Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Xứ Con Người
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 1 - Đường Bay
A
y là năm 1926. Tôi vừa vào nhận việc, là người lái trẻ đường dài ở hãng Latécoère, hãng này bấy giờ đảm nhiệm chặng Toulouse-Dakar, trước hãng Aéropostale và hãng Air France. Tôi học nghề là ở đây. Như các bạn bè, tôi đến lượt trải qua thời kỳ tập sự mà những người trẻ phải trải qua trước khi được vinh dự lái chiếc bưu cơ. Bay tập thử các loại máy bay. Đi, về Toulouse và Perpignan. Những buổi học buồn tẻ về khí tượng tận cuối một nhà vòm giá lạnh. Chúng tôi sống trong mối e ngại về những ngọn núi ở Tây Ban Nha mà chúng tôi chưa được thấy, và với sự nể phục các bậc đàn anh.
Các bậc đàn anh ấy, chúng tôi thấy họ trở về, thấy họ vào quán ăn, cau có, hơi cách biệt, rất kẻ cả ném cho chúng tôi những lời khuyên bảo. Và khi một người nào đó trong bọn họ, từ Alicante hay Casablanca mà về muộn, áo da sũng nước mưa, có trả lời ai trong bọn chúng tôi khi chúng tôi rụt rè hỏi về chuyến đi thì những câu trả lời ngắn ngủn của anh ta, vào những ngày bão tố, cũng dựng lên trong chúng tôi một thế giới y hệt trong thần thoại, đầy bẫy sập, đầy lưới bủa, đầy những ghềnh đá đột nhiên nhô ra, những xoáy nước có thể bứt vứt được những cây bách hương. Những con rồng đen canh gác lối ra vào các thung lũng, hàng bó chớp vây lấy các đỉnh núi như là vương miện. Các bậc đàn anh ấy biết nuôi giữ lòng kính trọng của chúng tôi. Nhưng lâu lâu lại có một người, trong bọn họ, trở thành thiên thu đáng kính trọng, không trở về.
Như vậy đấy, tôi nhớ một chuyến trở về của Bury, sau này chết trong dãy Corbières. Người lái già ấy vừa ngồi xuống giữa bọn tôi, ăn uống mệt nhọc, chẳng nói năng gì, hai vai còn sễ vì đã dụng sức. Ấy là vào cuối một trong những ngày xấu mà từ đầu chí cuối đường bay, vòm trời úa vỡ, tất cả các đỉnh núi, trước mắt người lái, như vầy trong bùn ghét, giống các khẩu đại bạc cắn đứt được các dây chằng, cày nát sàn những chiếc thuyền buồm ngày trước. Tôi nhìn Bury và nuốt nước bọt trước khi đánh liều hỏi anh chuyến bay hôm nay có vất vả không. Không nghe thấy tôi hỏi, trán đầy nếp răn, Bury cúi gằm xuống đĩa. Trên những chiếc máy bay không mui, vào lúc trời xấu, phải nghiêng người ra ngoài kính chắn để thấy cho được rõ, những cái tát của gió còn rít mãi trong tai người lái. Một lúc lâu, anh mới ngẩng đầu, có vẽ đã nghe thấy, có vẻ nhớ lại và đột nhiên bật lên một tiếng cười khanh khách. Cái cười ấy khiến tôi kinh ngạc thán phục, vì Bury ít cười, và cái cười ngắn này làm cho nỗi mệt nhọc của anh như bừng sáng lên. Anh không giảng giải chút gì nữa về thắng lợi của mình, nghiêng đầu và tiếp tục yên lặng nhai. Nhưng trong không khí quán ăn mờ xám, giữa bọn công chức nhỏ không lấy gì làm mỏi mệt lắm đang ăn để lấy lại sức, người đồng nghiệp hai vai nặng trĩu kia bỗng nhiên đối với tôi có một vẻ cao quý khác thường: anh đã cho tôi thấy, qua cái vỏ ngoài cục mịch, vị thiên thần thắng được rồng tinh.
Rồi tới buổi chiều đến lượt tôi được gọi vào phòng chủ hãng. Ông ta điềm nhiên bảo tôi: “Mai anh đi.”
Tôi đứng yên, đợi ông cho tôi lui. Nhưng, sau một chốc lặng im, ông nói thêm:
“Anh biết rõ các điều lệnh chứ?”
Các động cơ, thuở ấy, không hề đảm bảo an toàn như các động cơ bây giờ. Thường khi không báo trước, chúng chơi khăm ném chúng tôi trong một thứ tiếng loảng xoảng dữ đội, như là bát đĩa vỡ. Thế rồi phải trả tay 1 về phía dãy núi đá Tây Ban Nha, dãy núi này chẳng cho chỗ nào ẩn đậu. “Ở đây, chúng tôi thường nói, động cơ mà vỡ, thì chiếc máy bay, chao ôi, cũng sẽ vỡ theo trong chốc lát.” Nhưng một chiếc máy bay, mất chiếc này còn thay được chiếc khác. Điều quan trọng trước hết là chớ dại dột men theo rặng núi. Vì vậy, với những răn đe xử phạt rất nặng, người ta cấm chúng tôi bay trong biển mây mù bên trên các khu núi đá. Máy hỏng, người lái lún sâu trong đám bông trắng tất va vào các đỉnh núi mà không nhìn thấy.
(1) Thuật ngữ hàng không chỉ động tác vặn đưa bánh lái tàu ra đằng trước để đỗ.
Vì lẽ đó, chiều hôm ấy, một giọng nói chậm chạp nhay đi nhay lại lằn cuối vẻ điều lệnh:
“Dùng la bàn để bay qua Tây Ban Nha, ở trên những biển mây, thật là rất đẹp, rất điệu, nhưng…”
Giọng nói còn chậm chạp hơn nữa:
“… nhưng anh nên nhớ: bên dưới các biển mây ấy là cõi vĩnh hằng.”
