thích được cho tất cả.
Tình huynh đệ là nguyên tắc đầu tiên, là đòi hỏi không được phép bác bỏ, là điều khoản đầu tiên và duy nhất của niềm tin. Như người ta tin vào Chúa, khỏi cần thắc mắc.
Là đứa em nhỏ nhất, cha tôi là người trung thành nhất trong bộ tứ và đồng thời cũng là người ít được coi trọng nhất. Ông làm việc chăm chỉ nhất, là người hào phóng nhất với các cháu trai cháu gái, và điều ấy chẳng bao giờ được đánh giá đầy đủ, sự trân trọng dành cho thành ý ấy còn ít hơn nhiều. Mẹ tôi nhớ lại rằng trong ngày cưới của bà, tại bữa tiệc sau hôn lễ, một trong các ông anh đã gạ gẫm bà. Chuyện ông ấy có làm được âm mưu phóng túng đó hay không là chuyện khác. Nhưng chỉ riêng việc trêu ghẹo mẹ tôi như thế cho thấy sự thật trần trụi về việc ông ấy nghĩ gì về cha tôi. Bạn không làm trò ấy trong ngày cưới của một người đàn ông, cho dù đó là em trai của mình.
* * *
Trung tâm của bộ lạc ấy là bà nội tôi, một Mammy Yokum Do Thái chính hiệu, một bà mẹ có một không hai. Khắc nghiệt, bảo thủ, bà chủ. Lòng trung thành chung dành cho bà là thứ giữ các anh em sát gần nhau. Thậm chí ngay cả khi đã là người trưởng thành, với vợ con của riêng mình, họ vẫn thành kính trở về nhà bà mỗi thứ Sáu để ăn bữa tối – không có gia đình đi cùng. Mối quan hệ mẹ con họ mới là điều quan trọng, và nó ngự trị lên mọi điều khác. Chắc phải có chút gì đó hài hước trong chuyện ấy: bốn người đàn ông cao lớn, mỗi người cao đến hơn một thước tám mươi, trông chờ vào một bà cụ già, thấp hơn họ đến ba mươi phân.
Một vài lần hiếm hoi họ đến cùng các bà vợ, một người hàng xóm tình cờ bước vào và kinh ngạc khi thấy có cả một gia đình đông đúc. Đây là gia đình bà đấy à, bà Auster? ông hỏi. Phải, bà trả lời, với nụ cười rạng rỡ vì tự hào. Đây là -. Đây là -. Đây là -. Và đây là Sam. Người hàng xóm có vẻ hơi sốc. Và những quý cô dễ thương này, ông hỏi. Họ là ai? Ồ, bà trả lời với cái phẩy tay hờ hững. Đó là vợ của -. Đó là vợ của -. Đó là vợ của -. Và đó là vợ của Sam.
Bức tranh về bà trên các trang báo Kenosha chẳng có chút sai lệch nào. Bà sống cho các con. (Luật sư Baker: Một người phụ nữ với năm đứa con thơ thế này thì đi đâu được? Bà ấy gắn với chúng và tòa có thể thấy chúng bám lấy bà.) Cùng lúc đó, bà là bạo chúa, được sinh ra để gào thét và điên cuồng. Khi bà giận dữ, bà có thể lấy cán chổi ghè vào đầu các con. Bà đòi hỏi một sự phụng thờ, và bà có được điều đó.
Một lần, khi cha tôi đã dành dụm được một số tiền lớn là khoảng mười hay hai mươi đô-la từ việc đi giao báo để mua cho mình một chiếc xe đạp mới, mẹ ông bước vào phòng, đập vỡ con lợn tiết kiệm của ông và lấy hết tiền của ông mà không buồn nói lời xin lỗi. Bà cần chỗ tiền đó để thanh toán các hóa đơn, và cha tôi chẳng có sự viện trợ, chẳng có nơi nào để tủi thân khóc lóc. Khi cha kể tôi nghe chuyện này, chủ đích của ông không phải là kể lể bà mẹ đã cư xử sai ra sao, mà để minh họa cho việc lợi ích của gia đình luôn quan trọng hơn lợi ích của bất kỳ một thành viên nào. Ông có thể đã không vui, nhưng ông không than phiền về điều đó.
Đó là một luật lệ tráo trở. Với một đứa trẻ, điều đó có nghĩa là bầu trời có thể sụp lên đầu nó bất kỳ lúc nào, rằng nó không bao giờ có thể chắc chắn về điều gì. Vì thế, nó học được rằng không bao giờ tin ai. Thậm chí chính bản thân nó. Ai đó sẽ luôn tiến tới và chứng minh rằng suy nghĩ của nó đã sai, rằng điều đó thật vô căn cứ. Nó học được rằng đừng bao giờ quá mong muốn điều gì.
* * *
Cha tôi sống cùng mẹ cho đến khi ông nhiều tuổi hơn tôi bây giờ. Ông là đứa con cuối cùng rời nhà ra sống độc lập, là đứa bị bỏ lại đằng sau để chăm sóc cho bà. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu nói ông là cậu ấm của mẹ. Ông quá độc lập, đã thấm nhuần tinh thần bước vào con đường của bậc nam nhi từ các anh. Cha đối với bà rất ngoan, có trách nhiệm và chu đáo, nhưng luôn giữ một khoảng cách, thậm chí có phần giễu cợt. Sau khi cha kết hôn, bà thường gọi cha, làu bàu với cha về chuyện này chuyện kia. Cha tôi có thể bỏ ống nghe xuống bàn, bước tới bên kia phòng và bận rộn với vài việc vặt trong mấy phút, rồi quay lại chỗ điện thoại, nhấc nó lên, nói vài lời vô thưởng vô phạt cho bà biết là ông đang ở đó (ừ hử, ừ hử, ừm, đúng vậy), và rồi lại lảng ra chỗ khác, quay đi quay lại, cho đến khi bà trút sạch nỗi niềm ra.
Phần hài hước của sự ngoan ngoãn là vậy. Và đôi khi nó thực sự giúp ích cho ông.
* * *
Tôi vẫn nhớ một sinh vật bé nhỏ, run rẩy ngồi ở phòng khách trước của ngôi nhà dành cho hai gia đình ở khu Weequahic tại Newark đọc tờ Jewish Daily Forward. Cho dù tôi biết mình phải làm thế mỗi khi gặp bà nội, nhưng tôi vẫn thấy rúm người lại khi hôn chào bà. Mặt bà quá nhăn nheo, da bà mềm mại như không phải của loài người. Tệ hơn nữa là mùi của bà – một thứ mùi mà mãi về sau tôi mới có thể nhận ra đó là mùi long não, thứ mà chắc chắn là bà đã nhét vào trong mấy cái ngăn kéo tủ của mình và là thứ mà, sau nhiều năm, đã ngấm vào trong vải vóc áo quần. Thứ mùi hôi hám này bám chặt lấy định nghĩa về “bà” trong trí óc của tôi.
Như tôi vẫn còn nhớ, bà rõ ràng là chẳng hứng thú gì với tôi. Chỉ có một lần duy nhất bà tặng tôi quà, đó là một cuốn sách dành cho trẻ em đã qua tay một hay hai người, một cuốn tiểu sử của Benjamin Franklin. Tôi vẫn nhớ là mình đã đọc nó từ đầu đến cuối và vẫn có thể nhắc lại vài đoạn. Chẳng hạn đoạn vợ tương lai của Franklin, cười lăn khi lần đầu nhìn thấy ông – đi dọc các con phố Philadelphia với một cái bánh mì to tướng kẹp dưới nách. Cuốn sách có bìa màu xanh và được minh họa với những hình vẽ đen trắng. Tôi khi ấy chắc chừng bảy, tám tuổi.
