Dành Hết Cho Em epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 2
manda bước ra khỏi xe và xem xét căn lều ở ngoại ô Oriental, nơi mà Tuck gọi là nhà. Cô đã lái xe liền ba tiếng đồng hồ và giờ khi đã có thể co duỗi chân tay, cảm giác thật tuyệt. Cổ và vai cô vẫn còn căng lên, như một sự nhắc nhở về cuộc tranh luận giữa cô và Frank sáng hôm đó. Anh không hiểu được vì sao cô cứ khăng khăng muốn tham dự tang lễ, và nghĩ lại, cô cho rằng anh cũng có điểm đúng. Trong gần hai mươi năm kể từ khi họ kết hôn, cô chưa bao giờ đề cập đến Tuck Hostetler; nếu đổi lại là cô, có lẽ cô cũng sẽ khó chịu.
Nhưng cuộc tranh luận không thực sự là về Tuck hay về các bí mật của cô, hay chậm chí là về việc cô sẽ trải qua một kỳ nghỉ cuối tuần dài nữa xa gia đình. Sâu trong lòng, cả hai người họ đều biết đó chỉ đơn giản là tiếp nối cuộc tranh luận mà họ đã kéo dài suốt gần mười năm qua, và vẫn còn tiếp diễn. Họ tranh luận không to tiếng hay thượng cẳng chân hạ cẳng tay - Frank không phải là kiểu người đó, ơn Chúa - và cuối cùng Frank cũng thốt ra một lời xin lỗi cụt lủn trước khi đi làm. Như thường lệ, cô dành phần còn lại của buổi sáng và buổi chiều cố gắng hết sức để quên đi mọi chuyện. Rốt cuộc, cô cũng chẳng thể làm gì, và qua thời gian, cô đã học được cách làm mình chai sạn trước sự giận dữ và lo lắng đã định hình mối quan hệ của họ.
Trong suốt chuyến đi tới Oriental, cả Jared và Lynn, hai đứa con lớn của cô đều gọi điện, và cô biết ơn vì có thứ để làm cô sao nhãng. Chúng đang nghỉ hè, và suốt mấy tuần qua, căn nhà tràn ngập những tiếng ồn bất tận điển hình của lứa tuổi thanh thiếu niên. Tang lễ của Tuck không thể diễn ra vào thời điểm nào tốt hơn thế. Jared và Lynn đã có kế hoạch nghỉ cuối tuần với bạn bè, Jared có hẹn với một cô gái tên là Melody còn Lynn thì hẹn một người bạn thời trung học đi bơi thuyền ở hồ Norman, gia đình bạn cô bé có một căn nhà ở đó Annette - “tai nạn kỳ diệu” của họ, như Frank đã gọi con bé - đã đi dự trại hè trong hai tuần. Con bé có lẽ cũng sẽ gọi cho cô nếu như chỗ nó không cấm dùng điện thoại di động. Điều đó cũng tốt, nếu không chắc chắn con chim líu lo ấy sẽ gọi cho cô suốt cả buổi sáng, trưa và tối mất.
Cứ nghĩ về bọn trẻ cô lại mỉm cười. Bất chấp công việc tình nguyện ở Trung tâm Ung thư Nhi tại Bệnh viện Đại học Duke, cuộc sống của cô chủ yếu xoay quanh bọn trẻ. Kể từ khi Jared được sinh ra, cô nghỉ việc ở nhà làm nội trợ, dù phần lớn thời gian cô rất thích vai trò đó, nhưng luôn có một phần trong cô bực bội trước những giới hạn của nó. Cô muốn nghỉ rằng mình không chỉ là một người vợ và người mẹ. Cô đi học đại học để trở thành giáo viên và thậm chí đã từng cân nhắc việc học lên tiến sĩ để có thể dạy ở một trong các trường đại học ở địa phương. Cô nhận công việc dạy học sinh lớp ba sau khi tốt nghiệp... và rồi cuộc sống bằng cách nào đó đã xen vào. Giờ đây ở tuổi bốn mươi hai, thỉnh thoảng cô vẫn đùa với mọi người rằng cô nóng lòng muốn trưởng thành để có thể biết được mình muốn kiếm sống bằng nghề gì.
Một số người có thể gọi đó là cuộc khủng hoảng tuổi trung niên, nhưng cô không chắc đó chính xác là nó. Không hẳn là cô cảm thấy muốn mua xe hơi thể thao hay đi gặp bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ hay trốn đến một hòn đảo nào đó ở Caribbe. Cũng không hẳn là vì buồn chán, có Chúa chứng giám, bọn trẻ và bệnh viện đã khiến cô đủ bận rộn. Thay vào đó, nó phần nhiều và cảm giác rằng dường như cô đã không còn biết ý nghĩa của cuộc đời mình, và cô không chắc mình còn có cơ hội tìm thấy nó lần nữa.