Như vậy đó, cái thế giới yên tịnh này, cái thế giới mịn màng thế, giản dị thế mà tôi khám phá thấy lúc từ trong mây trôi ra, bỗng nhiên đối với tôi có một cái giá chưa hề biết. Cái dịu dàng này đã trở nên một cạm bẫy. Tôi hình dung cái bẫy trắng bao la ấy trải ra đó, dưới chân tôi. Bên dưới không như người ta tưởng, chẳng có nỗi xôn xao của những con người, cũng chẳng có tiếng xe cộ ồn ào sinh động của các phố phường, chỉ là một nỗi lặng im còn tuyệt đối hơn, một sự quạnh quẽ còn tuyệt đối hơn. Cái thứ nhựa trắng ấy đối với tôi trở nên biên giới giữa thực và hư, giữa cái biết và cái không thể biết. Và tôi đã đoán biết rằng, không nhìn qua một nền văn hóa, một văn minh, một nghề nghiệp thì một cảnh trí chẳng có chút ý nghĩa gì. Người miền núi cũng biết những biển mây. Vậy mà nào họ có khám phá ra tấm màn hư ảo này.
Bước ra khỏi phòng giấy đó, tôi cảm thấy lòng tự hào một cách trẻ con. Đến lượt tôi, tôi sắp sửa, từ lúc rạng đông, đảm nhiệm một chuyến chở nhiều hành khách, đảm nhiệm một chuyến thư từ đi châu Phi. Nhưng đồng thời tôi cũng thấy cực kỳ hổ thẹn. Tồi thấy mình chưa chuẩn bị kỹ. Nước Tây Ban Nha nghèo nơi ẩn đậu, tôi e, nếu sự hư hỏng vẫn đe dọa kia xảy tới, sẽ không biết tìm đâu sự tiếp đón của một cánh đồng cứu trợ. Tôi chúi mũi không tìm thấy những điều giảng giải tôi cần trong các bản đồ khô khan; như vậy đó, lòng vừa đầy tự kiêu vừa đầy e ngại, tôi qua cái đêm thức trước ngày ra trận ở nhà bạn tôi, Guillaumet2. Guillaumet đã đi trước tôi trên con đường này. Guillaumet biết cách để có chiếc chìa khóa của Tây Ban Nha. Tôi phải được Guillaumet tập dượt.
(2) Henri Gauillaumet (1902 -1940): phi công Pháp hy sinh trong chiến đấu với phát xít Đức.
Thấy tôi bước vào, anh mỉm cười:
“Tớ đã biết tin rồi. Cậu thích chứ?”
Anh đến tủ tìm chai rượu mạnh và hai cái cốc, rồi vẫn tươi cười, quay lại phía tôi:
“Ta uống mừng cậu. Cậu xem, sẽ trót lọt hoàn toàn thôi!”
Anh lan tỏa niềm tin như một ngọn đèn lan tỏa ánh sáng, người bạn này về sau chính là người phá kỷ lục những chuyến chở thư vượt dãy núi Andes, và vượt Nam Đại Tây Dương. Vài năm trước đó, buổi chiều ấy, áo sơ mi không khoác vest, vòng tay dưới ánh đèn, cười nụ cười nhân hậu nhất, anh bảo tôi thật giản dị: “Dông tố, mây mù, bão tuyết, đôi khi chúng cũng làm khổ cậu. Lúc ấy, cậu hãy nghĩ đến tất cả những ai cũng đã gặp những cái khổ đó trước mình, và cậu hãy nghĩ đơn giản: người khác thành công được thì ta cũng thành công được.” Tuy vậy, tôi vẫn mở các tấm bản đồ ra, tôi yêu cầu anh dù sao cũng cùng tôi xem lại một chút cuộc hành trình. Và, nghiêng đầu dưới ánh đèn, tựa vào vai người đồng nghiệp già dặn hơn, tôi bỗng gặp lại nỗi bình thản của truờng học ngày nhỏ.
Nhưng lạ lùng biết bao bài địa lý tôi được học hôm ấy! Guillaumet không dạy cho tôi về nước Tây Ban Nha; anh làm cho nước Tây Ban Nha trở thành bạn thân tôi. Anh chẳng nói với tôi về sông ngòi, cũng không nói về dân cư, hay về gia súc. Anh không nói về Guadix mà nói về ba cây cam, kề bên Guadix, trồng ven rìa một cánh đồng: “Phải cẩn thận với ba cây cam này, ghi chúng lên bản đồ của cậu đi…” Và trên bản đồ của tôi từ đấy, ba cây cam chiếm nhiều chỗ hơn là dãy Sierra Nevađa. Anh không nói với tôi về Lorca, mà nói về một cái ấp nhỏ gần Lorca. Về một cái ấp sống động. Và về người chủ ấp. Và về bà chủ ấp. Và đôi vợ chồng ấy, xa thẳm trong không gian, cách chúng tôi một nghìn năm trăm ki lô mét, trở nên quan trọng vô chừng. Sống vững vàng trên triền núi của họ, giống như những kẻ gác đèn biển, họ sẵn sàng, dưới ánh sáng những ngôi sao của mình, tiếp cứu cho những con người.