Sau khi cha tôi chết, tôi phát hiện ra một cái rương đã từng thuộc về mẹ ông trong hầm của nhà ông. Nó được khóa kỹ, và tôi quyết định mở bật nó ra bằng cái búa và máy khoan, nghĩ rằng nó có thể chứa những bí mật đã bị chôn vùi, một kho báu đã bị lạc mất từ lâu. Khi cái bản lề rơi ra và tôi mở nắp, thì lại ở đó, nồng nặc – thứ mùi ấy, bốc về phía tôi, ngay tức thì, có thể sờ vào được, như thể đó chính là bà tôi vậy. Tôi cảm thấy như thể mình vừa mở nắp quan tài của bà.
Chẳng có gì thú vị trong đó: một bộ dao khắc, một đống trang sức nhái. Đồng thời có một cuốn sách được bọc giấy nhựa cứng, một cái hộp bát giác có quai xách. Tôi đưa cái đó cho Daniel, và thằng bé ngay lập tức dùng nó làm một cái ga-ra di động cho đám xe hơi, xe tải bé xíu của nó.
* * *
Cha tôi làm việc chăm chỉ suốt cả đời. Lên chín tuổi cha đã có công việc đầu tiên. Lúc mười tám tuổi cha đã có cửa tiệm sửa chữa máy phát thanh cùng với một người anh. Trừ một khoảng thời gian ngắn ngủi cha làm việc với tư cách trợ lý trong phòng thí nghiệm của Thomas Edison (chỉ để một ngày sau đó lại mất việc vì Edison biết cha là người Do Thái), cha không làm thuê cho ai ngoài chính mình. Cha là một ông chủ yêu cầu cao, đòi hỏi hơn nhiều so với bất cứ kẻ lạ mặt nào.
Tiệm sửa chữa máy phát thanh dần biến thành một cửa hàng đồ gia dụng, và rồi lại tiếp tục trở thành một cửa hàng nội thất lớn. Từ đó cha bắt đầu nhúng chân vào bất động sản (chẳng hạn như mua một ngôi nhà cho mẹ ông ở), cho đến khi lĩnh vực này thay thế luôn cái cửa hàng để làm tâm điểm tập trung rồi trở thành ngành kinh doanh của ông. Sự hợp tác với hai người anh đi theo suốt cùng ông từ bước này sang bước khác.
Dậy sớm mỗi sáng, trở về lúc khuya muộn, và giữa hai việc đó là công việc, chẳng có gì ngoài công việc. Công việc là tên của đất nước cha trú ngụ, và cha là một trong những kẻ ái quốc vĩ đại nhất. Tuy vậy, không thể nói rằng công việc mang lại khoái cảm cho ông. Cha làm việc hăng say vì cha muốn kiếm càng nhiều tiền càng tốt. Công việc là để dẫn đến một kết cục – dẫn đến tiền. Nhưng kết cục ấy cũng chẳng làm cho cha cảm thấy hài lòng. Như ông Karl Marx thời trẻ từng viết: “Nếu tiềnlà mối ràng buộc gắn kết tôi với đời sống loài người, gắn kết xã hội với tôi, gắn kết tôi với tự nhiên với nhân loại, thì tiền chẳng phải là mối ràng buộc của mọi ràng buộcư? Liệu nó có thể đừng khuếch tán ra và buộc lấy mọi thứ? Vì thế, chẳng phải nó là kẻ đại diện phổ quát của sự chia rẽ?”
Cả đời cha mơ rằng sẽ trở thành một triệu phú, trở thành người đàn ông giàu nhất thế giới. Chính bản thân tiền bạc không phải là thứ cha cần nhiều đến thế, mà là thứ mà nó đại diện: không chỉ là việc thành công trước mắt cả thế giới, mà là cách khiến cha trở nên bất khả xâm phạm. Có tiền còn có ý nghĩa nhiều hơn việc có thể mua mọi thứ: nó có nghĩa là cả thế giới sẽ không ảnh hưởng được đến bạn. Tiền với ý nghĩa là sự bảo vệ chứ không phải là khoái cảm. Đã sống không tiền khi còn nhỏ, và vì thế dễ bị tổn thương trước những sự bất thường của thế giới, ý niệm về sự giàu có với ông vì vậy cũng đồng nghĩa với lối thoát: khỏi nguy hiểm, khỏi khốn khổ, khỏi nỗi phải là nạn nhân. Cha không cố mua hạnh phúc, mà chỉ đơn giản là mua sự vắng mặt của bất hạnh. Tiền bạc là thuốc trị bách bệnh, là hiện thân của đáy sâu con người ông, là thứ ít đắt đỏ nhất trong sự tồn tại của một con người. Ông không muốn tiêu tiền, ông chỉ muốn có nó, biết chắc là nó có ở đó. Tiền không phải là tiên dược mà là một thứ thuốc trừ tà: là lọ thuốc nhỏ bạn mang trong túi khi tiến vào rừng rậm – phòng trường hợp bạn bị rắn độc cắn.
* * *
Có những lúc, cha chống đối việc tiêu tiền dữ dội đến mức gần giống một chứng bệnh. Không bao giờ đến mức cha phải từ chối các nhu cầu của bản thân (khi nhu cầu của cha là cực tối thiểu), nhưng kín đáo hơn, mỗi khi cha phải mua cái gì, cha sẽ chọn lấy cách giải quyết rẻ nhất. Thứ mua bán mặc cả này là một cách sống.
Ẩn sâu trong thái độ này là một thứ tri giác cổ sơ luận. Mọi sự khác biệt đều bị loại bỏ, mọi thứ được cô rút về thành mẫu thức chung bé nhất. Thịt là thịt, giày là giày, bút là bút. Chẳng quan trọng gì chuyện bạn có thể chọn giữa đồ ăn thừa và bít-tết hảo hạng, rằng có loại bút bi dùng xong quẳng đi giá ba mươi chín xu và cái bút mực năm mươi đô-la có thể dùng cả hai chục năm. Thứ đồ thực sự cao cấp gần như chỉ để bị ghét cay ghét đắng: nó có nghĩa là bạn phải trả đến một mức giá phóng đại, và chuyện ấy nghe thật phi đạo đức. Ở một mức độ phổ biến hơn, lối sống này tự chuyển vào một trạng thái khiếm khuyết giác quan vĩnh viễn: bằng cách nhắm tịt mắt, cha ngăn cản bản thân tiếp xúc gần gụi với hình dáng và chất liệu của thế giới, loại mình ra khỏi cơ hội được trải nghiệm khoái cảm trước cái đẹp. Thế giới mà ông hướng tới là một chốn thực dụng. Mỗi thứ có một giá trị và một giá tiền, và vấn đề là bạn phải kiếm được những thứ bạn cần với mức giá càng gần khít với giá trị của nó càng tốt. Từng thứ phải chỉ được tìm hiểu vấn đề chức năng của nó, được đánh giá chỉ ở chuyện nó trị giá bao nhiêu, không bao giờ được đánh giá như một vật thể chứa đựng những thuộc tính đặc biệt của riêng nó. Theo một cách nào đó, tôi tưởng tượng rằng thói ấy đã biến thế giới thành một chốn mờ nhạt trong mắt cha. Đóng đồng phục, không màu, không có chiều sâu. Nếu bạn chỉ nhìn vào thế giới ở mặt tiền bạc, cuối cùng bạn sẽ chẳng hề nhìn thấy thế giới.