Trong một thời gian dài, cô đã coi mình là người may mắn, và Frank và một phần lớn trong sự may mắn đó. Họ gặp nhau tại một bữa tiệc khi cô học năm thứ hai tại Duke. Bất chấp sự hỗn loạn của buổi tiệc, bằng cách nào đó họ đã tìm được một góc yên tĩnh rồi nói chuyện đến gần sáng. Lớn hơn cô hai tuổi, anh nghiêm túc và thông minh, và thậm chí ngay đêm đầu tiên đó, cô đã biết được rằng anh sẽ thành công trong bất kỳ việc gì anh chọn. Như vậy là đủ để mọi chuyện bắt đầu. Tháng Tám sau đó anh tới học nha khoa tại Chapter Hill, nhưng họ tiếp tục hẹn hò trong hai năm tiếp theo. Đính hôn là chuyện tất yếu sẽ xảy ra, và vào tháng Bảy năm 1989, chỉ một vài tuần sau khi cô tốt nghiệp, họ kết hôn.
Sau tuần trăng mật ở Bahamas, cô bắt đầu công việc giảng dạy tại một trường tiểu học ở địa phương, nhưng sau khi sinh Jared vào mùa hè tiếp theo, cô xỉn nghỉ phép. Cô sinh Lynn mười tám tháng sau đó, và nghỉ phép trở thành nghỉ việc. Tới khi đó, Frank đã xoay xở vay đủ tiền để mở phòng khám riêng và mua một ngôi nhà nhỏ ở Durham. Đó là những năm thiếu thốn, vì Frank muốn tự mình đạt được thành công nên đã từ chối nhận sự giúp đỡ của gia đình hai bên. Sau khi thanh toán các hóa đơn, may mắn lắm họ mới có thừa tiền thuê một bộ phim về xem vào cuối tuần. Đi ăn tối bên ngoài là việc hiếm hoi, và khi xe của họ bị hỏng, Amanda đã mắc kẹt cả tháng ở nhà cho đến khi họ có đủ tiền để sửa xe. Khi đi ngủ họ đắp thêm chăn để giảm chi phí sưởi. Trong những năm tháng đó, có đôi lúc thật mệt mỏi và căng thẳng, nhưng khi nghĩ lại về cuộc sống của mình, cô cũng biết đó là nhũng năm hạnh phúc nhất trong cuộc hôn nhân của họ.
Phòng khám của Frank dần được mở rộng, và trong nhiều khía cạnh, cuộc sống của họ đi vào quỹ đạo chung của các cặp đôi Frank làm việc trong khi cô trông nom nhà cửa và lũ trẻ, và đứa con thứ ba, Bea, ra đời khi họ bán ngôi nhà nhỏ và chuyển tới một ngôi nhà lớn hơn mà họ đã xây trong một khu vực cao cấp hơn của thị trấn. Sau đó, nhịp sống của họ thậm chí còn trở nên bận rộn hơn. Phòng khám của Frank bắt đầu phát triển hơn trong khi cô đi lại như con thoi để đưa Jared đến trường, đưa Lynn tới các công viên và các buổi hẹn đi chơi, Bea thì được đặt ở băng ghế giữa trong xe. Chính trong những năm đó Amanda bắt đầu xem xét lại kế hoạch đi học sau đại học của mình; cô thậm chí còn dành thời gian tìm hiểu một vài chương trình đào tạo thạc sĩ mà cô nghĩ có thể sẽ ghi danh học khi Bea bắt đầu đi học mẫu giáo. Nhưng khi Bea qua đời, hoài bão của cô lắng xuống. Lặng lẽ, cô cất những cuốn sách ôn tập cho kỳ thi sát hạch và chương trình sau đại học và xếp gọn đơn đăng ký vào một ngăn kéo bàn.
Việc bất ngờ mang thai Annette càng củng cố quyết định không quay lại trường học của cô. Thay vào đó, có thể nói là nó đã đánh thức quyết tâm tập trung xây dựng lại tổ ấm trong cô, cô lao vào các hoạt động của bọn trẻ và những việc thường ngày bằng tất cả nhiệt huyết, nhằm cố quên đi đau buồn. Năm tháng qua đi, ký ức về đứa em gái nhỏ phai nhạt dần, Jared và Lynn dần dần lấy lại cảm giác bình thường, và Amanda biết ơn vì điều đó. Annette lanh lợi và hoạt bát mang lại niềm vui mới trong ngôi nhà của họ, và thỉnh thoảng cô gần như có thể giả vờ rằng họ là một gia đình hoàn chỉnh và đầy yêu thương, một gia đình chưa hề bị ảnh hưởng bởi thảm kịch.
Cô đã khó khăn lắm mới có thể giả vờ rằng cuộc hôn nhân của mình cũng như vậy.
Cô không và chưa từng ảo tưởng rằng hôn nhân là một mối quan hệ chỉ tuyển những niềm hạnh phúc bất tận và sự lãng mạn. Mang hai người bất kỳ lại với nhau, thêm vào đó những thăng trầm tất yếu, rồi thổi vào đó vài cơn bão, thì những cuộc tranh luận dữ dội là không thể tránh khỏi, bất kể cặp đôi đó có yêu nhau nhiều đến đâu đi nữa. Thời gian cũng mang lại những thách thức khác. Sự thoải mái và cảm giác thân thuộc là những điều tuyệt vời, nhưng chứng cũng làm giảm đi niềm đam mê và sự hứng thú. Thói quen, và việc có thể dự đoán mọi điều khiến những bất ngờ hầu như là không thể diễn ra. Không còn những câu chuyện mới để kể cho nhau, và hầu như họ luôn biết người kia định nói gì, cả cô lẫn Frank đã đạt đến cảnh giới chỉ cần nhìn lướt qua cũng đủ để hiểu ý nhau mà không cần đến từ ngữ dể diễn đạt. Nhưng việc mất Bea đã thay đổi họ. Với Amanda, nó đã thúc đẩy một cam kết mãnh liệt với công việc tình nguyện của cô tại bệnh viện; mặt khác, Frank đã thay đổi từ một người thỉnh thoảng mới uống rượu thành một con nghiện rượu.
