Phần 1 : Hoa Anh Đào
Chương 1
“Này, hoa anh đào rơi như tuyết ấy nhỉ.” Akari bảo.
Đã mười bảy năm trôi qua kể từ ngày tôi nghe câu nói đó của Akari. Năm cuối Tiểu học, hàng ngày chúng tôi vẫn hay nô đùa quanh hàng cây dọc đường về nhà với chiếc cặp sách nhỏ xíu sau lưng. Tiết trời đương xuân với vô vàn đóa hoa anh đào đua nhau khoe sắc trên những tán cây. Những cánh hoa hòa mình trong điệu khiêu vũ uyển chuyển, nhẹ nhàng cùng gió, trước khi rơi xuống phủ trắng rợp cả mặt đường. Không khí xung quanh thật ấm áp và trời cao trông như một bức tranh thủy mặc khổng lồ nổi bật với tông xanh ngắt chủ đạo. Cách chỗ này không xa là đường lớn và trạm xe lửa Odasaki nhưng không có chút âm thanh xô bồ nào vọng đến. Duy chỉ nghe tiếng chim véo von đâu đó báo hiệu mùa xuân đã trở lại, ban phước lành cho vạn vật. Thật tuyệt vời khi lúc này, chúng tôi là những người duy nhất được thưởng lãm trọn vẹn cảnh sắc ấy.
Tất cả hòa quyện vào nhau tạo nên một bức họa xuân thật sống động.
oOo
Thật thế. Ít nhất kí ức về quãng thời gian đó luôn đẹp như tranh vẽ. Có nhiều hơn một bức tranh như thế trong tôi. Mỗi khi hồi tưởng về quá khứ, tôi có cảm giác như đang đứng ngắm một khung cảnh từ xa. Một cậu bé và một cô bé vừa tròn mười một tuổi, có chiều cao xêm xêm nhau. Tôi chăm chăm dõi theo hình bóng đôi bạn nhỏ chạy dần xa trong ánh nắng dát vàng khắp mọi nơi. Lần nào cô bé cũng bứt lên chạy trước – một khoảnh khắc luôn làm trái tim cậu bé khi ấy và cả tôi khi đã trưởng thành, thấy hụt hẫng.
Tôi vẫn luôn nhớ rõ lời Akari tả cơn mưa hoa anh đào, chẳng khác nào tuyết rơi. Trước đó, tôi chưa từng hình dung như vậy. Trước đó, anh đào đơn thuần chỉ là anh đào, tuyết đơn thuần chỉ là tuyết.
“Này, hoa anh đào rơi như tuyết ấy nhỉ.”
“Thế à? Ừm, có vẻ thế….”
“Thôi bỏ đi,” Akari giọng thoáng giận dỗi, thoắt bước nhanh về phía trước rồi đột nhiên xoay người lại, buông một câu bí hiểm.
“Này, mình nghe nói là 5 centimet một giây đấy.”
“Cái gì cơ?”
“Nghĩ thử xem nào?”
“Mình không biết.”
“Thôi nào, động não chút xem, Takaki-kun.”
Nghĩ mãi vẫn không hiểu, tôi đành thú nhận mình không biết.
“Đó là vận tốc cánh hoa rơi đấy. Cánh hoa anh đào rơi với vận tốc 5 centimet một giây.”
"5 centimet một giây. Nghe thật thú vị, tôi liền bảo “Ồ, cậu biết nhiều thật ấy, Akari.”
“Hihihi,” Akari cười khúc khích.
“Mình còn biết nhiều nữa cơ. Mưa rơi 5 centimet một giây. Mây rơi 1 centimet một giây.”
“Mây? Ý cậu là mây trên trời á?”
“Ừ, mây trên trời đấy.”
“Mây cũng có thể rơi sao? Không phải chúng luôn trôi nổi vô định trên cao à?”
“Có thể chứ. Mây không thể bay mãi vì chúng chứa nhiều hơi nước. Những đám mây trông như đang nổi vì chúng to và cách xa mặt đất. Khi lượng hơi nước tích tụ tăng lên, mây sẽ ngày một lớn hơn và rơi xuống mặt đất dưới dạng mưa hoặc tuyết.”
“Ồ…” Vừa nói tôi vừa chăm chú ngước lên nhìn mây trên cao rồi lại ngó xuống tán hoa anh đào đầy háo hức. Giọng nói ngọt ngào, lanh lảnh của Akari khiến điều ấy nghe như một định luật quan trọng của vũ trụ. 5 centimet một giây.
“Ồ…” Akari nhại giọng trêu tôi rồi bất thần bỏ chạy.
“Đợi đã, Akari!” Tôi vội vã đuổi theo.
***
Suốt quãng thời gian đó, Akari và tôi thường trao đổi với nhau bất cứ điều gì học được từ sách hay vô tuyến. Nhiều điều nhỏ nhặt mà chúng tôi tin là quan trọng như tốc độ cánh hoa rơi, niên đại vũ trụ hay nhiệt độ nóng chảy của bạc. Ngẫm lại, hai chúng tôi cứ như những chú sóc tất bật chuẩn bị cho kì ngủ đông, đôi lúc lại thấy giống thủy thủ đang dong buồm ra khơi, cốt mở mang tầm mắt về chiêm tinh học và thu gom những ánh sao thất lạc rải rác khắp hành tinh. Ngày đó, hai đứa nhóc bọn tôi thực sự tin rằng những mẩu kiến thức ấy là hành trang không thể thiếu cho tương lai.
Chính vì lí do trẻ con đó, Akari và tôi đều biết rất nhiều. Chúng tôi biết vị trí các sao mỗi mùa, hoặc hướng và độ sáng sao Mộc ra sao trước khi có thể quan sát bằng mắt thường. Chúng tôi còn biết tại sao trời màu xanh, vì sao trái đất có bốn mùa, khi nào tộc người Neanderthal[1] tuyệt diệt và cả tên giống loài bị tuyệt chủng trong Kỷ Cambri[2]. Còn nhớ, tất cả những điều vĩ đại và xa xôi ấy đều khiến hai đứa bọn tôi phấn khích khủng khiếp. Nhưng rồi tôi cũng lãng quên gần hết. Giờ nhớ lại, chúng chỉ như những mảnh vụn kiến thức đã một thời là chân lý trong tôi.
Tất cả chú thích đều là của người dịch.
[1] Là một loài trong chi Người đã tuyệt chủng, các mẫu được tìm thấy ở châu Âu và một vài nơi thuộc phía Tây và trung Á. Neanderthal hoặc được xếp là phụ loài (hay chủng tộc) của người hiện đại hoặc được tách thành một loài người riêng.
[2] Là một đơn vị phân chia chính trong niên đại địa chất, bắt đầu vào khoảng 542 triệu năm trước vào cuối thời kỳ liên đại Nguyên Sinh và kết thúc vào khoảng 488,3 triệu năm trước với sự khởi đầu của kỷ Ordovic. Nó là kỷ đầu tiên của đại Cổ sinh thuộc liên đại Hiển Sinh.
Chương 2
Suốt từ lúc mới quen đến trước khi cách xa, hai chúng tôi tìm thấy ở nhau rất nhiều điểm chung. Đó là quãng thời gian độ ba năm từ lớp Bốn đến lớp Sáu[1]. Cả hai đều quen chuyển nhà nhiều lần do tính chất công việc của bố, và trùng hợp thay, chúng tôi được chuyển tới cùng một trường Tiểu học ở Tokyo. Tôi đến từ Nagano năm lớp ba còn Akari đến từ Shizuoka năm lớp bốn. Đến giờ, tôi vẫn nhớ rõ cảnh Akari hồi hộp giới thiệu bản thân trong ngày đầu đến trường. Em khép nép đứng trên bục giảng, bờ vai thon nhỏ cùng mái tóc suôn dài lung linh trong nắng xuân đương rọi qua khung cửa. Đôi môi hồng khẽ mím lại run run, mắt chăm chăm nhìn về phía trước không chớp. Dáng vẻ ấy làm tôi nhớ về chính mình một năm trước và ngay lập tức khiến tôi thấy thật thân thuộc. Sau đó, tôi chủ động bắt chuyện với em và hai người nhanh chóng trở nên thân thiết.
Akari là người duy nhất đồng quan điểm với tôi về nhiều chuyện, như việc học sinh lớn lên ở Setagaya chín chắn hơn bạn bè đồng trang lứa, hay việc chen lấn ở nhà ga đông đúc thật mệt mỏi, và việc nếm vị của nước máy quả là khó chịu. Với chúng tôi, chúng đều là những vấn đề to tát. Akari và tôi nhỏ người, lại dễ ốm nên hay đến thư viện thay vì sân thể thao, và tất nhiên không hứng thú chút nào với giờ giáo dục thể chất. Sở thích chung của hai đứa đều là tâm sự chuyện trò và đọc sách, cứ như mấy ông bà “cụ non”. Thời gian đó, bố làm việc ở ngân hàng còn gia đình tôi sống trong một căn hộ được công ty phân cho, và có lẽ Akari cũng vậy nên cả hai thường về chung đường. Một cách tự nhiên, em và tôi nương tựa vào nhau, dành thời gian nghỉ bên nhau và đi chơi cùng nhau sau giờ học.