* * *
Thời còn bé, đã có lúc tôi thực sự thấy xấu hổ vì cha giữa chốn công cộng. Lảu bảu với mấy người trông coi cửa hàng, nổi đóa vì mức giá cao, cãi cọ như thể sự tồn tại của ông đang lâm nguy. Ký ức không thể lẫn đi đâu được về cảm giác mọi thứ vón cục lại trong lòng tôi, về chuyện muốn thà ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này trừ chính nơi tôi đang đứng. Riêng một lần đi mua găng tay bóng chày với cha là đặc biệt nhất. Trong suốt hai tuần, ngày nào tôi cũng tới cửa hàng sau trường để ngắm nghía chiếc găng tôi thích. Rồi, khi cha dẫn tôi tới cửa hàng ấy để mua nó, cha nổi trận lôi đình trước người bán hàng đến mức tôi e cha sắp xé ông ấy ra thành từng mảnh. Khiếp sợ, chán nản cùng cực, tôi bảo cha khỏi bận tâm, rằng tôi chẳng hề thích chiếc găng ấy chút nào. Khi chúng tôi rời khỏi cửa hàng, cha đề xuất ra việc mua cho tôi một cây kem ốc quế. Cái găng ấy chẳng có gì tốt, cha bảo. Cha sẽ mua cho con một chiếc tốt hơn vào lúc khác.
Tốt hơn, tất nhiên, có nghĩa là dởm hơn.
Chỉ trích việc quá lãng phí ánh sáng trong nhà. Cha lúc nào cũng đòi mua những chiếc bóng độ oát thấp.
* * *
Cái cớ để không bao giờ đưa chúng tôi đi xem phim. “Sao phải ra ngoài và tiêu cả gia tài khi nó sẽ xuất hiện trên ti-vi chỉ sau một hay hai năm nữa?”
Những bữa ăn hiếm hoi của cả gia đình ở nhà hàng: chúng tôi luôn phải gọi những món rẻ nhất trong thực đơn. Chuyện ấy trở thành một loại lễ nghi. Phải, cha sẽ bảo, gật đầu, lựa chọn tốt đấy.
Nhiều năm sau, khi vợ tôi và tôi sống ở New York, cha thỉnh thoảng lại đưa chúng tôi đi ăn. Kịch bản lúc nào cũng được soạn sẵn y nguyên: vào đúng lúc chúng tôi cho nốt miếng thức ăn cuối cùng vào miệng, ông sẽ hỏi, “Các con sẵn sàng đi chưa?” Thậm chí không thể nào xem xét chuyện tráng miệng.
Cha cực kỳ khó chịu với chỗ ngồi của mình. Cha không có khả năng ngồi yên, để trò chuyện chút đỉnh, để “thư giãn”.
Chuyện ấy làm bạn cũng thấy căng thẳng cùng với ông. Bạn thấy cha lúc nào cũng đang cấp tập ra đi.
* * *
Cha yêu thích những mánh lới thông minh nho nhỏ, tự hào với bản thân khi có khả năng lừa phỉnh được thế giới trong chính quy luật của nó. Sự ranh mãnh trong những phương diện tầm thường nhất của cuộc sống, cũng lố bịch như khi nó làm người ta chán ngán. Với mấy cái xe, cha lúc nào cũng tháo rời mấy thiết bị đo lường, gian lận về số dặm đã đi để đảm bảo với bản thân là khi bán lại sẽ có giá. Trong nhà, cha luôn tự tay làm những việc sửa chữa thay vì thuê một người chuyên nghiệp. Bởi vì cha có khiếu với máy móc và biết mọi thứ hoạt động như thế nào, cha thường tạo ra những lối tắt kỳ cục, dùng bất cứ vật liệu gì trong tay để bày ra một lối giải quyết kỳ quặc vô tác dụng[5] với các vấn đề liên quan đến máy móc và điện – hơn là bỏ tiền ra để giải quyết cho đúng đắn.
Các phương án dài hạn không bao giờ khiến ông hứng thú. Ông cứ thế vá chỗ này víu chỗ nọ, một mẩu đằng này một mẩu đằng kia, không bao giờ cho phép con tàu của mình chìm hẳn, nhưng cũng không cho nó cơ hội để nổi thực sự.
* * *
Cách cha ăn mặc: như thể bị lạc hậu khỏi thời đại đến hai mươi lần. Những bộ vét sợi nhân tạo rẻ tiền từ mấy cái sạp ở cửa hàng giảm giá; những đôi giày chưa được đưa ra khỏi hộp từ thùng của mấy căn hầm bán đồ đổ đống. Hơn cả việc minh chứng cho thói hà tiện của ông, thái độ coi thường thời trang này càng tô rõ hình ảnh ông như một kẻ không thực sự tồn tại trong thế giới. Quần áo ông mặc như một cách thể hiện cho sự cô độc, một cách khẳng định chắc nịch rằng ông không có mặt. Cho dù cha có sẵn tiền, đủ để trả cho bất cứ thứ gì cha muốn, cha vẫn trông như một kẻ nghèo nàn, một kẻ quê mùa cục mịch vừa từ dưới ruộng chui lên.
Trong những năm cuối đời, điều này có thay đổi chút ít. Việc trở lại là kẻ độc thân có lẽ đã khiến cha choáng váng: cha nhận ra rằng phải chỉnh đốn lại bản thân sao cho tươm tất nếu muốn có một cuộc sống xã hội. Điều ấy không có nghĩa là cha bước ra ngoài mua vài bộ quần áo đắt tiền, nhưng ít nhất màu sắc trong tủ của ông cũng thay đổi: màu nâu xỉn và xám bị vứt bỏ để thay vào những màu sắc tươi sáng hơn, phong cách lỗi mốt nhường chỗ cho vẻ hào nhoáng hơn, bảnh bao hơn. Quần kẻ ô, giày trắng, áo cổ rùa màu vàng, giày với khóa to. Nhưng bất chấp những nỗ lực này, cha chẳng bao giờ trông hòa hợp với những thứ quần áo đó. Chúng không phải là một phần hữu cơ với tính cách cha. Chúng khiến bạn nghĩ đến một cậu nhóc được cha mẹ diện cho.
* * *
Với sự hứng khởi của cha dành cho tiền bạc (nỗi khao khát được trở nên giàu có, nỗi không thể tiêu tiền), thì chuyện cha kiếm tiền giữa những người nghèo nghe có vẻ khá thích hợp. So với họ, cha là người đàn ông giàu khủng. Và nữa, bằng cách ở cả ngày giữa những người gần như chẳng có tài sản gì, cha có thể giữ trước mắt mình cảnh tượng mà cha chắc là sợ hãi nhất trên thế giới: không có tiền. Nó đặt mọi thứ trong điểm nhìn của ông. Cha không tự coi mình là keo kiệt – mà khôn ngoan, một người biết giá trị của đồng đô-la. Cha phải thận trọng. Đó là thứ duy nhất đứng giữa cha và cơn ác mộng về cảnh bần cùng.
Vào thời điểm việc kinh doanh đạt tới đỉnh cao, cha và các ông anh sở hữu cả trăm tòa nhà. Lãnh thổ của họ là khu công nghiệp khắc nghiệt ở phía bắc New Jersey – Jersey City, Newark – và gần như tất cả người thuê nhà của họ là người da đen. Ai đó đã gọi là “chủ của khu ổ chuột,” nhưng trong trường hợp này thì đó không phải là từ có thể diễn tả đúng hay tương đối phù hợp. Không phải là ở việc cha không sống ở khu nhà mình cho thuê. Cha ở đó, và cha dành hàng giờ để khiến cho một nhân viên tận tâm nhất cũng phải muốn nổi khùng.