Cô biết sự khác biệt, và cô chưa bao giờ là một người khắt khe về việc uống rượu. Khi học đại học đã có vài dịp cô uống quá chén tại một bữa tiệc, và cô vẫn thích thú nhấm nháp một ly rượu trong bữa tối. Đôi khi thậm chí cô có thể uống tiếp ly thứ hai, và hầu như thế là đủ. Nhưng đối với Frank, thứ ban đầu là một cách để làm tê liệt nỗi đau đã biến thành một cái gì đó mà anh không còn kiểm soát được nữa.
Nhìn lại, đôi khi cô nghĩ đáng lẽ mình phải thấy trước được điều đó. Thời đại học, anh thích vừa xem các trận bóng rổ vừa uống bia cùng bạn bè; ở trường học nha khoa, anh thường thư giãn bằng một, hai hay ba lon bia sau khi học xong. Nhưng trong những tháng ngày đen tối khi Bea bị ốm, hai hay ba lon bia mỗi đêm dần dần tăng nên thành sáu lon, và sau khi con bé qua đời, số lượng bia anh uống đã tăng thành mười hai lon mỗi đêm. Tới thời điểm hai năm sau ngày Bea mất và Annette chuẩn bị chào đời, anh sẵn sàng nốc một đống vào người ngay cả khi phải đi làm vào sáng hôm sau. Gần đây, tuần nào cũng có bốn năm đêm anh say xỉn, và đêm qua cũng không phải là ngoại lệ. Quá nửa đêm, anh loạng choạng đi vào phòng ngủ, say xỉn như mọi khi, và bắt đầu ngáy to đến nỗi cô phải sang phòng dành cho khách để ngủ. Việc anh say xỉn, chứ không phải Tuck, mới là lý do thật sự cho cuộc tranh cãi của họ sáng nay.
Trong những năm qua, cô đã chứng kiến tất cả, từ việc nói nhịu tại bữa ăn tối hoặc một bữa tiệc thịt nướng tới việc say xỉn và lăn ra bất tỉnh trên sàn phòng ngủ của họ. Thế nhưng vì anh được nhiều người coi là một nha sĩ tuyệt vời, hiếm khi bỏ việc, và luôn luôn thanh toán các hóa đơn, nên anh không nghĩ là mình có vấn đề. Vì anh không trở nên hung hăng hay bạo lực, nên anh nghĩ mình không có vấn đề gì cả. Vì thường thường anh chỉ uống mỗi bia nên đó không thể là một vấn đề được.
Nhưng đó là một vấn đề, vì anh đã dần dần trở thành một người mà cô không thể tin rằng đó là chồng mình. Cô không thể đếm xuể số lần mình đã phải bật khóc vì điều đó, phải nói chuyện với anh về nó, khuyên nhủ anh hãy nghĩ đến bọn trẻ, van xin anh tham dự một vài khóa tư vấn để tìm giải pháp, hay nổi giận vì sự ích kỷ của anh. Cô đã từng lạnh nhạt với anh trong nhiều ngày, buộc anh phải ngủ trong phòng dành cho khách hàng tuần liền, và cô cũng đã thiết tha cầu nguyện. Mỗi năm độ một lần, Frank cũng để tâm tới lời van xin của cô và dừng lại được một thời gian. Rồi sau một vài tuần, anh lại uống một lon bia trong bữa tối. Chỉ một lon. Và nó không trở thành vấn đề ngay đêm đó. Hay đêm kế tiếp. Nhưng anh đã mở cửa và ác quỷ bước vào, và thói say xỉn sẽ lại vượt khỏi tầm kiểm soát. Và rồi cô sẽ lại tự hỏi mình những câu mà cô từng đặt ra trong quá khứ. Tại sao, khi có nhu cầu uống, anh không thể lờ nó đi. Và tại sao anh lại không chịu thừa thận rằng điều đó đã phá hủy cuộc hôn nhân của họ.