Vì thế, bọn tôi luôn là tâm điểm gán ghép của bạn bè cùng lớp. Giờ ngẫm lại, những hành động và lời nói khi đó chỉ là trò trẻ con, nhưng cậu bé Takaki ngày ấy không giỏi xử lý mấy tình huống như vậy. Mỗi lần bị trêu chọc, tôi tổn thương rất nhiều. Tuy nhiên, càng những lúc như thế, tình cảm giữa hai chúng tôi lại càng bền chặt.
***
Một ngày nọ, tôi vừa ra nhà vệ sinh một lát và trên đường quay vào lớp, tôi bắt gặp Akari đang đứng chôn chân một mình trên bục giảng. Trên bảng vẽ một “chiếc ô tình yêu” [2] đề tên tôi và em bên dưới (giờ nghĩ lại, đó là một kiểu bắt nạt điển hình), trong khi đám bạn cùng lớp thi nhau bàn tán, chỉ trỏ từ xa. Có thể em định bước lên bục giảng để dẹp trò đùa nhưng lại dừng giữa chừng vì xấu hổ. Nhìn em khổ sở như vậy, tôi cứng cả người vì giận. Không thèm nói với ai lời nào, tôi bước thẳng vào trong, lấy khăn xóa sạch bức vẽ rồi kéo tay Akari chạy khỏi lớp học, bỏ mặc phía sau tiếng hò reo phấn khích của lũ bạn. Sự bạo dạn ngày hôm đó đến chính tôi cũng không dám tin, và giây phút nắm chặt bàn tay em mềm mại khiến trái tim tôi muốn nổ tung còn đầu óc thì mụ mị đi vì hạnh phúc. Lần đầu tiên trong đời, không còn điều gì khiến tôi cảm thấy sợ hãi nữa. Chắc rằng vẫn còn nhiều thử thách chờ đón phía trước, nhưng bất kể đó là gì chăng nữa, chuyển trường, thi cử, chuyển ra nước ngoài hay gặp gỡ những người xa lạ, miễn là có em ở bên, tôi sẵn sàng đương đầu với tất cả. Cảm xúc đó, còn quá sớm để nói đó là tình yêu, nhưng có một điều chắc chắn, tôi thích Akari và cảm thấy rõ ràng rằng em cũng có tình cảm tương tự dành cho tôi. Ngày hai đứa yên lặng nắm tay nhau cùng chạy, tôi càng chắc chắn về những xúc cảm mãnh liệt trong lòng. Chỉ cần luôn kề bên nhau bất kể chuyện gì xảy ra, chúng tôi tin chắc rằng không có gì đáng để e sợ cả.
Xuyên suốt ba năm, tình cảm giữa tôi và em ngày một đậm sâu. Chúng tôi cùng quyết tâm đỗ một trường trung học cơ sở cách nhà không xa, phấn đấu học hành và dành nhiều thời gian bên nhau hơn. Nhận thấy bản thân có phần chín chắn hơn bạn bè đồng trang lứa và đều sống nội tâm, chỉ thích quanh quẩn trong thế giới nhỏ bé của riêng mình, hai người chúng tôi thuyết phục nhau rằng đó là bước chuẩn bị tất yếu cho việc lên cấp hai. Sắp rồi, sắp tốt nghiệp Tiểu học, xa rời ngôi trường với bạn học chẳng mấy quen thân, bắt đầu một cuộc đời trung học đầy niềm vui với bạn bè mới. Chúng tôi cũng hy vọng việc đó sẽ giúp củng cố và làm nảy nở thêm những xúc cảm mạnh mẽ về nhau. Có thể, lên cấp hai sẽ là thời điểm thích hợp để tôi và em bộc bạch tình yêu của mình. Khoảng cách với thế giới xung quanh sẽ nhỏ lại, tôi và em sẽ xích lại gần nhau thêm nữa, phải không? Hẳn rồi, chúng tôi sẽ tự chủ và có nhiều tự do hơn.
…Giờ ngẫm lại, có lẽ chúng tôi biết trước mất mát sẽ đến khi luôn tranh thủ tâm sự với nhau mọi chuyện. Một điều chắc chắn rằng, tình cảm tôi dành cho Akari rất sâu nặng và cô ấy cũng thế. Hai chúng tôi mong được mãi bên cạnh nhau nhưng có thể, vì phải chuyển trường quá nhiều, sâu trong thâm tâm luôn là nỗi sợ âm ỉ ước mơ không thành hiện thực. Phải chăng, càng cố gắng trao nhau nhiều kỉ niệm đẹp, cũng chính vì sợ rằng một ngày nào đó, ta không còn ở bên nhau được nữa.
***
Đáng buồn thay, rốt cuộc cũng có ngày Akari và tôi chia xa, nhập học vào hai trường khác nhau. Chính Akari gọi điện báo tôi biết vào một tối mùa đông năm lớp Sáu tiểu học.
Vì hiếm khi tâm sự qua điện thoại và cũng đã khá muộn (tầm 9 giờ tối), tôi có linh cảm chẳng lành khi mẹ chuyển điện thoại.
“Mình xin lỗi, Takaki-kun”, Akari nói, giọng nhỏ xíu. Sau đó là những điều tôi không bao giờ muốn nghe và muốn tin.
“Chúng ta không thể học chung trường cấp hai được. Bố mình sắp chuyển đến công tác ở một thị trấn nhỏ phía Bắc Kanto”. Giọng em run run như chực khóc. Tôi không thể hiểu nổi cô ấy đang nói gì. Lòng tôi chợt bừng bừng như có lửa đốt còn đầu óc thì như chìm trong băng giá. Tôi không thể hiểu tại sao Akari phải kể với tôi chuyện này.
“Sao... Thế còn Trung học Nishinaka? Trường đó đã nhận cậu rồi mà?” Rốt cục tôi cũng thốt ra được một câu.
“Bố nói sẽ thu xếp cho mình học ở Tochigi… Mình xin lỗi.”
Nghe tiếng động cơ xe vọng vào điện thoại, tôi biết cô ấy gọi từ trạm điện thoại công cộng. Còn tôi đang ngồi bó gối trong phòng riêng, cảm nhận rõ sự lạnh lẽo từ chiếc điện thoại đang thấm dần vào từng ngón tay. Dù không biết nói gì cho phải, nhưng tôi thấy mình nên tìm lời đáp lại cô ấy.
“Akari, cậu không có lỗi gì cả…”
“Mình đã xin ở lại và qua sống với dì ở Katsushika nhưng bố bảo phải chờ khi lớn hơn mới được…”
Giọng Akari nghẹn ngào, cố hết sức không òa ra nức nở bất giác khiến tôi muốn gác ngay điện thoại vì sợ phải nghe thêm nữa.
Không kịp ghìm lại, tôi nói to “…Mình hiểu cả rồi!” Mặc cho Akari thở gấp ở đầu dây bên kia, tôi tiếp tục.
“Quên chuyện đó đi…” tôi nói, giọng khô khốc. “Hãy quên chuyện đó đi…” Lặp lại lời đau đớn ấy, phải gắng lắm nước mắt mới không tuôn rơi. Tại sao… tại sao mọi sự lại ra nông nỗi này?
Im bặt mất mười giây, cuối cùng em khẽ sụt sịt “Mình xin lỗi” rồi buông máy. Áp chặt tai vào điện thoại, đầu tôi hoàn toàn trống rỗng. Không thể bỏ ống nghe ra, cũng không thể dập máy xuống, thâm tâm tôi hiểu rõ những lời vừa rồi làm Akari tổn thương rất nhiều. Nhưng liệu có cách nào cứu vãn được khi tôi không biết cách kiểm soát cảm xúc của chính mình? Sau cuộc nói chuyện với Akari, tôi cứ bó gối ngồi ngây ra mãi.
Những ngày tiếp theo, tôi ở trong trạng thái rất tệ vì đã không kiếm được lời nào tử tế an ủi Akari trong lúc cô ấy đang vô cùng bất an. Với cảm xúc nồng nàn lưu giữ trong tim, hai người bọn tôi vụng về nói câu từ biệt trong lễ tốt nghiệp. Hôm trước ngày lễ, em đến gặp tôi và nhẹ nhàng bảo “Vậy là… tạm biệt nhé…” trong khi tôi cúi gằm đầu, không biết đáp trả thế nào. Tôi thấy mình thật vô dụng, từ trước đến giờ chỉ biết dựa dẫm vào cô ấy. Trước khi gặp nhau, dù đã dặn lòng phải tỏ ra chín chắn hơn nhưng rồi đâu vẫn hoàn đấy. Trước sau tôi vẫn là một cậu bé con, không hơn không kém. Tôi tự nhủ với bản thân, không thể để mọi chuyện như vậy mãi, và cầu mong một thế lực vô hình nào đó xuất hiện, cuốn phăng đi những con trẻ trong tôi. Kể cả khi không có sự lựa chọn nào khác, chúng tôi cũng không nên chia tay như thế. Đáng lẽ, Akari và tôi không bao giờ phải lâm vào cảnh mỗi người một nơi.