Công việc ấy là một màn tung hứng không ngừng. Lúc nào cũng có các vụ mua và bán các tòa nhà, mua và sửa chữa các đồ đạc cố định, quản lý nhiều đội thợ sửa chữa, việc cho thuê các căn hộ, giám sát công việc quản lý, lắng nghe lời phàn nàn của người thuê, đối phó với các đội thanh tra nhà ở, liên tục qua lại với các công ty cung cấp điện và nước, chưa kể đến việc phải đến tòa án thường xuyên - ở cả tư cách nguyên đơn và bị đơn – để kiện những kẻ trốn trả tiền, để trả lời cho những chất vấn về phá hoại. Tất cả mọi thứ thường xảy ra đồng thời, một sự tấn công nhằm vào một đích từ đủ hướng cùng lúc. Vào bất cứ một ngày nào đi nữa thì không thể có chuyện mọi thứ đều được giải quyết. Bạn không về nhà vì bạn đã xong việc, mà bởi đã muộn quá và bạn hết thời gian. Ngày hôm sau, mọi vấn đề lại đang chờ bạn – và nhiều rắc rối mới cũng đã ở sẵn đó. Chuyện ấy không bao giờ kết thúc. Trong mười lăm năm cha chỉ đi nghỉ có hai lần.
Cha là người dễ mủi lòng với những người thuê nhà – cho phép họ trì hoãn việc trả tiền thuê, cho con cái họ quần áo, giúp họ tìm việc – và họ tin tưởng ông. Các cụ già, sợ bị cướp, sẽ nhờ ông cất những tài sản giá trị nhất ở trong két tại văn phòng. Trong số tất cả các anh em, cha là người mà kẻ khác tìm đến khi gặp rắc rối. Không ai gọi ông là ông Auster. Họ luôn gọi ông là ông Sam.
Khi dọn dẹp ngôi nhà sau khi cha qua đời, tôi tình cờ tìm được lá thư ở đáy tủ bếp. Trong số tất cả những thứ tôi tìm thấy, tôi vui nhất với lá thư này. Nó có vẻ đã cân bằng được các đối cực, cho tôi một bằng chứng sống động khi trí óc tôi lang thang quá xa với thực tế. Lá thư đề gửi cho “ông Sam,” và những dòng chữ viết tay gần như không thể đọc nổi.
Ông Sam thân mến,
Tôi biết ông rất ngạc nhiên khi nghe tin từ tôi. trước hết[6] có lẽ tôi nên tự giới thiệu. Tôi là Nash. Tôi là chị dâu Albert Groover – Bà Groover và Albert từng sống ở số 285 Phố thông ở thành phố Jersey từ hồi xưa và bà Banks cũng là Chị tôi. nếu ông vẫn nhớ.
Ông đã đồng ý cho các con và tôi thuê nhà ở số 327 Johnston Ave ngay ở Góc gần ông bà Groover và Chị tôi.
Tuy vậy sau đó tôi đã chuyển đi khi vẫn nợ 40 đô-la tiền thuê. Đó là hồi năm 1964 nhưng tôi không hề qu—ên là mình nợ số tiền đặt cọc ấy. Thế nên đây là tiền trả ông. cảm ơn ông đã đối rất tốt với các con và tôi thời đó. đây là lòng trân trọng của tôi vì những điều ông đã làm. Tôi hy vọng ông vẫn nhớ những ngày ấy. Vì ông không bao giờ bị tôi quên.
Khoảng ba tuần trước tôi đã gọi đến văn phòng nhưng không có ở đó, cầu Chúa Nhân Từ Ban phước lành cho ông. Tôi hiếm khi đến thành phố Jersey chứ không thì đã ghé qua thăm ông.
Dù sao tôi cũng rất vui khi trả được món nợ này. Chỉ thế thôi.
Với lòng chân thành,
J.B Nash
Thời còn bé, tôi thỉnh thoảng lại cùng ông đi thu tiền thuê. Tôi còn quá nhỏ để hiểu được những gì mình nhìn thấy, nhưng vẫn nhớ ấn tượng mà những cảnh tượng ấy mang lại, như thể, chính vì tôi không hiểu gì, thứ nhận thức nguyên thô từ những trải nghiệm này thấu thẳng vào tôi, nơi chúng vẫn còn ở đến ngày nay; ngay tức thì như mảnh dăm đâm vào đầu ngón tay.
Những tòa nhà bằng gỗ với hành lang tối tăm không được chăm sóc. Và đằng sau mỗi cánh cửa, cả bầy trẻ con chơi đùa trong căn hộ trống hoác; một bà mẹ, lúc nào cũng rầu rĩ, làm việc quá sức, mệt mỏi, cúi gập người trên bàn ủi. Ráo riết nhất là thứ mùi, như thể sự nghèo nàn còn hơn cả việc thiếu tiền, mà thiếu cả những giác quan, mùi hôi hám xâm nhập vào trí não khiến bạn không thể nghĩ gì nữa. Mỗi khi bước vào một tòa nhà với cha, tôi lại nín hơi không dám thở, như thể mùi hôi ấy có thể làm tôi đau.
Mọi người lúc nào cũng rất vui mừng được gặp con trai ông Sam. Tôi được trao cho không biết bao nhiêu nụ cười và cái xoa đầu.
Một lần, khi tôi lớn hơn một chút, tôi nhớ rằng đang ngồi trong xe với cha bon dọc con phố ở thành phố Jersey và thấy một thằng bé mặc chiếc áo phông tôi đã mặc chật từ nhiều tháng trước. Đó là một chiếc áo rất độc đáo với sự kết hợp kỳ quặc giữa những sọc vàng và xanh da trời, chẳng có gì thắc mắc về chuyện đó chính là chiếc áo từng thuộc về tôi. Chẳng hiểu vì sao, tôi thấy mình ngập tràn nỗi xấu hổ.
Lớn hơn nữa, ở tuổi mười ba, mười bốn, mười lăm, tôi thỉnh thoảng lại theo cha để kiếm chút tiền cùng với mấy người thợ mộc, thợ sơn và thợ sửa chữa. Lần nọ, vào một ngày nóng đến phát khiếp giữa mùa hè, tôi được giao việc giúp một người trát hắc ín cho mái nhà. Người đó tên là Joe Levine (một người đàn ông da đen đã đổi họ thành Levine để thể hiện lòng biết ơn với một người bán thực phẩm Do Thái đã từng giúp đỡ ông thời trẻ), và ông là người giúp việc mà cha tôi tin tưởng, trông cậy nhất. Chúng tôi kéo cả loạt thùng chứa năm mươi ga-lông hắc ín lên nóc nhà và rải thứ chất đó khắp mái với mấy cái chổi. Ánh mặt trời rọi thẳng xuống cái mái phẳng lì đen sì ấy thật tàn bạo, và sau chừng nửa giờ gì đó tôi bắt đầu thấy chóng mặt, trượt chân lên một mảng hắc ín còn ướt, rơi xuống và chẳng hiểu sao đáp trúng một cái thùng đang mở nắp và hắc ín bắn đẫm người.
Khi tôi quay lại văn phòng sau đó vài phút, cha thấy buồn cười hết sức. Tôi nhận ra tình huống thật buồn cười, nhưng tôi quá xấu hổ không thể đùa tếu về chuyện ấy. Phải cảm ơn cha tôi, ông không giận cũng chẳng trêu chọc tôi. Cha cười, nhưng theo cái cách khiến tôi cũng phải buồn cười theo. Rồi cha bỏ ngang việc mình đang làm, đưa tôi sang bên tiệm Woolworth bên kia đường, mua cho tôi quần áo mới. Chuyện ấy làm tôi thấy đột nhiên trở nên gần gũi với ông.