Cô không biết. Cô chỉ biết là mình rất mệt mỏi. Hầu như lúc nào cô cũng cảm thấy mình là người duy nhất đáng tin cậy trong hai vợ chồng để chăm lo cho bọn trẻ. Jared và Lynn có thể đã đủ lớn để lái xe, nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu một đứa bị tai nạn gì đó trong khi Frank đang say xỉn? Liệu anh có nhảy vào xe, đặt Annette ngồi vào ghế sau và lao đến bệnh viện không? Hoặc nếu có ai đó trong gia đình bị ốm thì sao? Chuyện đó đã từng xảy ra trước đây. Không phải là với bọn trẻ, mà là với cô. Một vài năm trước, sau khi ăn hải sản bị hỏng, Amanda đã nôn hàng giờ trong phòng tắm. Thời điểm đó Jared đã có bằng lái nhưng vẫn chưa được phép lái xe vào ban đêm, và Frank thì lại đang trong cơn say xỉn. Khi cơ thể cô đã gần bị mất nước, Jared đành lái xe đưa cô tới bệnh viện lúc nửa đêm trong khi Frank vạ vật ở ghế sau và vờ như mình tỉnh táo hơn thực tế. Dù đã gần như mê sảng nhưng cô vẫn chú ý thấy ánh mắt Jared liên tục liếc vào gương chiếu hậu, sự thất vọng pha lẫn tức giận hiện bên trên nét mặt nó. Đôi khi cô nghĩ rằng anh đã lấy đi phần lớn sự ngây thơ của Jared đêm đó, khi để nó đối mặt với những thiếu sót khủng khiếp của bố mẹ mình.
Đó là một nỗi căng thẳng thường trực, đầy mệt mỏi và cô đã chán ngấy việc phải lo lắng xem bọn trẻ nghĩ gì hay cảm thấy gì khi chúng nhìn thấy bố mình đi loạng choạng khắp nhà. Hay lo lắng vì Jared và Lynn dường như không còn kính trọng bố chúng nữa. Hay lo lắng rằng trong tương lai, Jared hay Lynn hay Annette có thể bắt đầu bắt chước bố chúng, thường xuyên chạy trốn khó khăn bằng cách chìm trong rượu, thuốc kích thích hoặc Chúa biết là những thứ gì khác nữa, cho đến khi chúng tự hủy hoại cuộc sống của mình.
Cô cũng không tìm được nhiều sự giúp đỡ. Không cần nhờ đến Hội nặc danh nghiện rượu cô cũng hiểu rằng mình không thể làm gì để giúp Frank, trừ phi anh thừa nhận rằng anh có vấn đề và tập trung để cải thiện nó, nếu không anh vẫn là một kẻ nghiện rượu. Và như thế nghĩa là gì? Nghĩa là cô phải đưa ra lựa chọn. Nghĩa là cô phải quyết định liệu có nên tiếp tục chịu đựng hay không. Nghĩa là cô phải lập một danh sách các hậu quả và kiên trì bám vào đó. Về lý thuyết thì dễ, nhưng trong thực tế nó làm cô giận dữ. Nếu anh là người có vấn đề thì tại sao cô lại phải là người chịu trách nhiệm? Và nếu nghiện rượu là một căn bệnh, thì chẳng phải nó có nghĩa là anh cần cô giúp đỡ, hay ít nhất là lòng trung thành của cô sao? Làm sao mà cô - vợ anh, người đã thề sẽ ở bên anh trong lúc ốm đau cũng như khỏe mạnh - lại có thể biện minh cho việc kết thúc cuộc hôn nhân của họ và phá vỡ tổ ấm của mình, sau tất cả mọi chuyện họ đã cùng vượt qua? Cô sẽ là một người mẹ, người vợ nhẫn tâm, hoặc là một người nhu nhược, trong khi tất cả những gì cô thực sự mong muốn là anh trở lại là con người mà cô từng tin tưởng.
Điều đó khiến mỗi ngày trở nên thật khó khăn. Cô không muốn ly dị anh và phá vỡ gia đình. Dù có thể cuộc hôn nhân của họ đã không còn vẹn nguyên, nhưng một phần trong cô vẫn tin vào lời thề hôn nhân. Cô yêu con người anh trước đây, và cô yêu con người mà cô biết anh có thể trở thành, nhưng ở đây, lúc này, khi đứng bên ngoài căn nhà của Tuck Hostetler, cô thấy buồn bã, đơn độc, và cô không thể không tự hỏi làm sao mà cuộc đời mình lại thành ra thế này.
Amanda biết mẹ đang chờ gặp mình, nhưng cô vẫn chưa sẵn sàng đối mặt với bà. Cô cần thêm vài phút nữa, và khi hoàng hôn bắt đầu buông xuống, cô băng qua mảng sân cỏ mọc um tùm để tới cái gara bừa bộn nơi Tuck đã dành thời gian để phục hồi những chiếc xe cổ. Đỗ bên trong là một chiếc Corvette Stingray, cô đoán là kiểu từ những năm 1960. Khi cô lướt tay lên mui xe, thật dễ dàng để tưởng tượng rằng Tuck có thể bước vào gara bất cứ lúc nào, dáng người còng còng của ông nổi bật trên nền mặt trời đang lặn. Ông mặc quần áo lao động nhuốm bẩn, mái tóc muối tiêu lơ thơ, những nếp nhăn trên mặt ông hằn sâu đến rỗi trông gần như là những vết sẹo.
Bất chấp những câu hỏi thăm dò của Frank về Tuck sáng nay, Amanda đã nói rất ít, chỉ mô tả ông là một người bạn cũ của gia đình. Đó không phải là toàn bộ câu chuyện, nhưng cô có thể nói gì khác đây? Thậm chí cả cô cũng phải thừa nhận rằng tình bạn của cô với Tuck là một tình bạn lạ lùng. Cô đã biết ông từ hồi học trung học nhưng chưa từng gặp lại ông cho đến sáu năm trước, khi cô ba mươi sáu tuổi. Khi đó cô trở lại Oriental để thăm mẹ, và trong khi nấn ná nhấm nháp một tách cà phê tại quán Irvin, cô nghe lỏm được một nhóm những người đàn ông lớn tuổi ngồi ở bàn gần đó bàn tán về ông.