***
Kì đầu năm cấp hai bắt đầu với tâm trạng bộn bề ngổn ngang. Dù không muốn, tôi vẫn phải một mình đối mặt với những ngày tháng mới mẻ không mấy dễ chịu ấy. Đáng lẽ, tôi sẽ nhập học cùng trường với Akari. Vậy mà giờ, chỉ mình tôi ở đây, chậm chạp kết bạn, rồi tham gia câu lạc bộ bóng đá và tập luyện như điên. So với hồi Tiểu học, cuộc sống Trung học có nhiều việc để làm hơn, nhưng cũng khá thuận tiện để giữ đầu óc không lúc nào ngơi nghỉ. Những lúc ở một mình, cũng như trước đây, tôi không thấy thoải mái chút nào, một cảm giác không thể chịu đựng nổi. Chính vì vậy, tôi làm mọi cách để được bận rộn, như dành hầu hết thời gian đi chơi với chúng bạn, lên giường ngủ ngay khi làm xong bài tập về nhà và dậy thật sớm đến tập luyện ở câu lạc bộ.
Chắc hẳn Akari cũng đang hàng ngày tất bật thích nghi với nơi ở mới. Tôi mong những ngày tháng đó sẽ giúp em nguôi ngoai dần kỷ niệm về tôi. Nói gì đi nữa, tôi cũng là người làm em tổn thương lúc chia xa. Tôi cũng vậy, phải tìm cách quên em thôi. Cả hai người bọn tôi có lẽ, đều biết cách lãng quên sau khi chuyển trường nhiều lần và chia tay những người thân quen.
***
Thế rồi, vào một ngày hè nóng nực, một lá thư được của Akari được chuyển đến.
Còn nhớ như in ngày tìm thấy phong thư màu hồng trong hòm thư trước cửa nhà, tôi bối rối nhiều hơn là hạnh phúc. Sao lại đúng vào lúc này? Tôi tự hỏi. Dù đã quyết tâm thích nghi với việc không có Akari kề bên, lá thư em gửi chợt nhắc rằng thâm tâm tôi thực ra nhung nhớ em đến nhường nào.
Phải, thay vì cố quên, hình ảnh của em bỗng chốc tràn về trong tâm trí tôi. Dù quen thêm nhiều bạn mới, nhưng càng nói chuyện với họ, tôi càng thấm thía rằng em đặc biệt với tôi đến mức nào. Rốt cuộc, tôi giam mình trong phòng cả ngày đọc đi đọc lại lá thư của Akari. Thậm chí khi ngồi học trên lớp, tôi còn bí mật kẹp trong vở và nghiền ngẫm mãi. Tôi đọc lại, đọc nhiều đến mức gần như thuộc lòng từng câu từng chữ.
“Takaki Tohno thân mến,” Một cảm xúc bồi hồi khó tả khi lại được nhìn thấy nét chữ ngay ngắn, mềm mại của Akari.
“Cũng đã lâu rồi nhỉ. Dạo này cậu vẫn khỏe chứ? Thời tiết chỗ mình cũng khá oi bức nhưng chắc vẫn dễ chịu hơn nhiều so với Tokyo. Thực tình giờ nghĩ lại, mình vẫn thích mùa hè nóng ẩm ở Tokyo hơn, nóng đến độ nhựa đường trông như chuẩn bị tan chảy ra đến nơi, cái nóng nung hầm hập bên ngoài các cao ốc trong khi gió điều hòa thổi lạnh gần như băng trong các căn hộ và ga tàu điện ngầm.”
Một điều thật hài hước là, xen giữa những câu từ người lớn là nhiều hình minh họa nhỏ nhỏ, xinh xinh (hình mặt trời, hình ve sầu,…), cứ làm đầu óc tôi bay bổng, không biết cô bé Akari năm xưa đang dần ra dáng thiếu nữ thế nào? Bức thư là vài dòng ngắn ngắn ngủi về cuộc sống của em hiện tại. Cô ấy kể việc đến trường mới trên chiếc tàu có bốn toa thế nào, tham gia câu lạc bộ bóng rổ để giữ dáng ra sao và cả chuyện đã đổi sang cắt tóc tém nữa. Bất giờ là lá thư không nhắc gì đến tôi. Cô ấy không hề nói nhớ tôi và từ cách viết trong thư, tôi hiểu rằng Akari đã quen với cuộc sống mới và mọi thứ đã ổn định. Tuy nhiên, tôi biết rằng em sẽ rất buồn nếu viết hẳn là nhớ và muốn nói chuyện với tôi. Nếu không thế, Akari chẳng đời nào đặt bút viết lá thư này. Kỳ thực, đó cũng chính là những cảm xúc của tôi về em.
Từ đó, tôi và Akari viết thư cho nhau mỗi tháng một lần. Với tôi, cuộc sống dường như dễ chịu hơn hẳn. Chẳng hạn, giờ tôi có thể thẳng thắn thừa nhận những bài học trên lớp thật nhàm chán. Trong quãng thời gian cách xa Akari, tôi luôn nghĩ những bài tập hà khắc hay lời chỉ bảo vô lý của giáo viên đúng không thể cãi vào đâu được, thì giờ, tôi bắt đầu cảm thấy không thoải mái. Cảm xúc dần trở lại với tôi như lúc trước. Lạ kì thay, chính nhờ lẽ đó mà tôi dễ dàng chịu đựng trở ngại trong cuộc sống hơn. Mặc dù không bao giờ viết về những điều bực bội, khó chịu xảy ra hàng ngày, nhưng chúng tôi vẫn tin tưởng mạnh mẽ rằng có một người khác trên cõi đời này luôn thấu hiểu và ủng hộ mình.
Cứ thế, mùa hè và mùa thu của năm đầu cấp hai lần lượt trôi qua, giờ đã sang đông. Tôi bước sang tuổi mười ba, cao thêm 7 centimet, cơ thể cường tráng hơn và không còn dễ ốm như hồi nhỏ. So với hồi Tiểu học, tôi có cảm tưởng rằng mình đã bước gần hơn ra thế giới. Chắc giờ Akari cũng trạc tuổi tôi. Mỗi lần nhìn đồng phục các bạn nữ trong lớp, tôi lại mơ mộng không biết em trông như thế nào nếu khoác lên mình bộ cánh ấy. Một lần Akari bảo muốn được cùng tôi ngắm hoa anh đào như thuở xưa. Em còn bảo gần nhà em bây giờ có một cây hoa anh đào lớn lắm. Em viết “Mình chắc chắn hoa anh đào nơi đây cũng rơi với vận tốc 5 centimet một giây.”
***
Giữa kì học thứ ba, tôi được tin mình phải chuyển trường lần nữa.
Tôi sẽ chuyển đi vào kì nghỉ xuân tới, đến Kagoshima, một đảo gần vùng Kyuushuu, mất hai giờ từ sân bay Haneda, Tokyo, chẳng khác nào sống ở nơi tận cùng thế giới. Thực ra, tôi cũng quen với cuộc sống thay đổi liên tục và chẳng mảy may bận tâm đến nó. Điều làm tôi lo lắng duy nhất là khoảng cách với Akari. Từ lúc rời Tiểu học đến giờ, chúng tôi chưa gặp lại nhau lần nhau nhưng khoảng cách địa lý kì thực không xa đến vậy. Chỉ mất ba giờ đi tàu giữa vùng Bắc Kansai chỗ Akari ở và Tokyo nơi tôi sống. Chúng tôi vốn có thể gặp nhau vào thứ Bảy hàng tuần. Nhưng nếu chuyển đến vùng cực Nam nước Nhật, gần như tôi không thể gặp lại cô ấy nữa.
Vì thế, tôi quyết định viết thư hẹn gặp Akari một lần cuối trước khi chuyển trường. Trong thư, tôi gợi ý một loạt thời gian và địa điểm gặp nhau thích hợp và nhận được hồi đáp nhanh chóng. Sau khi kết thúc thi học kỳ, tôi phải sửa soạn chuyển nhà còn Akari phải tham gia hoạt động ở câu lạc bộ nên em và tôi chỉ có thể gặp nhau vào buổi tối sau tiết cuối cùng của kỳ học. Sau khi kiểm tra kỹ thời gian biểu, thời gian và địa điểm lý tưởng là một ga tàu gần nhà Akari lúc 7 giờ tối. Như thế, tôi sẽ nghỉ một buổi ở câu lạc bộ rồi khởi hành ngay sau khi tan học, ở cùng với Akari hai tiếng rồi bắt chuyến tàu cuối về nhà. Trong bất cứ trường hợp nào, miễn là về nhà trong ngày, tôi có thể đưa ra lời giải thích hợp lý cho bố mẹ. Để đến nơi, tôi phải bắt chuyến tàu tuyến Oda và Saikyou, rồi chuyển sang tuyến Utsu và Ryuoke, tốn tổng cộng 3500 yên cho vé khứ hồi. Đấy là một số tiền không nhỏ nhưng lúc này, không gì quan trọng hơn việc gặp lại Akari.
Hai tuần trước ngày hẹn, tôi dành toàn bộ thời gian rảnh viết một lá thư dài để sau này trao tận tay Akari. Có thể coi đây là lá thư tình đầu tiên tôi viết trong cuộc đời. Thư viết về tương lai tươi sáng mà tôi vẫn hằng mơ tưởng, những quyển sách hoặc bài hát tôi ưa thích, và nhất là, thổ lộ rằng em quan trọng với tôi nhường nào – có lẽ tình cảm ấy đơn thuần chỉ là tình yêu trẻ con nhưng tôi quyết định sẽ sống thật với cảm xúc của mình và bộc bạch càng nhiều càng tốt. Thực tình tôi không nhớ được hết mình đã viết gì, nhưng sơ sơ khoảng tầm tám trang giấy, bởi có quá nhiều điều muốn tâm sự, giãi bày với Akari. Miễn rằng em đọc được lá thư này, mình sẽ có sức mạnh chịu đựng những năm tháng tới tại Kagoshima, tôi thầm nhủ. Bức thư là một mảnh tâm hồn mà tôi những mong được chia sẻ cùng Akari.