Như vậy đó, chúng tôi rút ra từ cõi lãng quên, từ cuộc sống tách biệt khó lòng tưởng tượng nổi của họ, những chi tiết mà tất cả các nhà địa lý trên đời không ai hay biết. Bởi vì chỉ sông Èbre, tắm tưới cho các thành phố lớn, là làm cho các nhà địa lý lưu ý. Các nhà địa lý đâu có lưu ý cái con suối nhỏ kia nấp dưới cỏ ở phía Tây Motril, nó là ông cha nuôi dưỡng cho chỉ độ ba chục bông hoa. “Hãy coi chừng con suối, nó làm hư hại cánh đồng… Cũng hãy ghi nó vào bản đồ của cậu đi…” Chao ơi! Rồi tôi sẽ nhớ con rắn Motril. Nó chẳng có nghĩa lý gì, họa chăng với tiếng rì rào nhè nhẹ của nó, nó có làm mê mẩn chút nào đó vài con ễnh ương, nhưng nó chỉ ngủ có một mắt thôi. Trên thiên đường của cánh đồng dự trữ, nó nằm dài trong cỏ, rình sẵn tôi từ cách đây hai nghìn ki lô mét. Có cơ hội đầu tiên, nó sẽ biến tôi thành bó lửa…
Tôi cũng kiên quyết nghênh đợi ba mươi con cừu trong thế trận dàn ở kia, dưới sườn đồi, sẵn sàng tấn công tôi: “Cậu tưởng là bãi cỏ này trống, thế mà đùng một cái, có ba chục con cừu lăn vào bánh máy bay của cậu…” Và tôi trả lời bằng một nụ cười bối rối trước mối đe dọa tai ác ấy.
Và dần dà, nước Tây Ban Nha trên bản đồ của tôi, dưới ngọn đèn, trở nên một xứ sở của những chuyện thần tiên. Tôi gạch chéo một chữ thập làm dấu những nơi ẩn đậu và cạm bẫy. Tôi làm dấu người chủ ấp đó, ba mươi con cừu đó, con suối đó. Tôi đặt cô vào đứng vị trí của cô, cô bé chăn cừu mà các nhà địa lý đã bỏ qua.
Khi tôi chào Guillaumet ra về, tôi cảm thấy cần đi bách bộ, vào buổi tối đông giá rét này. Tôi dựng cổ áo khoác lên, và, giữa những người qua đường không hay biết, tôi thấy cùng đi với mình là một nhiệt tình tươi trẻ. Tôi tự hào đi kề cạnh những người không quen biết đó với niềm bí mật trong lòng. Họ không biết tôi, ôi những kẻ man sơ, nhưng chính là tôi mà tảng sáng ngày mai họ sẽ giao phó những lo âu, những tình cảm của họ trong các bưu kiện. Chính vào tay tôi mà họ sẽ đặt lòng mong mỏi của họ. Như thế đó, thu lu trong chiếc áo choàng kín, tôi bước những bước bao dong giữa mọi người, nhưng chẳng ai hiểu tí gì về tấm lòng thành của tôi.
Cũng như chẳng ai hiểu được, như tôi hiểu, những thông điệp tôi nhận được từ đêm. Bởi vì, cái cơn bão tuyết có lẽ đang soạn sửa kia, cái cơn bão tuyết sẽ làm phức tạp chuyến bay đầu tiên của tôi ấy, nó khiến ngay cả da thịt tôi cũng phải chú tâm. Trên trời, các vì sao lần lượt tắt: những kẻ dạo chơi kia hiểu việc đó thế nào? Một mình tôi biết chuyện. Ấy là người ta thông tin cho tôi về vị trí của đối phương trước khi vào trận…
Tuy vậy, những hiệu lệnh khiến tôi dấn thân hết sức trang trọng, những hiệu lệnh ấy tôi nhận được khi đứng trước các tủ kính sáng trưng, lộng lẫy quà Noel. Dường như ở đó trưng bày tất cả của cải trên đời và tôi thấy dậy lên trong lòng niềm say sưa đầy tự hào của sự từ khước. Mình là một người lính chiến đang cơn nguy hiểm: đối với mình nào có nghĩa lý gì đâu các thứ pha lê lóng lánh đùng cho bữa tiệc tối kia, cái chao đèn kia, các cuốn sách kia. Chưa đi mà tôi đã thấy mình tắm trong sương mù rồi, tôi đã thấy tôi, một người lái đường dài, cắn vào trái đắng của những đêm bay.
Người ta đánh thức tôi vào lúc ba giờ sáng. Cách một cái, tôi đẩy cánh cửa chớp, thấy mưa rơi trên phố xá và tôi cẩn thận mặc quần áo.
Nửa tiếng sau, ngồi trên chiếc va li nhỏ, đến lượt tôi đợi xe buýt bên vỉa hè bóng loáng nước mưa. Bao bạn đồng nghiệp trước tôi, vào ngày được chính thức thừa nhận, cũng đã qua khoảnh khắc chờ đợi này, lòng hơi se lại. Đợi mãi nó mới xuất hiện ở đầu phố, vẫn chỉếc xe xưa cũ đó, vừa chạy vừa kêu loảng xoảng, và đến lượt mình, cũng như các bạn đồng nghiệp trước, tôi không tránh được cảnh phải len ngồi trên cái ghế dài giữa người hải quan còn ngái ngủ và vài người công chức. Chiếc xe buýt này toát mùi mốc gỉ, cái không khí hành chính đầy bụi bặm, cái buồng giấy cũ kỹ trong đó lún sâu đời một người. Cứ năm trăm mét chiếc xe lại dừng, để đón thêm một người thư ký, một người hải quan, một người kiểm tra. Người mới lên chào người lên trước, nghe những người này đã bắt đầu ngủ trả lời lại ậm ừ, trống không, anh ta cố lách ngồi rồi đến lượt mình thiếp ngủ. Như vậy đấy, trên các con phố lát đá gồ ghề của Toulouse, một thứ giao thông buồn tẻ, và anh lái đường đài, trộn lẫn trong đám công chức, thoạt tiên chẳng khác họ bao nhiêu… Nhưng mà những cây đèn đường diễu qua, nhưng mà sân bay đã gần mãi lại, nhưng mà cái xe buýt già cũ lắc lư này chỉ còn là một con nhộng xám mà con người sẽ thoát ra, đổi khác.