“Lão Tuck Hostetler đó vẫn là một tay phù thủy với ô tô, nhưng lão chắc chắn bị điên rồi,” một người trong số họ nói, và bật cười, lắc đầu. “Nói chuyện với người vợ quá cố của lão là một chuyện, nhưng thề thốt rằng lão có thể nghe thấy bà ấy đáp lại thì lại là chuyện khác.”
Bạn ông ta khịt mũi. “Lão luôn là một người kỳ lạ, chắc chắn thế.”
Nghe không có vẻ gì giống như Tuck mà cô từng biết, và sau khi trả tiền tách cà phê, cô vào xe và trở lại con đường đất và tới nhà ông mà cô gần như đã quên mất. Họ đã dành cả buổi chiều ngồi trên những chiếc ghế bập bênh ngoài hàng hiên xập xệ trước nhà, và kể từ đó cô có thói quen ghé qua thăm ông bất cứ khi nào cô về thị trấn. Ban đầu chỉ là một hoặc hai lần một năm - cô không thể chịu được việc đến thăm mẹ cô nhiều hơn thế - nhưng gần đây cô ghé qua Oriental và thăm Tuck ngay cả khi mẹ cô không có ở thị trấn. Thường thì cô nấu cả bữa tối cho ông. Tuck đã già đi nhiều, và dù cô thích tự nhủ lòng rằng mình chỉ đơn giản muốn đến thăm một người bạn lớn tuổi, cả hai người họ đều biết lý do thực sự cho việc ấy.
Theo khía cạnh nào đó, những người đàn ông trong quán ăn đã nói đúng. Tuck đã thay đổi. Ông không còn là người đầy bí ẩn, hầu như chỉ biết im lặng và đôi khi cộc cằn như cô từng nhớ, nhưng ông cũng không bị điên. Ông biết sự khác biệt giữa tưởng tượng và thực tế, và ông biết vợ mình qua đời đã lâu rồi. Nhưng Tuck có khả năng biến điều gì đó thành hiện thực chỉ bằng cách ước rằng nó tồn tại, cô tin là như vậy. Ít nhất là nó có thực với ông. Khi cô hỏi ông về “những cuộc nói chuyện” với người vợ đã khuất, ông trả lời không chút e ngại rằng Clara vẫn còn quanh quẩn đâu đây và sẽ luôn như thế. Ông thú nhận rằng họ không những nói chuyện, mà ông còn nhìn thấy bà ấy nữa.
“Bác đang nói là bác ấy là một hồn ma à?” cô hỏi.
“Không,” ông trả lời. “Bác chỉ nói và bà ấy không muốn bác ở một mình.”
“Bây giờ bác ấy có ở đây không?”
Tuck nhìn chăm chú ra sau. “Bác không nhìn thấy, nhưng có thể nghe thấy tiếng bà ấy nhẩn nha đi lại bên trong ngôi nhà.”
Amanda lắng nghe nhưng không nghe thấy gì khác ngoài tiếng cót két của chiếc ghế bập bênh trên lóp ván sàn. “Khi đó bác ấy có ở quanh bác không? Khi cháu quen bác trước kia ấy?”
Ông hít một hơi dài, và khi cất lời, giọng ông nghe có vẻ mệt mỏi. “Không. Nhưng khi đó bác không cố gắng nhìn thấy bà ấy.”
Có điều gì đó thực sự đáng xúc động, gắn như là lãng mạn, trong niềm tin của ông rằng họ yêu nhau đủ sâu đậm đến mức có thể tìm thấy cách để ở lại bên nhau, ngay cả khi bà đã mất. Ai lại không thấy điều đó lãng mạn cơ chứ? Mọi người đều muốn tin rằng tình yêu vĩnh cửu là có thật. Hồi mười tám tuổi, cô cũng đã từng tin vào điều đó. Nhưng cô biết tình yêu rất rắc rối, cũng giống như cuộc sống vậy. Nó có những bước ngoặt mà người ta không thể dự đoán, thậm chí không thể hiểu được, và để lại đằng sau một chuỗi những tiếc nuối. Và gần như là luôn luôn, những tiếc nuối đó sẽ dẫn đến một loạt các câu hỏi nếu như mà không bao giờ có câu trả lời. Nếu như Bea không chết? Nếu như Frank không thành ra nghiện rượu? Nếu như cô kết hôn với tình yêu đích thực của mình? Nếu vậy cô có nhận ra được người phụ nữ đang nhìn mình trong gương lúc này hay không?