Trong suốt thời gian viết thư, đêm nào tôi cũng mơ về em.
Tôi mơ thấy mình hóa thành một chú chim nhỏ. Vỗ mạnh cánh, tôi bay xuyên qua trời đêm, bay qua thành phố san sát nhà cao tầng và ga xe lửa. Cả cơ thể nhỏ bé của tôi rúng động vì hồi hộp và phấn khích, vút bay với tốc độ nhanh hơn gấp trăm lần chạy trên mặt đất, hướng về nơi ước hẹn với người đặc biệt ấy. Bay mãi, bay mãi, cuối cùng tôi trông thấy từ xa một thị trấn bao bọc trong màn ánh sáng rạng ngời, lấp lánh như những vì sao. Cưỡi trên từng cơn gió đêm lồng lộng, từ trên cao nhìn xuống, ánh sáng trên các chuyến tàu vụt qua dọc đường trông như những mạch máu lan tỏa khắp mặt đất. Chỉ một lát sau, tôi thấy mình xuyên qua những đám mây được mặt trăng quét lên một lớp ánh sáng màu xanh huyền ảo, như thể đang bay trên đại dương bao la của một hành tinh xa lạ nào đó. Sức mạnh những tưởng có thể bay đến bất cứ đâu trên thế giới như tuôn chảy khắp người khiến toàn thân tôi run lên vì hạnh phúc. Gần đến nơi hẹn, tôi háo hức nhào xuống. Cảnh vật nơi em sống nhanh chóng trải rộng ra trước mắt. Những cánh đồng ngoại ô rộng bát ngát, những mái nhà thưa thớt, những khoảnh rửng nhỏ rải rác đâu đây và nổi bật hơn hết thảy là một dải sáng chói đang chuyển động thật nhanh. Một chuyến tàu. Rất có thể tôi đã từng đi trên chiếc tàu đó. Trên sân ga, tôi bắt gặp bóng dáng một cô gái đang chờ tàu. Người con gái với mái tóc tém tinh nghịch dài ngang tai, ngồi chờ một mình
trên băng ghế gỗ bên cạnh một cây anh đào lớn. Trên tán cây, hoa vẫn chưa hé nụ nhưng sức sống vẫn toát ra từ lớp vỏ cứng cáp. Trong chốc lát, như phát hiện ra sự hiện diện của chú chim, cô gái ngước nhìn lên bầu trời. Sớm thôi Akari, ta sẽ được bên nhau thêm lần nữa…
[1] Ở Nhật, Tiểu học kéo dài từ lớp 1 đến lớp 6 thay vì lớp 1 đến lớp 5 như Việt Nam.
[2] “Ai Ai Gasa” hay “Love-Love Umbrella”, một biểu tượng tình yêu ở Nhật Bản, vẽ một chiếc ô rộng, cán dài, tên hai người yêu nhau viết ở hai bên cán thay vì vẽ trái tim như ở Việt Nam.
Chương 3
Trời mưa tầm tã ngày chúng tôi hẹn gặp. Bầu trời xám tuyền một màu như bị che phủ bởi một chiếc vung khổng lồ, trút xối xả từng đợt mưa lạnh giá xuống mặt đất. Thời tiết hôm đó, như thể mùa xuân bất chợt đổi ý, quay lưng bỏ mặc trần gian cho mùa đông ngự trị. Trùm ra ngoài đồng phục chiếc áo khoác nâu hai lớp và cất cẩn thận lá thư dành cho Akari vào túi, tôi cất bước đến trường. Tôi cũng không quên để lại vài dòng để bố mẹ bớt lo lắng khi con trai về muộn. Do hai nhà không phải chỗ quen biết, tôi nghi ngở khả năng bố mẹ cho bọn tôi gặp nhau kể cả khi được giải thích trước.
Cả ngày ở trường, lòng tôi nôn nao khôn tả, mắt chỉ chăm chăm nhìn ra ngoài cửa sổ. Bài giảng của giáo viên không vào đầu lấy một chữ. Tôi mơ màng nghĩ đến cảnh được ngắm Akari duyên dáng trong bộ đồng phục, được hàn huyên tâm sự cùng em, và nhất là, lại được nghe giọng nói dễ thương ấy lần nữa. Hồi còn bên nhau, dù ít khi để ý nhưng tôi biết rằng giọng Akari rất đáng yêu. Chất giọng ấm áp, mềm mại và không kém phần ngọt ngào của em làm tôi lần nào nhớ đến cũng nóng ran cả người, bồn chồn không yên, rồi cứ ngẩn người ngồi ngắm màn mưa lạnh giá ngoài cửa sổ.
5 centimet một giây. Vẫn đang ban ngày mà mọi vật bên ngoài đều nhuộm một màu xám xịt, cửa sổ nhiều tòa nhà và căn hộ thậm chí đã lên đèn. Đèn sàn nhảy từ một căn hộ tít đằng xa nhấp nháy liên tục, không lúc nào ngưng. Ngoài trời, mưa dần nặng hạt thêm và đến cuối ngày, tuyết bắt đầu rơi.
Sau khi tan học và lớp đã về hết, tôi rút lá thư và giấy ghi chú ra rồi cẩn thận kiểm tra lại. Tôi vẫn chưa an tâm hẳn về lá thư nhưng vẫn bỏ vào túi. Bất luận thế nào, lá thư cũng sẽ được trao tận tay Akari, nên tôi cất nó ở chỗ an toàn và dễ lấy. Trên giấy ghi chú là danh sách các chuyến tàu cần đi và giờ đến của từng chuyến. Dù trước đó đã đọc kĩ, tôi nghĩ xem lại một lần nữa vẫn tốt hơn.
Đầu tiên tôi sẽ bắt tàu lúc 3h54 ở ga Goutokuji trên tuyến từ Oda đến Shinjuku. Sau đó, chuyển sang tuyến Saikyou đến ga Oomiya, rồi chuyển qua tuyến Utsonomiya tới ga Koyama. Cuối cùng, sang tuyến Ryouke và đến điểm hẹn tại ga Iwafune lúc 6h45. Cuộc hẹn diễn ra lúc 7h00 giờ tối nên tôi rất mong tàu đến kịp. Lần đầu đi tàu một mình xa đến vậy, tôi tự nhủ mọi việc sẽ ổn cả. Phải, có thể gặp khó khăn nhưng đâu sẽ vào đó thôi.
Bước xuống cầu thang sáng mờ mờ hướng về phía cửa ra vào, tôi mở tủ cá nhân để thay giầy ra về. Tiếng cửa sắt đóng lại sau lưng lớn hơn hẳn mọi hôm. Quyết định để lại chiếc ô mang theo từ sáng, tôi bước ra ngoài và ngước nhìn lên trời. Cơn mưa khi sớm giờ đã nhường chỗ cho tuyết trắng, khiến lòng tôi không khỏi khấp khởi. Thật dễ nhận biết khi tuyết rơi hơn những lúc mưa chuẩn bị tới. Đăm đăm nhìn bầu trời, tôi có cảm tưởng sắp bị nuốt chửng bởi vô số bông tuyết đang đua nhau sà xuống mặt đất. Trùm nhanh mũ lên đầu, tôi chạy một mạch ra ga.
***
Đó là lần đầu tôi đặt chân đến ga Shinjuku, tuy giờ nhớ lại, khi trước đã có lần tôi đến đây nhân dịp đi xem phim cùng bạn. Lần đó chúng tôi đến Shinjuku bằng tuyến Oda, và sau khi rời quầy soát vé cửa “JR East”[1], phải loay hoay một lúc mới tìm được đường ra. Sự tấp nập và sầm uất của ga Shinjuku để lại cho tôi ấn tượng còn mạnh hơn bộ phim sau đó.
Rời quầy soát vé tuyến Oda, tôi dừng lại để xem kỹ bản chỉ đường cho khỏi lạc rồi nhanh rảo bước đến “Phòng bán vé tuyến xe lửa”[2], nơi đặt một dãy máy bán vé tự động, và đứng vào cuối hàng ít người chờ nhất. Mùi nước hoa của một phụ nữ dân văn phòng cùng hàng khiến tôi phát tức ngực, rồi mùi băng phiến trên áo khoác một người đàn ông lớn tuổi hàng bên cạnh bay sang thật không dễ chịu chút nào. Đứng một lúc trong khu nhà ga ồn ào với đủ loại âm thanh, tôi hơi chóng mặt và cảm thấy cái lạnh đang dần ngấm vào từ mũi giày sục trong tuyết. Cuối cùng, khi đến lượt mua vé, tôi hơi băn khoăn khi máy không có nút bấm (thời đó, hầu hết máy bán vé vẫn có nút bấm). Ngó sang hàng bên cạnh, tôi mới biết có thể bấm trực tiếp trên màn hình.