Mỗi bạn đồng nghiệp, như vậy đấy, vào một buổi sáng y như thế này, đã cảm thấy bên trong mình, dưới vóc dáng người nhân viên bé nhỏ, chịu đựng sự cau có của viên kiểm tra kia, nảy nở con người chịu trách nhiệm cho chuyến thư Tây Ban Nha và châu Phi, nảy nở con người, ba tiếng sau nữa, sẽ đương đầu với con rồng của núi Hospitalet3 trong sấm chớp, bốn tiếng sau nữa đánh thắng con rồng, sẽ hoàn toàn tự ý toàn quyền quyết định hoặc vòng qua biển hoặc xung phong trực tiếp vào rặng Alcoy, ký hòa ước với dông tố, với núi non, với biển cả.
(3) Trạm dừng, cao 1.435m ở Đông Pyrénèes.
Mỗi bạn đồng nghiệp, như vậy đấy, lẫn trong cái tổ đội vô danh dưới vòm trời đông sầm tối của Toulouse, đã cảm thấy, vào một buổi sáng y như thế này, lớn lên trong mình cái vì chúa tể, năm tiếng sau nữa, bỏ lại đằng sau mình những con mưa và tuyết phương Bắc, bỏ lại mùa đông, hãm bớt máy và bắt đầu hạ cánh giữa lúc mùa hè đang độ, trong ánh mặt trời rực rỡ của Alicante.
Chiếc xe buýt ấy nay không còn, nhưng dáng vẻ nghèo khổ, thiếu tiện nghi của nó vẫn sống mãi trong ký ức tôi. Nó tượng trưng cho sự chuẩn bị cần thiết cho những niềm vui khó khăn của nghề chúng tôi. Trong chiếc xe đó, rõ ràng cái gì cũng đạm bạc. Và tôi nhớ lại, trên chiếc xe ấy, tôi đã được tin, cái tin được trao đổi trong vòng không quá mười lời, về cái chết của anh lái Lécrivain, một trong một trăm người bạn đường bay, vào một ngày hay một đêm mù, đã vĩnh viễn rút vào nơi yên nghỉ.
Lúc ấy ba giờ sáng, cũng trong bầu không khí yên lặng ấy, bỗng nhiên chúng tôi nghe viên chủ hãng, đứng đâu đó trong tối đen, cất tiếng nói với viên kiểm tra:
“Đêm nay, Lécrivain không thấy hạ cánh xuống Casablanca.”
“Vậy hả?” viên kiểm tra trả lời. “Vậy sao?”
Và, đang mơ màng, bị gọi giật đậy, ông ta phải cố gắng để tỉnh hẳn, để tỏ rõ là mình quan tâm, và ông ta nói thêm:
“Vậy ư, thưa ông? Hắn ta không vượt được sao? Hắn ta quay ngược trở lại à?”
Ông ta được trả lời câu đó, từ tít cuối chiếc xe buýt đơn giản một tiếng: “Không.” Chúng tôi đợi viên chủ hãng nói thêm, nhưng không có lời nào nữa. Một giây qua, một giây nữa qua, càng lúc càng thấy rõ ràng cái tiếng “không” ấy không được tiếp theo bởi một tiếng nào nữa, rằng cái tiếng “không” ấy là bất khả kháng, rằng Lécrivain không phải chỉ không thấy hạ cánh ở Casablanca mà vĩnh viễn anh không còn hạ cánh ở nơi nào nữa.
Như vậy đấy, sáng hôm ấy, vào lúc bình minh của chuyến chở thư đầu của tôi, đến lượt tôi trải qua những nghi lễ thiêng liêng của nghề nghiệp, và tôi cảm thấy thiếu tự tin khi nhìn mặt đường lát đá dăm sáng loáng qua ô cửa kính, nơi phản chiếu ánh đèn đường. Ở đây, trên những vũng nước, có thể thấy từng vốc gió chạy. Và tôi nghĩ thầm: “Mình bay chuyến thư đầu… mà thật… không gặp may.” Tôi ngước mắt nhìn viên kiểm: “Như thế có phải là thời tiết xấu không ông?” Viên kiểm tra ném về phía cửa kính một cái nhìn uể oải: “Có gì rõ đâu.” ông ta gầm gừ. Và tôi tự hỏi, dấu hiệu thế nào là thời tiết xấu. Chiều hôm trước, Guillaument, chỉ bằng một nụ cười, đã xóa đi mọi điềm không lành do những người lái già chất đầy đầu chúng tôi, song các điềm không lành ấy bây giờ trở lại trong trí nhớ: “Anh nào chưa thạo đường bay, chưa nhận ra từng viên sỏi một, anh ta mà gặp một trận bão tuyết thì có mà, thật tội nghiệp… Ái chà, thật đấy, thật tội nghiệp!…” Nhưng nhớ ra là mình cần giữ thể diện, họ lắc đầu, nhìn thẳng vào chúng tôi với ánh mắt thương hại có hơi lúng túng, như thể đang phàn nàn rằng chúng tôi ngay thật quá, hồn nhiên quá.
Nhưng mà, cho đến nay, chiếc xe buýt này đã là chỗ trú chân cuối cùng của bao nhiêu người trong bọn chúng tôi? Sáu mươi, hay tám mươi? Đều do anh lái xe lặng lẽ này lái đi, một sáng trời mưa. Tôi nhìn quanh mình: những chấm sáng lập lòe trong bóng tối, những điếu thuốc lá chấm câu cho các suy nghĩ. Những suy nghĩ nhỏ nhoi của những người làm công đã có tuổi. Những ông bạn đồng hành này đã tháp tùng lần cuối cho bao anh em trong bọn tôi?