Dựa vào chiếc xe, cô tự hỏi Tuck sẽ nghe gì về những suy tưởng của cô. Tuck, người ăn món trứng và yến mạch tại quán Irvin mỗi sáng và thả đậu phộng rang vào cốc Pepsi ông uống; Tuck, người cứ sống mái ở một ngôi nhà trong gần bảy mươi năm và mới chỉ rời quê nhà đúng một lần khi được gọi nhập ngũ để phục vụ đất nước trong Thế chiến thứ hai. Tuck, người nghe radio và máy quay đĩa thay vì xem ti vi, vì đó là những gì ông thường làm trong suốt mấy chục năm nay. Không giống cô, Tuck dường như đón nhận cái vai trò mà thế giới đã đặt ra cho ông. Cô nhận ra rằng thật sáng suốt khi chấp nhận chuyện đó mà không hề do dự, ngay cả khi cô sẽ không bao giờ có thể đạt được nó.
Tất nhiên, Tuck có Clara, và có lẽ điều đó có liên quan. Họ lấy nhau năm mười bảy tuổi và sống bên nhau bốn mươi hai năm, và khi Tuck nói chuyện với Amanda, cô dần biết được câu chuyện về cuộc đời của họ. Bằng giọng trầm lặng, ông kể với cô về ba lần Clara bị sẩy thai, lần cuối đã dẫn đến biến chứng nghiêm trọng. Theo lời Tuck, khi bác sĩ thông báo rằng Clara sẽ không bao giờ có con được nữa, suốt gần một năm bà đã khóc cho đến khi thiếp đi. Amanda cũng được biết rằng Clara có một vườn rau và bà đã từng chiến thắng cuộc thi của bang xem ai trồng được quả bí ngô lớn nhất, và cô đã thấy dải ruy băng xanh dành cho người thắng cuộc đã phai màu vẫn được nhét sau chiếc gương trong phòng ngủ. Tuck kể với cô rằng sau khi ông mở công việc kinh doanh, họ đã xây một ngôi nhà nhỏ trên mảnh đất nhỏ ở sông Bay gần Vandemere, một thị trấn mà khi đứng cạnh nó thì Oriental trông có vẻ như và một thành phố, và mỗi năm họ ở đó nhiều tuần liền, vì Clara nghĩ đó là nơi đẹp nhất trên thế giới. Ông mô tả điệu bộ của Clara, bà thường ngâm nga theo radio trong khi dọn dẹp nhà cửa, và ông tiết lộ rằng thỉnh thoảng ông thường đưa bà đi khiêu vũ tại quán đồ nướng của Red Lee, một nơi mà Amanda cũng thường đến suốt thời niên thiếu.
Cuối cùng cô kết luận, đó là một cuộc sống có thể coi là chấp nhận được so với nhiều người, một cuộc sống mà sự mãn nguyện và tình yêu có thể được tìm thấy trong từng chi tiết nhỏ nhất giữa đời thường. Đó là một cuộc sống đàng hoàng và danh dự, không phải là không có những nỗi buồn nhưng cũng trọn vẹn theo cái cách mà hiếm người được trải nghiệm. Cô biết Tuck hiểu điều đó hơn ai hết.
“Có Clara ở bên, cuộc sống luôn tốt đẹp,” ông đã từng tổng kết lại thư thế.
Có thể là do tính chất thân mật của những câu chuyện của ông, hoặc có thể do nỗi cô đơn ngày càng tăng của Amanda mà theo thời gian, Tuck cũng đã trở thành bạn tâm tình của cô, điều mà cô không bao giờ có thể đoán trước được Tuck chính là người cô chia sẻ nỗi đau và nỗi buồn về cái chết của Bea, và cũng chính trên hiên nhà ông, cô mới có thể giải phóng cơn thịnh nộ với Frank; chính là với ông, cô đã thú nhận nỗi lo lắng về bọn trẻ, và thậm chí là niềm tin ngày càng lớn của cô rằng dường như cô đã rẽ sai đường ở đâu đó trong cuộc đời mình. Cô chia sẻ với ông những câu chuyện về vô số bậc phụ huynh đau khổ và những đứa trẻ lạc quan đến đáng ngạc nhiên mà cô đã gặp tại Trung tâm Ung thư Nhi, và ông dường như hiểu được rằng cô đã tìm thấy một sự cứu rỗi khi làm việc tại đó, dù chưa bao giờ ông nói ra. Hầu như lúc nào ông cũng chỉ nắm tay cô trong đôi bàn tay xương xẩu, với những ngón tay dính đầy dầu mỡ của ông, xoa dịu cô bằng sự im lặng của mình. Cuối cùng, Tuck Hostetler đã trở thành người bạn thân nhất của cô, và cô bắt đầu cảm thấy ông hiểu cô, hiểu con người thật của cô rõ hơn bất cứ ai trong cuộc sống hiện tại của cô.
Nhưng giờ đây người bạn, người để trút bầu tâm sự của cô đã ra đi. Cô đã bắt đầu thấy nhớ ông, cô lướt nhìn khắp chiếc Stingray, tự hỏi liệu ông có biết đó là chiếc xe cuối cùng mà mình sửa chữa không. Ông không hề nói gì trực tiếp với cô, nhưng nghĩ lại, cô nhận ra rằng có lẽ ông đã ngờ trước sự việc. Trong lần ghé thăm cuối của cô, ông đã đưa cô chìa khóa dự phòng của nhà ông, và nháy mắt nói với cô, “Đừng làm mất nó, nếu không cháu có thể sẽ phải phá cửa sổ mà vào đấy.” Cô đã nhét chìa khóa vào túi mà không nghĩ ngợi gì nhiều vì ông còn nói nhiều điều kỳ quặc khác đêm đó. Cô nhớ mình đã lục lọi tủ đựng đồ ăn tìm cái gì đó để nấu bữa tối trong khi ông ngồi ở bàn, hút một điếu thuốc.