* * *
Cùng với năm tháng trôi qua, công việc kinh doanh ngày càng kém đi. Bản thân việc kinh doanh ấy không có gì sai, nhưng bản chất tự nhiên của kinh doanh là vậy: vào một lúc nào đó, ở một địa điểm nào đó, nó không còn có thể tồn tại nữa. Các thành phố tan rã, và chẳng ai tỏ ra buồn quan tâm. Thứ từng một thời ít nhiều khiến cha đầy việc phải làm, giờ trở thành một kiếp nô dịch đơn giản. Trong những năm cuối đời cha thấy ghét phải đi làm.
Việc phá hoại trở thành một vấn đề nghiêm trọng đến mức việc sửa chữa trở thành một cử chỉ vô nghĩa lý. Ngay khi máy bơm được lắp đặt vào một tòa nhà thì các ống nước đã bị bọn trộm tháo sạch. Cửa sổ liên tục bị vỡ, cánh cửa bị đập, các hành lang bị lở lói, hỏa hoạn khởi phát. Và cùng lúc, cũng chẳng thể nào bán chúng đi. Không ai muốn mua mấy tòa nhà. Cách duy nhất để thoát khỏi chúng là cứ để mặc đó và để các thành phố tự lo lấy. Một lượng tiền khổng lồ đã bị mất đi theo lối ấy, cũng như toàn bộ lao động của cuộc đời. Cuối cùng, vào thời điểm cha tôi chết, chỉ còn lại chừng sáu hoặc bảy tòa nhà. Toàn bộ đế chế đã tan rã.
Lần cuối cùng tôi ở thành phố Jersey (ít nhất mười năm trước) nơi đó đã trông như một vùng đất trải qua thảm họa, như thể nó đã bị bọn phá hoại cướp phá. Những con phố xám xịt, tan hoang; rác rưởi dồn đống khắp nơi; vật vô chủ lăn qua lăn lại vô mục đích. Văn phòng của cha bị cướp nhiều lần đến nỗi giờ chẳng còn sót lại gì ngoài chiếc bàn kim loại xám, vài chiếc ghế, và ba hay bốn cái điện thoại. Thậm chí không có cả máy đánh chữ, không chút màu sắc nào. Nó không còn là một nơi để làm việc nữa, mà là một căn phòng của địa ngục. Tôi ngồi xuống và nhìn ra ngoài bờ sông bên kia đường. Không ai bước ra, không ai đi vào. Những vật thể sống duy nhất là hai con chó hoang lừ đừ đi lại.
Việc làm sao cha có thể dựng mình dậy và đi tới đó mỗi ngày vượt quá sức hiểu của tôi. Sức mạnh của thói quen, hoặc là sự lì đầu cứng cổ thuần túy. Nơi này không chỉ ủ ê rầu rĩ, mà còn nguy hiểm. Cha đã bị cướp giật nhiều lần, và một lần bị kẻ tấn công đá vào đầu một cách thô bạo đến mức khả năng nghe của cha bị hư hại vĩnh viễn. Trong suốt bốn hay năm năm cuối đời, lúc nào trong đầu cha cũng có tiếng reng reng văng vẳng, tiếng rầm rừ không bao giờ dứt, thậm chí ngay cả khi cha ngủ. Các bác sĩ nói chẳng có cách nào chữa được chứng tật đó cả.
Cuối cùng, cha không bao giờ bước ra phố mà không mang theo một chiếc mỏ lết trong tay phải. Cha đã sáu mươi lăm tuổi, và cha không muốn mạo hiểm thêm lần nữa.
Hai câu chợt hiện lên trong đầu tôi sáng nay khi tôi đang chỉ cho Daniel cách bác trứng.
“‘Và giờ tôi muốn biết,’ người phụ nữ nói, với một nỗ lực khủng khiếp, ‘tôi muốn biết liệu có thể tìm thấy một người cha khác giống ông ấy trong thế giới này hay không.’” (Isaac Babel)
“Con cái lúc nào cũng có xu hướng hoặc là coi thường hoặc là tán dương cha mẹ chúng, và với một đứa con trai ngoan thì cha nó lúc nào cũng là người cha tốt nhất, chẳng liên quan mấy đến những lý do khách quan có thể đem ra mà ngưỡng mộ ông ta.” (Proust)
* * *
Giờ tôi nhận ra mình chắc phải là một đứa con tồi. Hoặc, nếu không phải là tồi hẳn, thì ít nhất cũng là một đứa con đáng thất vọng, nguồn gốc của nỗi xấu hổ và nỗi buồn. Với cha thì thật vô lý khi ông đẻ ra một thi sĩ để làm con trai mình. Ông cũng chẳng hiểu nổi tại sao một nam thanh niên với hai tấm bằng từ đại học Columbia lại nhận công việc làm một thủy thủ tầm thường trên con tàu chở dầu ở vùng Gulf tại Mexico, và rồi, chẳng cần nguyên do lý lẽ, bỏ tới Paris và bỏ ra bốn năm sống cái đời mài bút nuôi thân.
Cách miêu tả cha thường dùng nhất để mô tả tôi là “đầu óc để trên mây,” hoặc không thì tôi “chân không chạm đất.” Dù nói bằng cách nào đi nữa, tôi cũng có vẻ chẳng có gì đáng kể trong mắt cha, như thể tôi là một thứ hơi nước hoặc một kẻ không hoàn toàn tồn tại trong thế giới. Trong mắt cha, bạn trở thành một phần của thế giới bằng cách làm việc. Với định nghĩa, công việc là thứ mang lại cho bạn tiền bạc. Nếu nó không mang lại tiền, thì đó không phải là công việc. Viết lách, vì thế, không phải là việc, đặc biệt là viết thơ. Cùng lắm thì đó là một thú vui, một cách giết thời gian trang nhã giữa những điều thực sự có giá trị. Cha tôi nghĩ tôi phung phí tài năng, từ chối việc lớn lên.
Dù sao đi nữa, vẫn có một sự nối kết tồn tại giữa chúng tôi. Chúng tôi không gần gũi, nhưng vẫn giữ liên lạc. Một cuộc gọi hàng tháng hay đại loại thế, có thể ba hay bốn chuyến thăm hỏi mỗi năm. Mỗi khi sách hay tập thơ của tôi được xuất bản, tôi lại ngoan ngoãn gửi cho cha một bản, và cha thường gọi điện cảm ơn tôi. Mỗi khi tôi viết một bài báo cho tạp chí, tôi sẽ để dành lại một tờ và đảm bảo là sẽ tặng ông trong lần gặp tới. The New York Review of Bookschẳng có nghĩa lý gì với cha, nhưng mấy bài trong Commentarythì khá gây ấn tượng. Tôi nghĩ cha cho rằng nếu người Do Thái xuất bản bài của tôi, thì có thể là cũng có gì đáng kể đấy.
Một lần, khi tôi đang sống ở Paris, cha viết thư bảo với tôi rằng đã tới thư viện công cộng đọc mấy bài thơ của tôi vừa được đăng trên Poetrygần đây. Tôi tưởng tượng ra cảnh cha ngồi trong một căn phòng lớn, vắng ngắt, vào lúc sáng sớm trước khi đi làm: ngồi ở một trong số những cái bàn dài với chiếc áo khoác ngoài vẫn ở trên người, gù cổ lên những từ ngữ chắc hẳn là chẳng thể hiểu nổi với cha.