Tôi cũng bắt gặp những lời tâm sự người ta hạ giọng trao đổi với nhau. Thuộc về bệnh tật, túng thiếu, những lo âu buồn tẻ đời sống gia đình. Những lời tâm sự phơi bày khuôn vách của cái nhà tù xám xịt trong đó những con người bị nhốt. Và, bỗng nhiên, hiện lên trước mặt tôi khuôn mặt của số phận.
Ôi, anh bạn tôi hôm nay có mật, là người thư ký bàn giấy già, không bao giờ có ai giải thoát cho anh và anh không mảy may trách nhiệm về điều đó. Anh đã xây sự yên tĩnh của anh bằng xi măng, kín mít đến trám hết mọi ngách thông ra ánh sáng, như loài mối hay làm. Anh cuộn tròn trong cái yên ổn trưởng giả của anh, các thói quen của anh, trong những nghi thức ngột ngạt của đời sống tỉnh lẻ của anh, anh đã dựng lên cái bức tường chắn tầm thường này chống gió, chống sóng và chống các vì sao. Anh không muốn tự chuốc lấy lo âu bằng những bài tính lớn,quên được cái thân phận làm người đối với anh cũng khá vất vả rồi. Anh đâu phải cư dân của một hành tinh lang thang trong vũ trụ, anh tuyệt không đặt cho mình những câu hỏi không có lời giải đáp: anh là một anh tiểu tư sản ở Toulouse. Không ai túm lấy vai anh khi còn chưa đến lúc. Bây giờ, chất đất sét làm nên anh, chất đất sét ấy nó đã khô lại, đã rắn rồi, và chẳng có gì trong anh từ nay có thể đánh thức người nhạc sĩ đã thiếp ngủ, hay nhà thơ, hay nhà thiên văn có lẽ đã từng đến ở đầu tiên trong người anh.
Tôi thôi không phàn nàn về mưa quất. Cái kỳ ảo của nghề mở ra cho tôi một thế giới, trong thế giới này, trước hai tiếng nữa, tôi sẽ đương đầu với những con rồng đen và những đỉnh núi đội chiếc vương miện kết từ vô số ánh chớp xanh, một thế giới mà, đêm đến được giải thoát, tôi sẽ đọc trong các vì sao con đường tôi đi.
Lễ rửa tội nghề nghiệp của chúng tôi đã diễn ra như vậy đó, và chúng tôi bắt đầu đi. Những cuộc đi, rất thường là chẳng có lịch sử gì. Chúng tôi hạ cánh nhẹ nhàng, như những người thợ lặn lành nghề, vào những nơi sâu thẳm của lĩnh vực chúng tôi. Lĩnh vực đó ngày nay được thám hiểm rất kỹ. Người lái, người thợ máy và người phụ trách vô tuyến điện hiện nay không còn thử làm một cuộc phiêu Iưu nữa mà họ khép mình trong một phòng thí nghiệm. Họ vâng theo sự chỉ bảo của các kim đồng hồ chứ không còn tùy sự biến đổi của cảnh vật. Ở bên ngoài, núi non ngập chìm trong bóng tối, nhưng đó không còn là núi non nữa. Đó là những lực lượng vô hình mà ta phải tính toán độ gần xa. Anh phụ trách vô tuyến, dưới ánh đèn, ghi chép khôn ngoan những con số, người thợ máy chấm lên bản đồ và người lái sẽ chữa lại đường bay nếu núi non nghiêng ngả, nếu các cao điểm anh ta vốn muốn vòng sang bên trái bỗng chốc thấy vươn dài trước mặt trong sự im lặng và bí mật của những chuẩn bị quân sự.
Còn những người phụ trách vô tuyến trực đưới mặt đất, họ cũng khôn ngoan ghi lại vào những cuốn sổ, đúng vào giây phút đó, chính cái câu mà bạn đồng nghiệp của họ trên máy bay đọc: “Không giờ bốn mươi phút. Tuyến đường 230. Trên tàu, mọi việc bình thường.”
Đội phi hành ngày nay bay như vậy đó. Nó không cảm thấy là nó đang trong quá trình vận động. Nó cách xa mọi tiêu điểm, như là đêm đen ở biển. Nhưng các động cơ rền khắp căn buồng sáng chói này một tiếng rì rầm làm biến đổi bản chất của nó. Nhưng mà giờ khắc cứ quay. Nhưng mà trong các mặt đồng hồ, trong các đèn vô tuyến, trong các kim kia vẫn tiếp diễn một pháp thuật vô hình. Từng giây lại từng giây, những cử chỉ bí mật ấy, những lời nói nghẹn ngào ấy, sự chú tâm ấy sửa soạn cho điều kỳ diệu. Và, khi đã đến giờ, người lái có thể, tuyệt đối không sợ sai, dán mặt vào cửa kính nhìn ra. Vàng nảy sinh từ cõi Vô cùng: nó chói chang trong những ngọn đèn của trạm dừng.
Thế nhưng, tất cả chúng tôi đều biết đến những chuyến bay mà ở đó, bỗng nhiên, nhờ ánh sáng từ một điểm nhìn đặc biệt, cách trạm đừng hai giờ đi đường, chúng tôi cảm thấy chúng tôi lạc loài lạ, ở Ấn Độ cũng không lạc loài đến thế, và dường như chúng tôi không có hy vọng trở về.
Như vậy đó, khi Mermoz4, lần đầu, vượt Nam Đại Tây Dương bằng thủy phi cơ, anh men bay theo, vào lúc chiều tối, vùng Pot-au-Noir. Anh chợt thấy, trước mặt anh, từng phút từng phút càng chồng chất những cái đuôi bão, chúng dựng lên như một bức tường thành, rồi bóng tối trùm lên và ẩn giấu mọi âm mưu chuẩn bị đó. Và, một tiếng sau, khi lượn lách giữa các lùm mây, anh bị rơi vào một thế giới ma quái.