Từ chỗ bán vé, sau khi xem xét cẩn thận các biển chỉ đường xung quanh, tôi chen qua đám đông tìm đường đến tuyến Saikyou. “Nội tuyến Yamanote vòng ngoài”[3], “Tuyến Sobu, Nagano”, “Nội tuyến Yamanote vòng trong”, “Tuyến Sobu, Chiba”, “Tàu tốc hành tuyến Trung tâm”, “Tàu tốc hành tuyến Trung tâm khu vực Nội thành”… Tôi băng qua nhiều sân ga và dừng lại trước bản đồ tổng thể ga Shinjuku. Tuyến Saikyou nằm tít ở khu trong cùng. Tôi rút mảnh giấy ghi chú khỏi túi và vén tay lên xem đồng hồ (một chiếc “G Shock” màu đen, phần thưởng khi tôi đỗ vào cấp hai). Tàu sẽ khởi hành lúc 4h26 trong khi con số trên tay mới là 4h15. Mọi chuyện sẽ ổn thôi, tôi tự nhủ, còn tận mười phút nữa, mình sẽ tới kịp.
Khi đến sân ga, tôi tạt qua nhà vệ sinh một lát để chuẩn bị cho cuộc hành trình dài bốn mươi phút sắp tới. Tôi rửa sạch tay và soi mình trước gương. Trên gương phản chiếu hình ảnh Takaki hiện tại với gương mặt trắng trẻo, vóc người cao thêm vài phân và trông người lớn hơn hồi cách đây sáu tháng. Thời tiết giá lạnh bên ngoài khiến má tôi hồng hào hơn mọi bữa. Thế là sắp được gặp Akari rồi, tôi thầm nghĩ.
***
Ban đầu, tôi không tìm được chỗ ngồi trên con tàu lúc này đã ních đầy người đang trên đường trở về nhà. Tôi dựa lưng vào bức tường cuối toa như một số người khác, hết ngó mấy áp phích quảng cáo ngoài cửa sổ rồi lại nhìn quanh các hành khách. Lòng tôi bồn chồn không yên, ánh mắt chẳng yên vị một chỗ, đến mức chẳng màng đến cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng cất sẵn trong túi. Cạnh đó là hai nữ sinh phổ thông đang đứng nói chuyện. Có vẻ họ là bạn bè và đều mặc váy ngắn.
“Chàng đó thế nào?”
“Ai cơ?”
“Biết rồi còn hỏi, anh chàng học Phổ thông Kita ấy?”
“Gì chứ? Hắn ta á? Cậu có sở thích kỳ quặc thật đấy.”
“Đâu có. Đúng kiểu con trai mình thích luôn.”
Có lẽ họ đang nói về một chàng trai mới gặp hoặc người quen. Mặc dù không phải là người được nói đến, tôi vẫn cảm thấy xấu hổ. Tránh mắt khỏi hai cô gái, tôi cho tay vào túi kiểm tra lại lá thư, và hướng ánh nhìn ra ngoài cửa sổ. Đoàn tàu đang chạy qua một đoạn cầu cao. Ngẫm lại, đây cũng là lần đầu tôi đi trên tuyến đường này. Chuyển động và âm thanh của con tàu có phần khác với tuyến Oda và lạ là, tôi bỗng cảm thấy bất an. Ánh hoàng hôn đương nhuộm vàng cả đường chân trời, soi rõ một dãy tòa nhà dàn hàng ngang phía xa. Tuyết đã ngừng rơi, tôi tự hỏi không biết tàu đã đến Saitama chưa. Khung cảnh thị trấn kế tiếp dần hiện ra, còn hình ảnh những tòa cao ốc và căn hộ khu trung tâm lùi về sau rất xa, trông như thể bị vùi hẳn vào đất.
Dọc đường, tàu dừng tại ga Murashiurawa cho một tàu tốc hành khác qua trước. “Quý khách nào đang vội xin mời chuyển sang sân ga đối diện”, tiếng loa tàu vang lên. Tôi cùng phân nửa số hành khách lục tục đi xuống. Có khá nhiều đường ray xe lửa ở hướng tây. Tuyết tiếp tục rơi dày thêm trong khi mặt trời chỉ còn lấp ló xa xa, cố ban phát nốt những hạt nắng cuối cùng lên hàng trăm nóc nhà của thị trấn. Ngắm nhìn cảnh tượng ấy, tôi chợt nhớ ra mình từng đến nơi này trước kia.
Hóa ra đây không phải lần đầu tôi đi trên chặng đường này.
Trước năm vào lớp ba, bố đã đưa tôi theo tuyến Oomiya đến Shinjuku, trên đường chuyển từ Nagano đến Tokyo. Vốn quen sống ở vùng nông thôn như Nagano, khung cảnh thành thị hoàn toàn xa lạ khiến cậu nhóc Takaki choáng ngợp. Ngó ra ngoài cửa sổ tàu, thấy nơi mình sắp sống không gì khác ngoài nhà cửa san sát khiến tôi lo muốn khóc. Năm năm đã trôi qua, dù nay mới mười ba tuổi, tôi đã vượt qua nỗi sợ hãi trẻ con ngày ấy, nhờ Akari luôn ở bên, động viên, an ủi. Tôi mong em cũng tìm được cảm giác như thế suốt những năm tháng chúng tôi bên nhau.
Ga Oomiya không đồ sộ như Shinjuku, chỉ có một sân ga lớn. Tôi bước xuống cầu thang từ phía tuyến Saikyou rồi lại theo lối thang bộ đi ngược lên, xuyên qua đám đông về phía ga Utsunomiya chờ tàu chuyển tiếp. Không gian ga quyện đặc mùi tuyết, còn giầy hành khách thì bám đầy, lép nhép những tuyết. Hàng dài người muốn mau chóng trở về nhà đang đứng chật ních sân ga Utsunomiya. Chờ tàu, tôi kiếm một chỗ tách biệt với đám đông, vì kể cả xếp vào hàng thì tôi cũng không tìm được chỗ ngồi khi lên tàu. Lần đầu tôi có dự cảm không lành thế này. Không lâu sau, loa nhà ga vang lên, “Xin quý hành khách lưu ý, tàu tuyến Utsunomiya đi Koyama, Konomiya sẽ bị trì hoãn tám phút do tuyết rơi dày.”
Không biết tại sao mình chẳng màng đến thông báo tàu đến muộn, tôi rút giấy ghi chú ra lần nữa và xem lại đồng hồ. Đáng lẽ phải bắt tàu lúc 5h04, thì giờ đã 5h10. Tôi khẽ rùng mình. Thậm chí hai phút sau, khi tiếng còi hụ vang lên và ánh đèn công suất lớn rọi thẳng đến báo hiệu tàu chuẩn bị vào ga, tôi cũng không thấy khá hơn tẹo nào.
***
Tàu tuyến Utsunomiya đông hơn hẳn Oda hay Saikyou vào giờ tan tầm. Tàu tôi đang đi lạc hậu hơn nhiều con tàu đưa tôi đến, ghế hành khách được xếp thành từng hàng bốn ghế đối diện với nhau, khiến tôi nhớ đến các chuyến tàu địa phương hay vận hành ở Nagano. Một tay bám vào thành ghế, một tay đút túi, tôi đứng giữa khoảng trống hẹp giữa các hàng ghế. Nhiệt độ trong khoang tàu khá ấm khiến cửa sổ đọng vô số hạt nước li ti, chốc chốc trượt thành dòng xuống thành cửa. Mọi người đều mệt mỏi, không ai nói với ai câu nào. Không gian im phăng phắc ấy thật hợp với ánh sáng từ chiếc đèn cũ phủ xuống cả toa tàu. Tự thấy mình lạc lõng với bầu không khí chung, tôi thở khẽ và hướng mắt ra ngoài cửa sổ, cố tìm cách xua đi cảm giác đó.
Các tòa nhà đã biến đâu mất hút, chỉ còn những cánh đồng mênh mông rặt một màu tuyết trắng, trải dài khuất tầm mắt. Lác đác trong bóng tối ken dày là ánh sáng leo lét từ những ô cửa nhỏ. Một loạt cột đèn đường cao chót vót bằng thép, thắp sáng bởi ánh đèn màu đỏ, xếp thành hàng chạy suốt từ chân đến tận đỉnh núi. Bóng những cây đèn đổ xuống trông xa như một đội quân khổng lồ đang sừng sững đứng nghiêm giữa đồng tuyết. Thế giới ấy thật xa lạ với tôi. Thực tình, chiếm trọn tâm trí tôi bây giờ là hy vọng kịp giờ hẹn với Akari. Vì đơn giản, nếu đến muộn, tôi không có cách nào báo trước để em khỏi lo lắng. Vào thời đó, di động chưa phổ biến ở trung học, và tôi cũng không biết số điện thoại mới của cô ấy. Ngoài trời, tuyết rơi mỗi lúc một dày thêm.
Điểm trung chuyển tiếp theo là ga Koyama, nhưng tàu chạy vô cùng ì ạch suốt một giờ qua. Khoảng cách giữa các nhà ga trên tuyến này xa kinh khủng, nếu đem so sánh với khoảng cách ở trong thành phố, và mỗi lần dừng lại đều lâu thật lâu. Lần nào tàu dừng, điệp khúc quen thuộc từ loa phóng thanh nhà ga cũng vang lên “Quý hành khách chú ý. Do sự trì hoãn lịch trình của những chuyến tàu khác mà tàu sẽ xuất phát chậm hơn thường lệ. Nhà ga chúng tôi chân thành xin lỗi vì sự bất tiện này và xin quý khách kiên nhẫn chờ đợi thêm.”