Tôi đã cố giữ hình ảnh tưởng tượng ấy, cùng với những hình ảnh khác không bao giờ chịu biến mất.
* * *
Một lực hút hoàn toàn bí ẩn, tràn lấn của sự mâu thuẫn. Giờ tôi hiểu được hiện trạng này sẽ bị phá vỡ bởi hiện trạng khác, rằng mỗi ý nghĩ lại đem lại một ý nghĩ khác đối lập. Không thể nào nói ra một điều gì mà không có nghĩa đối ngược: cha tốt, hoặc cha xấu; cha là thế này, hoặc cha là thế kia. Tất cả đều đúng. Tất cả chúng đều đúng. Có những lúc tôi cảm thấy rằng tôi đang viết về ba hay bốn người đàn ông, mỗi người một khác biệt, mỗi người lại đối lập với những người còn lại. Vụn vỡ. Hoặc những chuyện vặt hiện ra dưới hình dạng của kiến thức. Phải.
* * *
Những mảnh ký vụt qua về lòng bác ái. Vào những lúc hiếm hoi thế giới không phải là mối đe dọa với cha, động lực sống của cha dường như là trở thành người nhân từ. “Cầu Chúa lòng lành Ban phước cho ông.”
Bạn bè gọi cho cha mỗi khi họ gặp rắc rối. Một chiếc xe bị kẹt lại ở đâu đó giữa đêm, và cha tôi có thể lê thân ra khỏi giường để tới cứu giúp. Trong một số mặt thì những kẻ khác thật dễ dàng lợi dụng ông. Cha từ chối việc phàn nàn về bất cứ điều gì.
Một sự kiên nhẫn đã tiệm cận với cái ngưỡng của siêu nhân. Cha là người duy nhất mà tôi từng biết có thể dạy người khác lái xe mà không nổi giận hoặc bỏ ngang trong cơn bực bội. Bạn có thể lao thẳng vào một cây cột điện, và cha vẫn không tỏ ra chút cáu bẳn nào.
Bất khả xâm phạm. Và bởi vì thế, vào một số lúc gần như là tĩnh tại.
* * *
Bắt đầu từ khi vẫn còn là một chàng trai trẻ, cha đã luôn luôn quan tâm đến đứa cháu họ lớn nhất – đứa con duy nhất của người chị duy nhất. Bác tôi đã sống một cuộc đời bất hạnh, tả tơi vì cả loạt cuộc hôn nhân trắc trở, và con trai bác chính là kẻ chịu nỗi khổ: bị gửi tới các trường của quân đội, chưa bao giờ thực sự được có mái ấm. Được thúc đẩy, tôi nghĩ, bởi không có gì hơn là lòng nhân từ và cảm giác trách nhiệm, cha tôi đã dang tay che chở cho cậu bé ấy. Cha dưỡng nuôi anh với những lời động viên không ngừng, dạy anh cách thích nghi với thế giới. Sau đó, anh giúp cha trong việc kinh doanh, và mỗi khi anh gặp vấn đề gì, cha luôn sẵn lòng lắng nghe và cho lời khuyên. Thậm chí sau khi ông anh họ tôi đã cưới vợ và có gia đình riêng, cha tôi vẫn tiếp tục bày tỏ lòng quan tâm đi kèm hành động, cho họ ở nhờ trong nhà mình độ hơn một năm, trân trọng tặng quà cho những đứa con trai con gái của anh vào ngày sinh nhật chúng và thường xuyên tới nhà họ ăn tối.
Người anh họ này xúc động với cái chết của cha hơn bất cứ người họ hàng nào. Khi cả đại gia đình tụ họp tại lễ tang, anh tiến đến chỗ tôi ba hay bốn lần và bảo, “Anh vừa mới tình cờ gặp bác hôm nọ. Bọn anh đáng lẽ sẽ ăn tối cùng nhau vào tối thứ Sáu.”
Từ ngữ anh dùng được nhắc đi nhắc lại y nguyên trong tất cả các lần. Như thể anh không còn biết mình đang nói gì nữa.
Tôi cảm thấy như thể chúng tôi đã bị đảo ngược vị trí, rằng anh là đứa con trai đang xót xa đau khổ và tôi là người anh họ đầy cảm thông. Tôi muốn vòng tay quanh vai anh và bảo cha anh quả là một người đàn ông tốt. Sau tất cả, anh mới là đứa con trai thực sự, anh là đứa con trai mà tôi không bao giờ có thể trở thành.
* * *
Trong vòng hai tuần vừa rồi, những dòng viết của Maurice Blanchot vang vọng trong đầu tôi: “Có một điều cần được hiểu: tôi không nói ra điều gì kỳ vĩ hoặc thậm chí là đáng kinh ngạc. Thứ kỳ vĩ bắt đầu từ khoảnh khắc tôi ngừng lời. Nhưng tôi không còn có thể nói về nó nữa.”
Để bắt đầu với cái chết. Để tìm cách quay trở lại với sự sống, và rồi, cuối cùng lại quay về với cái chết.
Hoặc là: sự phù phiếm của việc cố gắng nói bất kỳ điều gì với bất kỳ ai.
* * *
Năm 1972 cha tới thăm tôi ở Paris. Đó là lần duy nhất cha tới châu Âu.
Năm ấy tôi đang sống trong một căn phòng dành cho người giúp việc nhỏ xíu trên tầng sáu chỉ đủ rộng để đặt một cái giường, một cái ghế và một cái chậu rửa mặt, cửa sổ và ban công nhỏ xíu hướng thẳng ra mặt một thiên thần bằng đá nhô ra từ nhà thờ St. Germain Auxerrois: bảo tàng Louvre ở bên phía trái, Les Halles ở hút bên phải, và đồi Montmartre ở thẳng phía trước xa xa. Tôi thích căn phòng ấy rất đỗi, và nhiều bài thơ sau này được in trong cuốn sách đầu tay của tôi được viết ở đây.
Cha không lên kế hoạch ở đây cho lâu, thậm chí bạn khó có thể gọi đó là một kỳ nghỉ: bốn ngày ở London, ba ngày ở Paris, và rồi về nhà. Nhưng tôi hài lòng với ý nghĩ được gặp cha và chuẩn bị tinh thần để cho ông có được một quãng thời gian vui vẻ.
Tuy vậy, đã có hai việc đã xảy ra khiến cho điều ấy trở thành không thể. Tôi bị ốm mê mệt vì nhiễm cúm; và tôi phải đi Mexico vào ngay sau ngày cha tới để làm người chấp bút cho một dự án.
Tôi đợi ông suốt cả buổi sáng ở tiền sảnh của khách sạn du lịch nơi ông đã đặt phòng, vã mồ hôi đầm đìa vì sốt, gần như mê sảng vì mệt nhọc. Khi cha không xuất hiện vào giờ đã hẹn, tôi ở lại chờ thêm chừng một hay hai tiếng nữa, rồi cuối cùng đành từ bỏ và trở về phòng ngã vật ra giường.