“Cháu thích vang đỏ hay vang trắng?” đột nhiên ông hỏi.
“Còn tùy ạ,” cô đáp, sắp xếp đống đồ hộp. “Đôi khi cháu dùng bữa tối với một ly vang đỏ.”
“Bác có một ít vang đỏ,” ông tuyên bố. “Trên kia, trong ngăn tủ đằng đó.”
Cô quay người lại. “Bác có muốn cháu mở một chai không?”
“Bác không quan tâm nhiều tới nó. Bác chỉ uống Pepsi với đậu phộng thôi.” ông gạt tàn thuốc vào một tách cà phê mẻ. “Bác cũng luôn có thịt bò tươi để làm bít tết. Bác đã dặn người bán thịt mang thịt đến vào mỗi thứ Hai. Chúng ở giá dưới cùng của ngăn đá. Bếp nướng thì ở đằng sau nhà.”
Cô bước một bước về phía tủ lạnh. “Bác có muốn cháu làm cho bác một miếng bít tết không?”
“Không. Bác thường để dành cuối tuần mới ăn.”
Cô ngập ngừng, không chắc chắn chuyện này sẽ dẫn tới đâu. “Vậy là bác chỉ nói cho cháu biết thôi à?”
Thấy ông gật đầu và không nói gì thêm, Amanda cho biểu hiện đó là do tuổi tác và mệt mỏi. Cuối cùng cô làm cho ông món trứng với thịt xông khói và dọn dẹp nhà cửa trong khi Tuck ngồi thư thái trong ghế bành cạnh lò sưởi với một tấm chăn trùm lên vai và nghe đài. Cô không thể không chú ý rằng trông ông thật nhăn nheo, nhỏ bé hơn người mà cô từng biết khi còn là một cô gái rất nhiều. Khi chuẩn bị rời đi, cô chỉnh lại chiếc chăn, nghĩ rằng ông đã ngủ thiếp di. Hơi thở của ông nghe nặng nề và khó nhọc. Cô cúi xuống và hôn nhẹ lên má ông.
“Cháu yêu bác, bác Tuck,” cô thì thầm.
Ông khẽ trở mình, có lã là đang mơ, nhưng khi cô quay người để đi về thì nghe thấy ông thở ra. “Tôi nhớ bà, Clara,” ông lẩm bẩm.
Đó là thững lời cuối cùng mà cô nghe được từ ông. Một nỗi cô đơn nhức nhối toát ra từ những lời đó, và đột nhiên cô hiểu tại sao trước đây Tuck lại tiếp nhận Dawson. Cô đoán là Tuck cũng đã rất cô đơn.
Sau khi gọi Frank để báo cho anh biết rằng cô đã tới nơi - giọng anh nghe đã có vẻ líu nhíu - Amanda ngắt máy bằng vài lời ngắn gọn và tạ ơn Chúa rằng bọn trẻ đã tham gia những hoạt động khác vào cuối tuần này.
Trên bàn thợ, cô tìm bìa kẹp hồ sơ của gara và tự hỏi mình nên làm gì với chiếc xe. Đọc lướt nhanh thấy chiếc Stingray thuộc về một hậu vệ của đội Carolina Hurricanes, cô ghi nhớ trong đầu là sẽ thảo luận vấn đề này với luật sư quản lý bất động sản của Tuck. Đặt bìa kẹp hồ sơ sang một bên, suy nghĩ của cô lại hướng về Dawson. Anh cũng là một phần bí mật của cô. Nói với Frank về Tuck sẽ dẫn đến việc phải nói với anh về Dawson, mà cô không muốn làm thế. Tuck luôn hiểu rằng Dawson là lý do thật sự cô về thăm ông, đặc biệt là lúc ban đầu. Tuck không bận tâm vì hơn ai hết ông hiểu được sức mạnh của ký ức. Có những khi, ánh nắng xuyên qua những tán lá, làm mảnh sân của Tuck như tắm trong màn sương cuối hè, cô gần như có thể cảm nhận được sự hiện diện của Dawson bên cạnh, và cô nhớ ra rằng Tuck không hề bị điên. Giống như bóng ma của Clara, bóng ma của Dawson ở khắp mọi nơi.
Mặc dù cô biết cứ băn khoăn rằng cuộc sống của mình sẽ khác thế nào nếu cô và Dawson vẫn ở bên nhau cũng chỉ vô nghĩa, nhưng thời gian gần đây cô cảm thấy thôi thúc trở về nơi này một cách thường xuyên hơn. Và cô càng về thăm thường xuyên thì ký ức càng trở nên mãnh liệt hơn, những sự kiện và cảm xúc đã bị lãng quên lâu nay lại sống dậy từ sâu thẳm quá khứ ở nơi đây thật dễ dàng để nhớ lại cô đã cảm thấy mạnh mẽ thế nào khi ở bên Dawson, anh đã luôn khiến cô thấy mình là duy nhất và xinh đẹp như thế nào. Cô có thể nhớ lại rõ ràng mình đã chắc chắc Dawson là người duy nhất trên thế giới này thật sự hiểu cô. Nhưng trên tất cả, cô có thể nhớ mình đã yêu anh một cách trọn vẹn thế nào và đáp lại anh cũng yêu cô với niềm đam mê toàn tâm toàn ý ra sao.