(4) Jean Mermoz (1901-1936): phi công Pháp, năm 1928 lần đầu bay đêm từ Rio de Janeiro đến Buenos Aires, hai lần vượt Nam Đại Tây Dương.
Ở đấy, có vô số những vòi nước biển dựng đứng, bên ngoài yên lặng như các cột đền màu đen. Đầu các vòi nước ấy phình ra, chống cho mái vòm thấp và tối đen của cơn dông tố, nhưng, qua những kẽ rách của mái vòm, có những vạt ánh sáng rơi xuống, và vầng trăng tròn sáng rực rỡ chiếu giữa các thân cột đó, trên mặt biển như dát đá lạnh. Và Mermoz cứ tiếp tục bay qua những phế tích bỏ hoang đó, vằn vèo qua hết cái lạch sáng trăng này đến cái lạch sáng trăng khác, đi vòng quanh các cây cột khổng lồ, ở đó có lẽ biển đang gầm thét dâng trào, đi như thế bốn tiếng, dọc theo ánh trăng chảy ra khỏi cổng đền. Và cảnh tượng ấy thật nặng nè đến nỗi khi Pot-au-Noir đã vượt qua rồi, Mermoz bỗng chợt nhận ra mình không thấy sợ.
Tôi cũng nhớ lại một trong những khoảnh khắc mình từng vượt qua địa giới của thế giới thực: tất cả các dấu hiệu vô tuyến chuyển đến từ các trạm nghỉ ở Sahara, suốt đêm ấy, đều sai và đánh lừa chúng tôi, tôi và anh phụ trách vô tuyến tên là Néri, một cách nghiêm trọng. Chỉ khi bỗng nhiên thấy ánh nước hắt lên từ dưới đáy một thung lũng mù sương, tôi mới đột ngột bẻ ngoặt vào hướng bờ biển, chúng tôi không tính được đã bao nhiêu thời giờ mình lao sâu ra khơi.
Chúng tôi không còn tin chắc mình trở về được trong đất liền, vì xăng có lẽ thiếu. Nhưng, vào được ven bờ rồi, chúng tôi lại còn phải tìm ra trạm nghỉ. Gặp lúc bấy giờ lại là trăng lặn. Đã điếc, giờ lại không có thông hiệu gì về góc độ, chúng tôi dần dần hóa ra mù. Vầng trăng sắp tắt hẳn, như một ánh lửa tờ mờ, trong một sa mù giống như dải tuyết. Trên đầu chúng tôi, đến lượt trời cũng bị mây che phủ, và từ lúc đó, chúng tôi bay giữa mây và sa mù, trong một thế giới trống rỗng không còn một vật thể gì, một ánh sáng gì.
Các trạm nghỉ trả lời chúng tôi, lại từ khước chỉ dẫn cho chúng tôi về chính chúng tôi: “Vị trí không xác định… Vị trí không xác định,” bởi vì tiếng nói của chúng tôi vừa truyền đến họ từ muôn phương lại vừa không biết từ đâu hết.
Và khi chúng tôi đã thất vọng rồi, bỗng nhiên thấy có một điểm sáng chói ở chân trời, đằng trước, bên tay trái. Tôi liền cảm thấy một niềm vui trào dâng. Néri nghiêng đầu về phía tôi và tôi nghe anh hát! Cái kia chỉ có thể là trạm nghỉ, nó chỉ có thể là cái đèn pha của trạm, bởi vì Sahara, ban đêm, câm tắt hoàn toàn và thành một xứ sở chết bao la. Thế nhưng, ánh sáng kia hơi nhấp nháy một tí rồi tắt ngấm. Chúng tôi đã hướng tới một vì sao, nó sáng lên khi sắp lặn, chỉ mấy phút thôi, tận chân trời, giữa lớp sa mù và những lớp mây.
Thế rồi chúng tôi thấy mọc lên những ánh sáng khác, và với một niềm hy vọng âm thầm, chúng tôi lần lượt bay tới hết chấm sáng này lại chấm sáng khác. Khi thấy cái chấm sáng sáng lâu, chúng tôi thử thí nghiệm sống còn: “Đã thấy ánh sáng, Néri ra lệnh cho trạm nghỉ Cisneros, hãy tắt đèn pha, bật đèn pha ba lần.” Cisneros tắt và bật đèn pha, nhưng, thứ ánh sáng đặc sệt mà chúng tôi đang dõi theo ấy không nhấp nháy, ôi cái vì sao bất khuất.
Mặc đù xăng cạn dần, chúng tôi cứ như con cá theo đớp mồi vàng, lần nào cũng nhìn thấy đích thị là ánh đèn pha, lần nào cũng thấy đích thị là trạm nghỉ và sự sống, rồi lần nào cũng phải đổi một vì sao khác. Từ đó, chúng tôi cảm thấy lạc loài trong khoảng không gian giữa các hành tinh, ở giữa cả một trăm hành tinh không thể nào đạt tới, đi tìm cái hành tinh chân chính dộc nhất, hành tinh của chúng ta, cái hành tinh mà chỉ mình nó có những phong cảnh quen thuộc với chúng ta, những mái nhà thân thiết với chúng ta, những tình yêu của chúng ta.