Sau đó, vào buổi chiều cha đến và gõ lên cánh cửa phòng tôi, đánh thức tôi dậy khỏi cơn ngủ mê. Cuộc gặp gỡ như tạo ra từ sách của Dostoyevsky: ông bố trưởng giả tới thăm con trai ở một thành phố nước ngoài và thấy thi sĩ nghèo đói cô đơn trong một gác xép, mồ hôi đầm đìa vì sốt. Cha sốc trước những gì mình thấy, kinh hãi với chuyện có người có thể sống trong căn phòng như thế, và chuyện ấy đã đẩy ông tới hành động: cha bắt tôi mặc áo khoác vào, kéo tôi đến một bệnh viện gần đó, rồi mua mấy viên thuốc được kê cho tôi. Sau đó, cha không cho phép tôi ngủ qua đêm ở phòng mình. Tôi chẳng có tư cách nào để từ chối, vì thế tôi đồng ý ngủ trong khách sạn với ông.
Ngày hôm sau tôi chẳng khỏe hơn chút nào. Nhưng có việc phải hoàn thành, tôi đành dựng mình dậy để làm. Vào buổi sáng tôi đưa cha tới căn hộ rộng mênh mông ở đại lộ Henri Martin của nhà sản xuất phim, người đã phái tôi tới Mexico. Trong năm qua tôi đã làm rồi bỏ cho ông đó, làm cả mớ việc kỳ quặc – dịch dọt, lên đề cương kịch bản – những thứ chỉ nằm ở bên lề các bộ phim, vốn chẳng làm tôi hứng thú. Mỗi dự án mới lại ngu ngốc hơn dự án trước đó, nhưng thù lao thì cao, và tôi cần tiền. Giờ ông cần tôi giúp bà vợ người Mexico viết cuốn sách mà bà đã ký hợp đồng với một nhà xuất bản Anh: Quetzalcoatl và những bí mật của con rắn có lông. Vụ này có vẻ hơi quá mức, và tôi đã từ chối ông nhiều lần trước đó. Nhưng sau mỗi lần tôi nói không, mức giá ông đưa ra lại cao lên, cho đến giờ tôi đã được trả quá nhiều tiền đến mức không thể ngoảnh mặt đi nữa. Tôi chỉ phải đi có một tháng, và tôi được trả trước – bằng tiền mặt.
Đó chính là vụ trao tiền mà cha tôi chứng kiến. Lần này, tôi có thể thấy cha rất ấn tượng. Tôi không chỉ dẫn cha vào một chốn xa hoa và giới thiệu cha với một người đàn ông làm ăn kinh doanh với con số hàng triệu, mà người đàn ông ấy còn bình thản đẩy qua bàn cho tôi một bó tờ một trăm đô-la và chúc tôi có một chuyến đi vui vẻ. Tất nhiên, chính chỗ tiền đã tạo ra sự khác biệt, khi cha tôi được nhìn thấy bằng chính mắt mình. Tôi thấy đó như là một vinh quanh, như thể tôi bằng cách nào đó đã được giải oan. Lần đầu tiên cha buộc phải nhận ra rằng tôi có thể tự lo thân theo cách của mình.
Cha nảy ra ham muốn che chở, lo lắng cho tình trạng ốm yếu của tôi. Giúp tôi gửi tiền vào ngân hàng, cười nói đùa bỡn. Rồi bắt một chiếc taxi cho hai cha con và đi cùng tới sân bay với tôi. Một cái bắt tay rõ chặt vào phút cuối.
Chúc may mắn, con trai. Diệt hết chúng đi. Còn phải nói.
* * *
Giờ thì chẳng có gì trong suốt nhiều ngày…
Bất chấp những lý do trì hoãn tôi tự đưa ra cho bản thân, tôi hiểu điều gì đang xảy ra. Tôi càng tới gần với kết cục của điều mình có thể nói, tôi càng cảm thấy khó có thể nói bất cứ điều gì. Tôi muốn trì hoãn khoảnh khắc kết thúc, và cách này ngăn cản bản thân tôi sa vào những suy nghĩ tôi chỉ vừa mới khởi đầu, rằng phần hay hơn của câu chuyện vẫn còn ở phía trước. Dù những ngôn ngữ này có vẻ vô ích thế nào đi nữa, chúng cũng đã đứng giữa tôi và sự im lặng vốn vẫn tiếp tục làm tôi kinh sợ. Khi tôi bước vào sự yên lặng ấy, thì có nghĩa là cha tôi đã mãi mãi biến mất.
* * *
Chiếc thảm xanh cáu bẩn ở nhà tang lễ. Và gã chủ trì, ngọt xớt, chuyên nghiệp, bị bệnh chàm và mắt cá sưng vù, đang điểm lại cả danh sách các mục cần chi tiêu như thể tôi sắp mua cả bộ nội thất phòng ngủ bằng thẻ tín dụng. Gã đưa cho tôi một chiếc phong bì đựng chiếc nhẫn cha đã đeo khi mất. Đờ đẫn sờ lên chiếc nhẫn khi những cuộc trò chuyện cứ tiếp tục đều đều, tôi nhận thấy mặt trong của viên đá bị đóng cặn bởi một thứ dầu xà phòng. Vài khoảnh khắc trôi qua cho đến khi tôi nhận ra được mối liên quan, và nó hiện lên hiển nhiên đến khó chịu: thứ dầu đó được dùng để gỡ nhẫn ra khỏi ngón tay cha. Tôi cố hình dung ra người mà công việc của anh ta là những thứ như vậy. Tôi không cảm thấy kinh sợ hay hứng thú. Tôi nhớ là đã thầm nghĩ: Tôi phải bước vào thế giới của những sự kiện, lãnh địa của những sự riêng biệt khủng khiếp. Chiếc nhẫn làm bằng vàng, với một biểu tượng màu đen tượng trưng cho tình huynh đệ của hội Tam Điểm.
Gã chủ trì cứ liên tục nói với tôi rằng gã đã quen cha tôi “từ thời xưa,” ngụ ý về sự gần gũi và tình bạn mà tôi biết chắc là chưa từng tồn tại. Khi tôi cho hắn thông tin để đăng cáo phó lên báo, hắn tranh lời tôi với những sự kiện không có thật, lau chau chặn trước tôi để chứng minh hắn biết cha rõ ra sao. Mỗi khi chuyện ấy xảy ra, tôi lại ngắt lời và chỉnh lại thông tin của hắn. Ngày hôm sau, khi cáo phó xuất hiện trên mặt báo, nhiều chi tiết không thật ấy vẫn được in ra.
Ba ngày trước khi qua đời, cha tôi đã mua một chiếc xe mới. Cha đã lái nó một lần, có thể là hai, và khi tôi quay lại nhà sau lễ tang, tôi thấy nó ngự trong ga-ra, không còn hoạt động, như một sinh vật khổng lồ chết non. Sau đó, cũng ngày hôm ấy, tôi một mình ra chỗ ga-ra vài lần. Tôi ngồi sau tay lái xe, hít thở thứ mùi công nghiệp mới tinh của nó. Bảng đo cự li đã chạy chỉ sáu mươi bảy dặm. Đó tình cờ thay cũng là tuổi của cha: sáu mươi bảy năm. Sự ngắn ngủi ấy làm tôi muốn ốm. Như thể đó là khoảng cách giữa sự sống và cái chết. Một hành trình ngắn ngủi, còn không bằng một chuyến đi sang thành phố bên cạnh.
* * *
Nỗi ân hận lớn nhất: Tôi không được trao cho cơ hội nào để nhìn thấy cha sau khi ông chết. Tôi cứ ngu ngốc tưởng rằng quan tài sẽ được mở nắp trong lễ tang, và rồi, khi nó không được mở thì đã quá muộn để làm bất cứ điều gì.