Theo cái cách trầm lắng của riêng mình, Dawson đã khiến cô tin rằng mọi chuyện đều có thể. Khi tha thẩn trong cái gara lộn xộn, với mùi xăng dầu vẫn còn vương trong không khí, cô cảm nhận được sự hiện hữu của hàng trăm buổi tối mình đã trải qua ở đây. Cô lướt ngón tay dọc băng ghế mà cô từng ngồi hàng giờ để xem Dawson cúi người trên mui xe chiếc Fastback đang mở, thỉnh thoảng lại vặn cờ lê, móng tay anh đen sì vì dầu mỡ. Ngay cả khi đó, khuôn mặt anh cũng không hề có những nét dễ chịu, trẻ trung vô tư như cô thấy ở những người khác tầm tuổi của họ, và khi những cơ bắp rắn rỏi trên cánh tay anh nổi lên lúc anh với tay lấy một dụng cụ khác, cô có thể thấy cơ thể, thấy hình dáng của người đàn ông mà anh đang dần trở thành. Giống như nhũng người khác ở Oriental, cô biết rằng bố anh vẫn thường xuyên đánh đập anh, và khi anh làm việc mà không mặc áo sơ mi, cô có thể nhìn thấy những vết sẹo trên lưng anh, hiển nhiên là do cái khóa thắt lưng gây ra. Cô không chắc là Dawson có còn nhận biết được sự tồn tại của chúng nữa hay không, điều đó dường như khiến chúng trông càng tệ hơn.
Anh cao và gầy, mái tóc đen rủ trên đôi mắt còn đen hơn, và ngay từ khi đó cô đã biết anh sẽ chỉ càng đẹp trai hơn khi trưởng thành. Trông anh không có vẻ gì giống với những người còn lại trong nhà Cole, và một lần cô đã hỏi anh có phải anh giống mẹ hơn không. Lúc đó, họ đang ngồi trong xe anh trong khi những giọt mưa bắn tung tóe trên kính chắn gió. Giống như Tuck, giọng của anh gần như luôn nhẹ nhàng, thái độ lúc nào cũng điềm tĩnh. “Anh không biết,” anh trả lời, lau sương mù trên kính. “Bố anh đã đốt hết ảnh của mẹ anh.”
Vào cuối mùa hè đầu tiên bên nhau, sau khi mặt trời lặn đã lâu, họ đi xuống bến tàu nhỏ trên nhánh sông. Anh đã nghe được rằng sẽ có mưa sao băng, và sau khi trải một tấm chăn lên lớp ván lát của bến tàu, họ im lặng ngắm những tia sáng vụt qua bầu trời. Cô biết bố mẹ sẽ rất tức giận nếu họ biết cô đang ở đâu, nhưng khi đó không có gì quan trọng bằng những ngôi sao băng và hơi ấm của cơ thể anh, và cái cách mà anh nhẹ nhàng ôm lấy cô, như thể anh không thể tưởng tượng ra được một tương lai không có cô.
Mối tình đầu nào cũng đều như thế chăng? Cô ngờ rằng thế, thậm chí đến tận bây giờ nó vẫn thật hơn bất kỳ điều gì cô từng biết. Đôi khi cô thấy buồn khi nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ được trải qua cảm giác đó lần nữa, nhưng cuộc sống luôn tìm cách đè nén sự mãnh liệt của nỗi đam mê; cô đã học được rất rõ rằng tình yêu không phải lúc nào cũng là đủ.
Thế nhưng, khi nhìn ra khoảng sân phía trước gara, cô không thể không tự hỏi liệu Dawson có cảm thấy niềm đam mê như thế lần nữa không, và liệu anh có hạnh phúc không. Cô muốn tin rằng anh hạnh phúc, nhưng cuộc sống đối với một người từng có tiền án không bao giờ là dễ dàng. Như cô được biết, có thể anh đã lại vào tù, dính vào ma túy hay thậm chí đã chết, nhưng cô không thể chồng khớp những hình ảnh đó với con người mà cô đã từng biết. Đó là một phần của cái lý do khiến cô chưa từng hỏi thăm Tuck về anh; cô sợ điều mà ông có thể sẽ nói với cô, và sự im lặng của ông chỉ càng củng cố thêm những hoài nghi của cô. Cô thích sự không rõ ràng hơn, vì nó cho phép cô nhớ về anh như cô đã từng biết. Dù đôi khi cô tự hỏi anh cảm thấy ra sao khi nghĩ về cái năm mà họ ở bên nhau, hay liệu anh có từng ngỡ ngàng khi nhớ về những gì họ đã cùng chia sẻ, hay thậm chí là liệu anh có nghĩ về cô hay không.
Dành Hết Cho Em Dành Hết Cho Em - Nicholas Sparks Dành Hết Cho Em