Tôi xem đồng hồ liên tục, cầu mong mốc 7h đừng đến sớm nhưng cũng không thay đổi được sự thực phũ phàng rằng đích đến còn cách đây khá xa. Thời gian tiếp tục trôi và mỗi lần liếc nhìn đồng hồ, lòng tôi đau khổ đến độ gần như muốn từ bỏ mọi hy vọng. Không khí xung quanh như thể bị đông đặc lại thành một chiếc lồng vô hình, từ từ ép chặt lấy tôi mỗi giây phút qua.
Khi đồng hồ hiện 7h đúng, tôi vẫn chưa lên được ga Komiya còn tàu vừa dừng ở ga Nogi, cách hai trạm so với điểm hẹn. Kể cả đến được ga Komiya, tôi vẫn phải bắt tàu chuyển tiếp mất hai mươi phút mới tới ga Iwafune nơi Akari đang đợi. Suốt hai giờ từ lúc khởi hành ở ga Oomiya, cảm giác vô vọng và mất dần kiên nhẫn liên tục đè nặng lên trái tim tôi. Tôi chưa từng trải qua nỗi khổ sở dài đằng đẵng đến vậy. Tôi cũng chẳng còn đầu óc để ý xem không khí trong toa nóng hay lạnh nữa. Ánh mắt tôi chỉ chăm chăm hút vào màn đêm đen kịt ngoài cửa sổ, bụng thì sôi lên sùng sục do chưa ăn gì lót dạ từ bữa trưa. Lát sau, tôi mới nhận ra tàu không còn nhiều khách và tôi là người duy nhất đang đứng. Tiến về chỗ trống gần đó, tôi ngồi phịch xuống ghế với bàn chân giờ đã tê cứng. Những mỏi mệt tích tụ sâu bên trong phút chốc dâng trào khiến tôi chỉ muốn buông xuôi, mặc kệ tất cả. Chẳng có cách nào giúp tôi gột bỏ được cảm giác nặng nề đến kiệt sức ấy. Tôi lẳng lặng rút trong túi lá thư viết cho Akari và nhìn chằm chằm vào đó. Đã qua giờ hẹn một lúc lâu, hẳn giờ em đang bất an lắm lắm. Bất giác, tôi nhớ lại cuộc gọi cuối cùng của Akari trong đêm đông năm lớp sáu ấy. Tại sao… tại sao mọi việc luôn thành ra như thế?
Tròn mười lăm phút đỗ ở ga Nogi, tàu mới tiếp tục chuyển bánh.
***
Đồng hồ chỉ quá 7h40 lúc tàu dừng trước ga Koyama. Bước vội xuống ga, vo viên mảnh giấy ghi chú vô dụng ném vào thùng rác, tôi chạy một mạch đến điểm trung chuyển tuyến Ryouke.
Koyama là một ga lớn nhưng hiện còn rất ít người lai vãng. Lúc chạy xộc vào bên trong, tình cờ tôi trông thấy một nhóm người đang ngồi quây quần quanh lò sưởi giữa sảnh. Tôi tự hỏi liệu có phải họ đang chờ đón người thân. Khung cảnh chỗ họ ngồi thật hợp với không gian im ắng của nhà ga. Chỉ riêng tôi là vội vã.
Phải phi xuống vài đoạn cầu thang và băng qua một ga tàu điện ngầm trước khi tôi đến được sân ga tuyến Ryouke. Mặt sàn được ghép từ những khối bê tông được cắt vuông vắn với một dãy cột xếp dọc hành lang, còn trần nhà đầy những đường ống đan xen nhau chằng chịt. Người ta có thể nghe thấy tiếng rít khẽ khi gió thổi mạnh qua khe trống giữa các hàng cột. Cả khu vực đường hầm sáng mờ mờ dưới ánh đèn trần màu trắng và các cửa hàng đều đã đóng cửa kín mít. Ban đầu, tôi cứ ngỡ mình lạc đường nhưng may mắn sao, lại gặp một số người đang đợi tàu. Ngoài ánh đèn vàng ấm áp tỏa ra từ một sạp mì Soba[4] nhỏ và hai máy bán hàng tự động, mọi chỗ khác đều chìm trong lạnh giá.
“Do tuyết rơi dày, tất cả các chuyến tàu phải tạm ngừng hoạt động. Chúng tôi rất xin lỗi vì sự bất tiện này và xin quý khách hết sức thông cảm trong thời gian chờ đợi.” Thông báo vô cảm vang khắp sân ga. Tôi kéo cao mũ trùm đầu và đứng núp sau lưng cột để tránh gió rét nhưng rồi thỉnh thoảng vẫn hứng phải vài cơn gió buốt, thốc mạnh như muốn tước đoạt nốt những ấm áp ít ỏi còn sót lại trong cơ thể. Bụng dạ rỗng tuếch khiến cả người tôi run lẩy bẩy. Nhác thấy hai nhân viên văn phòng đang xì xụp mì ở quầy Soba, tôi nảy ra ý định mua cho bản thân một bát, nhưng hễ nghĩ đến cảnh Akari đang chờ tôi mòn mỏi mà chưa được ăn tối, tôi cũng không thiết ăn nữa. Tôi đổi ý, bước đến máy bán hàng tự động để mua một lon cà phê nóng. Đúng vào lúc rút ví ra khỏi túi, tôi lỡ tay làm rơi lá thư dành cho Akari.
(Giờ ngẫm lại, kể cả điều đó không xảy đến, tôi cũng không chắc mình đủ can đẩm đưa tận tay Akari bức thư ấy. Dù thế nào chăng nữa, tôi cũng không tin câu chuyện sẽ có kết thúc khác. Cuộc đời mỗi người là tập hợp những sự kiện xâu chuổi với nhau chặt chẽ, bất kể ta mong muốn nó hay không, và việc tôi đánh mất lá thư cũng chỉ là một trong số đó. Rốt cuộc, bất kể cảm xúc của ta vào một thời điểm có nồng nàn đến đâu chăng nữa, dần dần cảm xúc đó sẽ thay đổi cùng thời gian – như trường hợp của tôi, mọi việc vẫn sẽ như thế, bất kể Akari có nhận được thư hay không.)
Vừa rời khỏi túi, bức thư bị gió cuốn phăng khỏi sân ga trong chớp mắt, biến mất hút vào đêm đen mịt mù. Tôi phải nghiến chặt răng để ghìm không cho mình khỏi khuỵu xuống, bật khóc nức nở. Tôi không còn thiết gì cà phê nữa.
***
Tàu tuyến Ryouke chuyển động chậm dần, cuối cùng dừng lại hoàn toàn giữa đường đến ga Iwafune. “Do tuyết rơi quá dày, tàu buộc phải dừng lại để phòng tránh sự cố đáng tiếc có thể xảy ra,” tiếng loa tàu thông báo, “Chúng tôi vô cùng xin lỗi vì sự trì hoãn này nhưng tạm thời chúng tôi chưa biết khi nào tàu sẽ quay lại hoạt động.” Bên ngoài bạt ngàn chỉ tuyết và tuyết. Cửa sổ thì rung lên bần bật trước sức mạnh của cơn bão tuyết đang hoành hành cả Tokyo. Tôi không hiểu nổi tại sao người ta cho dừng tàu giữa nơi đồng không mông quạnh thế này. Nhìn đồng hồ lần nữa, tôi phát hiện mình đã quá hẹn hai tiếng. Không nhớ đấy là lần thứ mấy trăm tôi xem giờ nữa. Không muốn thấy thời gian trôi thêm một phút một giây nào nữa, tôi tháo đồng hồ và đặt xuống chiếc bàn cạnh cửa sổ. Giờ không thể làm gì hơn được, ngoài việc cầu trời cho tàu nhanh chuyển bánh thôi, tôi thầm nhủ.
Trong một bức thư, Akari viết “Cậu thế nào rồi, Takaki-kun? Hôm nay mình dậy sớm đến tập ở câu lạc bộ và đang viết cho cậu trên đường đi tàu đến trường này.”
Không hiểu sao, tôi luôn có cảm giác mỗi lần viết thư là mỗi lần em cảm thấy cô đơn. Dần dần, tôi cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Dù có nhiều bạn ở trường, nhưng chỉ khi ngồi một mình trên tàu, không còn ai xung quanh, trùm mũ che khuất mặt, tôi mới thực sự là tôi. Lò sưởi vẫn hoạt động nhưng do có quá ít hành khách trên tàu nên không khí trong khoang vẫn khá lạnh. Giờ tôi không phân định nổi cảm xúc của chính mình nữa – từ trước đến giờ tôi chưa từng có trải nghiệm tồi tệ đến vậy. Tất cả những gì tôi làm được là ngồi chết trân ở đây, toàn thân gục xuống bàn, nghiến chặt răng để ngăn không bật khóc ngay tại chỗ. Mọi cố gắng giữ cho đầu óc tỉnh táo dần chìm ngập trong tuyệt vọng trước sự nghiệt ngã của thời gian. Tôi chỉ muốn phát điên lên khi nghĩ tới cảnh em vẫn đợi chờ một mình nơi sân ga lạnh lẽo, vô vọng và hoang mang. Tôi cầu mong em đã từ bỏ và trở về nhà an toàn.