Chuyện không bao giờ được nhìn thấy ông khi đã chết đẩy tôi vào nỗi đau đớn mà tôi chẳng hề chờ đón. Không phải vì chuyện cái chết của ông trở nên ít thực hơn tí chút, mà vì giờ, mỗi khi tôi muốn nhìn thấy chuyện ấy, mỗi khi tôi muốn sờ được vào sự thực của nó, tôi lại phải bắt đầu tưởng tượng. Chẳng có gì để nhớ. Chẳng có gì ngoài sự trống rỗng.
Khi huyệt mộ được gỡ tấm phủ để nhận chiếc quan tài, tôi nhận thấy một cái rễ cây cam lớn chọc thẳng vào cái hố ấy. Nó tạo ra được sự thanh thản kỳ lạ trong tôi. Trong một khoảnh khắc ngắn sự thật trần trụi về cái chết không còn có thể giấu đằng sau ngôn ngữ hay cử chỉ lễ nghi. Nó ở đây: không trung gian, không tô điểm, không thể nào ngoảnh mặt đi được. Cha tôi được đưa sâu hơn xuống lòng đất, và vào lúc, khi chiếc quan tài cuối cùng cũng mục nát, cơ thể cha sẽ góp phần nuôi dưỡng chiếc rễ ấy. Hơn bất cứ điều gì đã được nói và làm ngày hôm ấy, chuyện này thật có lý với tôi.
* * *
Giáo sĩ thực hiện các thủ tục lễ tang cũng là người đã chủ trì lễ trưởng thành của tôi mười chín năm trước. Lần cuối tôi gặp ông, ông còn là một người mày mặt nhẵn nhụi, trẻ măng. Giờ ông đã già, với bộ râu bạc xùm xòa. Ông không biết cha tôi, trên thực tế là chẳng biết gì về cha, và trong nửa giờ trước khi buổi lễ bắt đầu tôi ngồi cạnh ông để nói cho ông nghe những gì nên nói trong điếu văn. Ông ghi lại ý trên mấy mảnh giấy. Khi tới lúc đứng lên nói, ông đã nói với xúc cảm tràn trề. Đối tượng là một người mà ông chưa từng biết, nhưng ông vẫn phát biểu như thể ông đang nói ra từ tận đáy lòng. Đằng sau mình, tôi có thể nghe thấy đám đàn bà sụt sùi. Ông đã nói theo lời tôi gần như là từng chữ một.
Tôi nhận ra rằng mình đã bắt đầu viết câu chuyện từ lâu, trước cả khi cha tôi qua đời.
* * *
Đêm nối đêm, nằm thao thức trên giường, mắt tôi mở ra trong bóng tối. Sự bất lực khi tìm giấc ngủ, sự bất lực tránh khỏi việc nghĩ về chuyện ông chết như thế nào.
Tôi thấy mình đổ mồ hôi giữa những tấm chăn, cố gắng tưởng tượng chuyện bị lên cơn đau tim thì cảm thấy ra sao. Adrenalin dâng lên suốt cơ thể tôi, đầu tôi boong boong, và toàn bộ cơ thể tôi như dồn hết vào khoảng nhỏ bên trong lồng ngực. Sự cần thiết phải trải qua đúng nỗi sợ hãi đó, nỗi đau đớn chết người đó.
Và rồi, vào đêm, những giấc mơ ùa về, gần như đêm nào cũng vậy. Trong một giấc mơ thuộc số đó, thứ vừa đánh thức tôi dậy vài giờ trước, tôi nghe cô con gái tuổi mới lớn của bạn gái cha tôi bảo rằng cô bé, cô con gái ấy, đã có thai với cha tôi. Vì cô bé còn quá trẻ, mọi việc đã được thỏa thuận là vợ chồng tôi sẽ nuôi đứa con sau khi nó được sinh ra. Đứa bé sẽ là con trai. Ai cũng biết trước điều ấy.
Kể ra thì đó cũng là thật, có thể, sau khi câu chuyện này kết thúc, nó sẽ tự diễn tiến, thậm chí khi từ ngữ đã cạn.
* * *
Cụ ông thanh lịch ở chỗ đám ma chính là ông chú của tôi, Sam Auster, giờ đã gần chín mươi tuổi. Cao, tóc râu nhẵn nhụi, giọng nói the thé khọt khẹt. Không một lời về sự kiện năm 1919, và tôi cũng không có gan để hỏi. Tôi chăm sóc cho Sam khi nó còn bé, ông bảo. Nhưng chỉ có thế thôi.
Khi được hỏi ông có muốn uống gì không, ông yêu cầu một ly nước nóng. Chanh không ạ? Không, cảm ơn cháu, chỉ nước nóng thôi.
Lại là Blanchot: “Nhưng tôi không còn có thể nói về nó.”
Từ ngôi nhà: Một bản thông báo rằng cha mẹ tôi đã ly dị từ quận St. Clair ở bang Alabama. Chữ ký ở cuối trang: Ann. W. Love.
* * *
Từ ngôi nhà: một cái đồng hồ đeo tay, vài cái áo len, một cái áo khoác, một cái đồng hồ báo thức, sáu cái vợt tennis, và một cái xe Buick hoen rỉ hiếm khi chạy. Một bộ đĩa, một cái bàn cà phê, ba hay bốn cái đèn. Một cái tượng Johnnie Walker lấy từ phòng uống rượu cho Daniel. Một album ảnh trống trơn, Đây Là Đời Chúng Ta: Nhà Auster.
Đầu tiên thì tôi nghĩ chuyện giữ mấy món đồ này thật dễ chịu, rằng chúng sẽ nhắc tôi về cha và giúp tôi nghĩ về ông khi tôi đi tiếp đời mình. Nhưng đồ vật, dường như, không chỉ là đồ vật. Tôi bắt đầu quen với chúng, tôi phải bắt đầu nghĩ đến chúng như là đồ của chính mình. Tôi xem giờ bằng đồng hồ của cha, tôi mặc áo len của cha, tôi lái chiếc xe của cha. Nhưng tất cả những điều ấy không có gì khác hơn một ảo tưởng về sự gần gũi. Tôi đã chiếm đoạt chúng. Cha tôi đã biến mất khỏi chúng, trở nên vô hình một lần nữa. Và sớm hay muộn thì chúng cũng hỏng, cũng vỡ thành mảnh, và bị vứt đi. Tôi không tin điều ấy sẽ có chút ý nghĩa gì đó.
* * *
“… nó giữ lại điều tốt đẹp là chỉ kẻ nào làm việc thì mới có bánh mì, chỉ kẻ nào đớn đau thì mới có thể an nghỉ, chỉ kẻ nào anh dũng đi xuống địa ngục mới cứu được người mình yêu, chỉ kẻ nào dám vung dao mới giết được Issac… Kẻ không làm việc sẽ phải ghi lại những gì đã viết về các trinh nữ Israel, kẻ sinh ra gió, nhưng chỉ kẻ sẵn lòng lao động mới sinh ra được chính cha mình.” (Soren Kierkegaard)[7]
* * *
Đã hơn hai giờ sáng. Một gạt tàn đầy ngập, một ly cà phê đã cạn, và hơi lạnh đầu xuân. Một tấm ảnh của Daniel trong thời điểm hiện tại, khi con đang nằm ngủ say trong chiếc cũi trên lầu. Để kết thúc chuyện này.
Để tự hỏi con sẽ làm gì với mấy trang viết này khi con đủ lớn để đọc chúng.
Và một tấm ảnh của cơ thể bé xíu ngọt ngào oai dũng, khi con đang nằm ngủ say trong chiếc cũi trên lầu. Để kết thúc chuyện này.
Khởi Sinh Của Cô Độc Khởi Sinh Của Cô Độc - Paul Auster Khởi Sinh Của Cô Độc