Chỉ mình nó có… Tôi sẽ nói với bạn tôi chợt thấy hiện ra trước mắt cái hình ảnh gì, và đối với bạn, có lẽ nó có vẻ trẻ con… Nhưng chính giữa sự hiểm nguy, người ta giữ toàn những âu lo của con người, nào ta khát, nào ta đói. Nếu chúng tôi tìm thấy được Cisneros, chúng tôi sẽ tiếp tục cuộc hành trình, sau khi lại lấy đầy dầu và chúng tôi sẽ hạ cánh xuống Casablanca, trong khí trời mát mẻ lúc bình mình. Thế là xong nhiệm vụ! Néri và tôi sẽ ra phố. Có thể tìm thấy những quán ăn mở cửa từ mờ sáng. Néri và tôi sẽ ngồi vào bàn, hết sức an toàn, và cười về chuyện đêm vừa qua trước đĩa bánh sừng bò nóng và cốc cà phê sữa. Néri và tôi sẽ nhận món quà tinh mơ đó của cuộc đời. Người phụ nữ nông dân già, như vậy đấy, chỉ liên hệ với Chúa qua một bức tranh vẽ, một tấm huy hiệu thơ ngây, một tràng hạt: muốn được chúng ta nghe, người nói cùng ta phải dùng một tiếng nói giản dị. Như vậy đó, niềm vui sống, đối với tôi, thu vào trong hớp nước thơm nóng đầu tiên trộn lẫn sữa, cà phê và bột mì, hớp nước ấy làm người ta cảm thông với những cánh đồng cỏ yên tĩnh, những vườn cây nhiệt đới và các vụ gặt hái, làm người ta cảm thông với toàn Trái đất. Trong tất cả các vì sao, chỉ có một vì phối tạo được và đặt vào tầm tay ta bát điểm tâm thơm phức lúc bình minh.
Nhưng có những quãng cách không thể vượt qua chồng chất giữa con tàu của chúng tôi với Trái đất có người ở đó. Tất cả mọi của cải trên đời đều ở trong một hạt bụi bay lạc giữa các vì tinh tú. Và nhà thiên văn Néri bao giờ cũng van nài tất cả các vì sao để nhận mặt cho được hạt bụi ấy.
Bàn tay nắm chặt của anh bỗng xô vai tôi. Rồi anh chìa cho tôi một mảnh giấy, tôi đọc thấy: “Mọi việc đều ổn cả, tôi vừa nhận một bức điện tuyệt vời…” Và, tim đập thình thình, tôi đợi anh viết ra năm hay sáu con chữ sẽ cứu sống chúng tôi. Sau cùng, tôi cầm trong tay món quà đó của trời.
Bức điện ấy đánh từ Casablanca, nơi chúng tôi ra đi tối hôm trước. Bị chậm trễ trên đường chuyển, nó bỗng nhiên tới được tay chúng tôi, cách thêm hai nghìn ki lô mét nữa, giữa mây và sa mù, đương lúc chúng tôi lạc giữa biển khơi. Bức điện ấy là của người đại diện chính quyền, ở sân bay Casablanca. Tôi đọc thấy: “Ông Saint-Exupéry, tôi buộc phải yêu cầu Paris xử phạt ông, vì ông đã ngoặt quá gần các nhà vòm lúc khởi hành ở Casablanca.” Đúng là tôi có ngoặt quá gần các nhà vòm. Và vị đại diện chính quyền đó cũng đúng khi nổi nóng thực hiện nghiệp vụ của mình. Nếu là trong một buồng giấy sân bay, tôi sẽ cúi đầu nhận lời khiển trách. Nhưng lời khiển trách đó lại tới với chúng tôi ở cái nơi nó đáng lẽ không có nhiệm vụ tới. Nó quở phạt giữa các vì sao quá thưa thớt này, giữa dải sa mù này, giữa cái mùi dọa nạt của biển cả này. Chúng tôi cầm trong tay số phận của mình, số phận của chuyến thư và số phận của chiếc tàu, lái thế nào đây để được sống thật đã lắm khó khăn, vị đại diện ấy còn đổ lên đầu chúng tôi điều giận hờn nhỏ nhặt của ông ta nữa. Tuy vậy, không những không bực mình, Néri và tôi, chúng tôi lại cảm thấy một niềm vui sướng tràn trề và đột ngột. Ở nơi này, chúng tôi là những ông chủ, ông ta làm cho chúng tôi rõ ra điều đó. Cái ông thượng sĩ ấy không nhìn thấy quân hàm trên tay áo chúng tôi rằng chúng tôi đã là đại úy hay sao? Ông ta quấy rầy chúng tôi khi chúng tôi đang mơ màng và nghiêm trang bách bộ trên những quãng đường từ sao Bắc Đẩu đến sao Nhân Mã, và chỉ có một việc duy nhất đáng được chúng tôi quan tâm lúc này, ấy là sự phản bội của mặt trăng…
Nhiệm vụ tức thời, nhiệm vụ duy nhất của hành tinh Trái đất, nơi ông ta vừa lên tiếng, là cho chúng tôi những con số chính xác, cần cho những con tính của chúng tôi giữa các vì sao. Thế mà những con số ấy lại sai. Về mọi việc khác, tạm thời, Trái đất nên im đi. Nên Néri viết cho tôi: “Đáng lẽ thay vì đùa cợt nhảm nhí thế này, họ nên dẫn dắt chúng ta đến một nơi nào đó…” “Họ”, đối với Néri, là tất cả các dân tộc của địa cầu, cùng các thượng hạ nghị viện của họ, các hạm đội, sư đoàn của họ, các hoàng đế của họ. Và, đọc lại bức điện của một tên khốn, tự cho có thể gây sự được với chúng tôi, chúng tôi rẽ ngoặt con tàu về hướng sao Thủy.
Chúng tôi bỗng được cứu thoát bởi sự ngẫu nhiên kỳ lạ nhất: đến lúc, sau khi đã hoàn toàn hết hy vọng tìm cách hạ xuống Cisneros và bẻ ngoặt một đường thẳng góc với hướng vào bờ biển, tôi quyết định giữ hướng đó cho đến hết xăng. Làm như vậy, may ra ít nhất mình cũng không bị rơi xuống biển, tôi nghĩ vậy. Nhưng khốn khổ cho tôi, những ngọn đèn pha trên máy bay như phỉnh gạt tôi, muốn lôi tôi không biết về đâu. Cũng khốn khổ cho tôi, sa mù dày đặc trong đó chúng tôi buộc phải lao vào giữa đêm tối, tốt nhất là làm như vậy, khiến chúng tôi chẳng có mấy cơ may tiếp đất mà không xảy ra tai nạn. Nhưng tôi không có quyền chọn lựa.