Mặt khác, tôi biết rất rõ em sẽ luôn ở đó, đợi chờ tôi đến.
Tôi biết chắc chắn em sẽ đợi, và chính vì biết rõ như thế, lòng tôi càng đau khổ gấp bội phần. Ngoài trời, tuyết vẫn rơi hoài, rơi mãi không ngừng nghỉ.
[1] Trạm ga trực thuộc “JR East” (viết tắt của “East Japan Railway Company”, Công ty Đường sắt Miền Đông Nhật Bản), phục vụ trung bình 1,5 triệu lượt hành khách mỗi ngày, chiếm gần 50% công suất của toàn bộ ga Shinjuku.
[2] Nguyên văn: “JR Line Ticket Office”.
[3] Nguyên văn: “External Yamanote line loop”. Nhiều tuyến tàu ở Nhật có lộ trình khép kín (nội tuyến), điểm xuất phát cũng là điểm kết thúc, gồm hai tuyến đường ray song song. Tuyến chạy thuận chiều kim đồng hồ là tuyến vòng ngoài (outer circle/external). Tuyến chạy ngược chiều kim đồng hồ là tuyến vòng trong (inner circle/ internal).
[4] Soba là một loại mì rất được ưa chuộng tại Nhật, đặc biệt trong dịp đầu năm mới. Mì được làm từ bột Soba (kiều mạch), sợi thon dài, màu trắng đục, có thể ăn nóng hay lạnh tùy thích.
Chương 4
Hai giờ trôi qua, tàu mới tiếp tục lăn bánh. Tôi đến ga Iwafune cũng vừa lúc đồng hồ điểm 11h đêm, muộn hẳn bốn tiếng so với dự định. Khi xuôi bước xuống sân ga, tiếng tuyết lạo xạo vang theo từng bước chân. Dù gió đã dừng hẳn, hằng sa số bông tuyết vẫn lặng lẽ buông mình xuống mặt đất. Bên ga tôi dừng chân không hề có tường hay hàng rào, chỉ mênh mông những tuyết và lác đác ánh đèn xa xa phía thị trấn. Trừ tiếng ù ù nho nhỏ của động cơ xe lửa, không gian ga hoàn toàn chìm trong tĩnh mịch.
Tôi băng qua cầu và chầm chậm tiến về quầy soát vé. Đứng trên cầu, toàn bộ quang cảnh thị trấn thu gọn trong tầm mắt. Nhà nhà như đang say ngủ trong chiếc chăn bông khổng lồ dệt bằng tuyết trắng, chỉ le lói vài ngọn đèn chưa tắt. Rời khỏi quầy vé, tôi đi về phía phòng đợi của khu nhà ga lợp gỗ. Vừa bước qua ngưỡng cửa của căn phòng thoang thoảng mùi bếp dầu quen thuộc, một bầu không khí ấm áp ôm choàng lấy, nhanh chóng lan tỏa khắp cơ thể, khiến tôi chỉ muốn nhắm mắt lại để tận hưởng hết cảm giác khoan khoái ấy. Đến lúc mở mắt ra, tôi thấy một cô gái, đầu cúi thấp, đang ngồi cạnh lò sưởi.
Thoạt đầu, cô gái với dáng người mảnh dẻ trong chiếc áo khoác ngoài màu trắng trông thật xa lạ. Tôi đến gần hơn và gọi “Akari”. Ngược lại, cô ấy cũng tỏ vẻ khá ngạc nhiên. Sau một thoáng chần chừ, cô gái chầm chậm ngẩng đầu lên và nhìn về phía tôi. Đúng là Akari rồi. Khóe mắt em hãy còn hoe đỏ, ngân ngấn nước. Akari trông người lớn hơn một năm trước và nhờ ánh sáng lò sưởi, tôi lại được ngắm nhìn khuôn mặt của người con gái xinh đẹp nhất trần đời. Lúc đó, trái tim tôi như bị bóp nghẹt lại, xúc động không nói nổi thành lời. Lần đầu tiên tôi trải qua rung cảm mãnh liệt đến thế. Khoảnh khắc ấy, khoảnh khắc nhìn em không chớp mắt, nhìn nước mắt em dần dâng đầy khóe mi, thật vô giá. Khi Akari với tay giữ chặt vạt áo khoác của tôi, tôi lại gần em và bắt gặp những giọt nước mắt đương tuôn rơi trên đôi tay em trắng muốt, mềm mại. Thời khắc ấy, một đợt sóng cảm xúc dữ dội khôn tả ập đến, và tôi đã khóc, khóc trước khi nhận ra nước mắt đang tuôn rơi. Tiếng nước đun trên bếp dầu lục bục sôi, khẽ vang khắp căn phòng.
***
Akari lấy ra hộp cơm chuẩn bị từ trước cùng ít trà trong bình cách nhiệt và bày biện trên chiếc ghế giữa hai người. Tôi nhấp thử một ngụm trà, trà có mùi thơm dễ chịu, nóng vừa miệng và khá ngon.
“Ngon quá.” Tôi khen thành thực.
“Thật không? Trà Houji[1] thường thôi mà.”
“Trà Houji? Mình mới uống lần đầu đấy.”
“Cậu cứ đùa. Chắc chắn cậu từng uống loại này rồi.” Akari nói, nhưng thực tình đây là lần đầu tôi uống tách trà ngon như vậy. “Thật đấy…” tôi trả lời, và Akari đáp “Ừ thì thật…” với vẻ mặt thích thú.
Tôi thấy không chỉ dáng vóc, cách ăn nói của Akari cũng người lớn hơn. Giọng em ấm, tinh nghịch xen lẫn e thẹn, làm tôi nóng bừng cả người.
“À, mình còn mang cái này nữa,” vừa nói Akari vừa mở hộp cơm hai ngăn Tupperware[2]. Một ngăn đựng bốn nắm cơm lớn, ngăn còn lại chứa nhiều đồ ăn bắt mắt, gồm bánh kẹp cỡ nhỏ, xúc xích, trứng tráng, cà chua bi và bông cải xanh, được xếp thành cặp ngay ngắn.
“Mình tự làm hết, chẳng biết ngon không nữa…” Akari lấy ra một ít “…Nhưng cậu có thể thử một chút nếu muốn” Akari ngượng ngùng nói.
“Cám ơn cậu.” Người tôi nóng ran cả lên như lại sắp khóc đến nơi. Như thế xấu hổ lắm nên tôi cố ghìm lại. Rồi tôi nhớ ra mình đang đói mềm thế nào và nhanh nhẩu bảo “Mình đói lắm”, trong khi Akari nhìn tôi cười khúc khích.
Tôi lấy một nắm cơm và cắn một miếng to. Nhai cơm trong miệng, tôi mừng muốn khóc. Khi nhai, tôi phải cúi thấp đầu để Akari khỏi chú ý. Đồ ăn hôm nay ngon hơn mọi thứ tôi từng nếm trước đây.
“Chưa bao giờ mình ăn ngon thế này.” Tôi thực thà nói.
“Cậu cứ nói quá!”
“Mình nghiêm túc mà.”
“Chắc tại cậu đói quá thôi.”
“Ừ thì…”
“Vậy mình cũng ăn nữa.” Akari vui vẻ lấy một nắm cơm khác.
Chúng tôi cùng nhau ăn tiếp. Ngay cả bánh kẹp và xúc xích cũng ngon tuyệt. Khi tôi nói điều này, cô ấy mỉm cười bẽn lẽn nhưng không giấu nổi vẻ tự hào. Akari bảo “Tan trường là mình về nhà chuẩn bị ngay. Cũng nhờ mẹ giúp một xíu.”
“Cậu dặn gì mẹ chưa?”
“Mình để lại thư báo sẽ về nhà bất kể tối muộn thế nào cho mẹ khỏi lo lắng.”
“Mình cũng thế. Hẳn mẹ cậu đang sốt ruột lắm.”
“Ừ… nhưng rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi. Lúc làm cơm, mẹ hỏi đồ ăn làm cho ai, mình chỉ cười, không đáp. Trông mẹ vui lắm. Chắc mẹ biết mình đang định làm gì.”
Tôi khá tò mò về việc đó nhưng không dám hỏi, đành cắm cúi ăn nốt miếng cơm nắm. Nắm cơm to vừa tay và chỉ sau hai nắm, tôi đã no căng, bụng dạ ổn hơn hẳn.
Ánh lửa từ phía bếp dầu sưởi ấm cả hai. Trán tôi ấm ấp một cách dễ chịu. Ngồi nhâm nhi trà Houji, chúng tôi trò chuyện về đủ mọi thứ, quên cả thời gian. Chẳng ai nghĩ đến chuyện về nhà. Không nói ra nhưng Akari và tôi đều ý thức được điều đó. Hai người bọn tôi có cả tỉ thứ để nói với nhau. Chúng tôi cho nhau biết mình đã cô đơn thế nào trong năm vừa rồi. Dù không nói thẳng bằng lời, qua câu chuyện của người kia, mỗi người đều hiểu cả hai đều nhung nhớ, mong ở bên nhau đến mức nào.
Gần nửa đêm, bảo vệ ga gõ nhẹ lên cửa sổ phòng trực và bảo:
“Sắp đến giờ ga đóng cửa rồi. Không còn chuyến tàu nào nữa.”
Là người soát vé cho tôi lúc trước. Tôi cứ tưởng bác đang giận nhưng rồi bác chỉ cười xòa. “Tôi không muốn ngắt lời cô cậu, vì cả hai có vẻ đang rất vui, nhưng…” bác bảo vệ nói, giọng cảm thông.
“Đến giờ ta phải đóng cửa rồi. Hai cháu về cẩn thận. Ngoài trời tuyết rơi dày lắm.”
Cám ơn bác soát vé, chúng tôi cùng ra về.
***
Thị trấn Iwafune giờ chìm hoàn toàn trong tuyết. Đêm, tuyết vẫn giăng đầy bầu trời và mặt đất nhưng lạ thay, chẳng ai trong hai chúng tôi thấy lạnh. Tôi và Akari vui vẻ cùng sóng bước trên lớp tuyết còn mới. Tôi hơi phổng mũi khi cao hơn Akari được vài phân. Ánh đèn đường soi mờ mờ vài đụn tuyết trước mặt. Nhìn Akari háo hức chạy về phía một trong số đó, tôi nhận ra em đã ra dáng thiếu nữ hơn hẳn ngày nào.
Akari đưa tôi đến cây hoa anh đào lớn mà cô ấy nhắc đến trong thư. Cách mười phút đi bộ từ ga, cây nằm giữa một khu ruộng không có nhà dân nào ở cạnh. Dù không có ngọn đèn nhân tạo nào, nhưng ánh trăng phản chiếu lên mặt tuyết cũng đủ cho tôi hình dung được cảnh vật xung quanh, đẹp như tác phẩm của một nghệ nhân tài hoa nào đó.
Cây hoa anh đào vươn thẳng mình giữa đồng lúa, dáng cao lớn và khỏe mạnh. Đứng dưới cây, hai chúng tôi ngước lên nhìn tuyết rơi. Tuyết vẫn thi nhau sa xuống từ trời đêm, lặng lẽ đáp xuống trĩu nặng cả nhành cây.
“Này, trông như tuyết rơi ấy nhỉ.” Akari nói.
“Ừ, giống thật.” Tôi đáp, như cảm thấy Akari đang mỉm cười nhìn mình dưới tán cây anh đào đang nở rộ.
Đêm đó, tôi và Akari trao nhau nụ hôn đầu. Một nụ hôn tự nhiên như hơi thở.
Thời khắc chúng tôi chạm vào môi nhau, tôi chợt hiểu đâu là nơi giao thoa của sự vĩnh hằng, trái tim và linh hồn. Như thể những kỉ niệm suốt mười ba năm cuộc đời được trao cả cho nhau chỉ trong một chiếc hôn. Và liền sau đó, là nỗi buồn.
Tôi không biết nên mang tình cảm nồng ấm của em đến đâu và đáp trả như thế nào. Tôi không biết mình cần làm gì tiếp theo. Tôi hiểu rất rõ chúng tôi không thể gặp nhau thêm lần nữa. Mỗi người chúng tôi còn một chặng đường dài khó đoán định phía trước.
Nhưng chốc lát sau, cảm giác khó chịu ấy nhanh chóng tan biến đi cả, chỉ còn hơi ấm bờ môi Akari ở lại. Chẳng điều gì trên đời này sánh được với sự ấm nóng và mềm mại của đôi môi em khi đó. Nụ hôn với em thật đặc biệt, đặc biệt đến mức sau này ngẫm lại, không một nụ hôn nhau nào khác sánh được với niềm hạnh phúc, sự tinh khôi và chân thành em mang đến cho tôi ngày ấy.
***
Chúng tôi qua đêm trông một căn lều nhỏ bằng gỗ gần cánh đồng. Trong số vật dụng nhà nông cất trong kho, Akari và tôi tìm thấy một chiếc chăn cũ trên giá. Sau khi cởi bỏ giày và áo khoác ướt, chúng tôi quấn chung chăn và rì rầm trò chuyện. Dưới lớp áo khoác, Akari vận bộ đồng phục thủy thủ trong khi tôi vẫn mặc đồng phục thường. Hai chúng tôi không còn cô đơn và cùng nhau tận hưởng hạnh phúc.
Nằm quay mặt vào nhau trong chăn, mái tóc mượt mà của Akari cứ xòa vào dưới cằm và cổ tôi. Mỗi lần như thế, mùi hương ngọt ngào cùng sự ấm ấp của cơ thể em không khỏi khiến tôi phấn khích. Nằm sát nhau, hơi thở nhẹ của em luôn làm lay động phần tóc trước trán tôi và ngược lại. Tuyết ngoài trời rơi thưa dần và thỉnh thoảng, căn lều được lại tắm trong ánh trăng, trông tựa như ảo ảnh. Mải trò chuyện, chúng tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Chúng tôi tỉnh dậy tầm 6h sáng lúc tuyết đã dừng hẳn. Tôi và Akari uống nốt chút trà Houji còn ấm, rồi mặc áo khoác và đi bộ về phía ga. Trời trong xanh. Bình minh đang lấp ló sau rặng núi phía xa, nhuộm hồng tuyết dưới mặt đất. Quả là một cảnh tuyệt diệu.
Ở sân ga sáng sớm thứ bảy, tôi là hành khách duy nhất. Tàu tuyến Ryouke, được sơn hai màu da cam và xanh lá cây, đã tới, với những toa tàu sáng bóng dưới ánh bình minh. Bước lên tàu, tôi xoay người lại phía sân ga. Akari năm mười ba tuổi đứng đó, cúc áo khoác ngoài để mở, lộ ra một phần đồng phục thủy thủ bên trong.
Phải, tôi biết. Kể từ phút giây ấy, mỗi người chúng tôi lại tiếp tục cô đơn trên hành trình riêng của mình.
Dù đêm qua đã trò chuyện nhiều đến thế, dù đã gần gũi bên nhau đến thế, giờ chúng tôi vẫn nuối tiếc vì lại phải lìa xa. Tôi lặng thinh, không biết nên nói gì. Lần này, Akari lên tiếng trước.
“Nè, Takaki-kun.”
“Gì cơ…” Tôi ngập ngừng đáp.
“Takaki-kun…” Akaki lại nói, giọng thoáng do dự. Sau lưng em, tuyết tắm mình trong ánh ban mai, sáng lung linh tựa mặt nước hồ. Cảnh tượng ấy càng tôn thêm vẻ đẹp của Akari. Bất chợt, em nhìn thẳng vào tôi, như thể gom hết can đảm để nói.
“Takaki-kun, mình chắc chắn với cậu mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi! Mình tin thế!”
“Cám ơn…” Tôi nói vừa kịp lúc cửa tàu đóng lại.
Không thể để mọi thứ dở dang như vậy. Tôi phải đáp lại cô ấy nhiều hơn. Tôi lấy hết sức nói thật to qua lớp cửa đóng.
“Gắng bảo trọng nhé, Akari! Mình sẽ viết thư cho cậu! Và gọi điện nữa!”
Lúc ấy, tôi như nghe thấy một tiếng chim kêu ai oán từ đâu vọng tới. Khi đoàn tàu bắt đầu chuyển động, tay chúng tôi cùng chạm vào một điểm trên cửa sổ. Dù gần như bị chia tách ngay lập tức, chắc chắn trong một tích tắc thôi, hai bàn tay đã chạm nhau qua lớp kính mỏng.
Tàu chạy được một lúc, tôi vẫn đứng chôn chân ở cửa.
Tôi không thể kể với Akari về bức thư mình đã viết rồi đánh mất. Tôi luôn mong gặp lại em một ngày nào khác, nhưng rồi tôi nhận ra, thế giới đã thay đổi hoàn toàn sau nụ hôn ấy.
Tôi nhẹ nhàng áp tay lên chỗ Akari vừa chạm.
“Takak Takaki-kun, mình chắc chắn với cậu mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi!” Akari nói.
Lời nói của em như thể vừa đánh thức một điều gì đó sâu trong tâm khảm tôi – một điều chính tôi cũng không tỏ tường – một cảm giác có phần bí ẩn. Tôi linh cảm rằng, một ngày nào đó trong tương lai rất xa, lời nói của Akari sẽ là nguồn động lực quý giá nâng đỡ tôi trong cuộc sống.
Thế nhưng, trong thời khắc ấy, tôi chỉ biết đăm đăm nhìn cảnh vật trôi qua vùn vụt và tự nhủ… Ước gì tôi có sức mạnh để che chở, bảo vệ em.
[1] “Houji tea” hay “Houjicha” là một loại trà xanh đặc biệt của Nhật, được đun trong bình gốm sứ bằng than không khói ở nhiệt độ cao, để lá trà chuyển dần từ màu xanh sang nâu đỏ. Loại trà này ít cafein, vị thanh, dùng sau bữa tối hoặc trước khi đi ngủ, thường dành cho trẻ em và người cao tuổi.
[2] Một nhãn hiệu sản xuất hàng gia dụng của Mỹ.
5 Centimet Trên Giây 5 Centimet Trên Giây - Shinkai Makoto 5 Centimet Trên Giây