Tình thế đã rõ đến nỗi tôi nhún vai một cách buồn rầu khi Néri chuồi cho tôi một bức điện, giá nó đến một tiếng trước thì đã cứu được chúng tôi rồi: “Cisneros quyết định vực chúng ta. Cisneros chỉ rõ: hai trăm mười sáu không rõ ràng…” Cisneros không còn bị chôn chìm trong bóng tối, Cisneros tỏ ra là mình có đó, tồn tại, về phía trái chúng tôi. Vâng, nhưng mà khoảng cách bao nhiêu? Néri và tôi, chúng tôi bắt đầu trao đổi chớp nhoáng. Quá chậm rồi. Chúng tôi đồng ý với nhau thế. Bay về phía Cisneros, chúng tôi gặp nguy cơ nhiều hơn vì không tới kịp vùng bờ biển. Nên Néri trả lời: “Vì chỉ còn một giờ xăng, giữ hướng chín mươi ba.”
Nhưng các trạm nghỉ, từng trạm một, lần lượt thức dậy. Xen vào câu chuyện giữa chúng tôi có các giọng nói của Agadir, của Casablanca, của Dakar. Các máy vô tuyến của mỗi thành phố đều báo động cho các sân bay. Phụ trách các sân bay báo động cho các anh em đồng nghiệp. Dần dần, họ quây quần quanh chúng tôi như quây quần quanh một giường bệnh. Nhiệt tình vô ích, nhưng vẫn là nhiệt tình. Những lời khuyên bảo vô hiệu rồi, nhưng nghe mến luyến lào sao!
Và bỗng nhiên Toulouse xuất hiện. Toulouse – đầu não của đường bay – mất tăm trong cõi xa đến bốn nghìn ki lô mét, Toulouse tức khắc xen vào giữa bọn tôi, rồi không cần mào đầu: “Máy anh lái có phải là cái F… (Tôi quên số đăng ký.) – Phải – Thế thì anh còn hai giờ xăng. Thùng chứa xăng máy đó không phải thùng chuẩn. Bẻ về Cisneros đi.”
o O o
Như vậy đấy, những điều bó buộc của nghề nghiệp làm biến đổi và làm giàu thế giới. Cũng chẳng hề cần một đêm tương tự mới khiến người lái đường dài khám phá ra một ý nghĩa mới cho các cảnh trí cũ. Phong cảnh buồn tẻ làm nhọc hành khách đi đường nhưng đối với đội phi hành thì khác. Cái khối mây giăng chắn ngang chân trời kia, đối với đội phi hành không còn là phong cảnh: nó sẽ chạm tới từng bắp thịt của anh và đặt cho anh nhiều vấn đề. Anh sẽ phải lưu ý đến nó, cân đo nó, một ngôn ngữ nghiêm túc đã nối liền nó với anh, đây là một đỉnh nhọn, nó hãy còn xa; nhưng rồi nó sẽ hiện ra dưới bộ mặt nào? Dưới ánh trăng, dùng nó làm mốc thật tiện. Nhưng nếu người lái cứ bay như người mù, lúng túng trong khi điều chỉnh đường chao liệng, và dao động ở vị trí của mình, tảng đá đó sẽ biến thành thuốc nổ, mối đe dọa từ nó sẽ ám ảnh anh suốt đêm, cũng như một quả mìn độc nhất chìm khuất lơ lửng dưới sông làm cho toàn bộ vùng biển trở nên nguy hiểm.
Cũng như vậy đấy, các đại đuơng biến đổi. Với những lữ khách bình thường, cơn bão tố không thể nhìn thấy: nhìn từ rất cao, sóng không hằn nổi nữa, và các tảng mù sương như là không chuyển động. Chỉ có những hình thù như những tàu lá trắng trải to, sọc rằn và đầy bọt, như bị cùm trong băng glá. Nhưng đội phi hành quyết rằng ở nơi này tuyệt cấm hạ cánh xuống biển. Các tàu lá kia, đối với họ, giống như những đóa hoa độc lớn.
Và cho dẫu chuyến đi là một chuyến đi tốt lành, người lái đang bay ở đâu đó trên chặng đường bay của mình, vẫn không dự vào một cảnh trí đơn thuần. Các màu sắc kia của đất và của trời, các vệt gió kia trên biển, các đám mây vàng ánh kia của hoàng hôn, anh không ngắm chúng đâu mà anh suy nghĩ về chúng. Giống như người nông dân đi thăm ruộng của mình, bằng một nghìn dấu hiệu, dự kiến triển vọng mùa xuân, đe dọa của băng giá, điềm báo có mưa, người lái nhà nghề cũng đọc các dấu hiệu của tuyết, dấu hiệu của sa mù, dấu hiệu của một đêm tốt lành. Cỗ máy, thoạt tiên có vẻ như tách anh ra khỏi những âu lo đó, giờ đặt anh còn khắc nghiệt hơn nữa vào những vấn đề lớn của thiên nhiên. Một mình ở giữa phiên tòa bao la tạo nên do một cơn bão tố, người lái đó giành giật chuyến thư của mình với ba vi thần linh cơ bản: núi, biển và dông tố.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Xứ Con Người
Antoine de Saint Exupéry
Xứ Con Người - Antoine de Saint Exupéry
https://isach.info/story.php?story=xu_con_nguoi__antoine_de_saint_exupery