Phi Trường epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Phần I . 01
háng giêng, lúc sáu giờ ba mươi chiều một ngày thứ sáu, Phi trường quốc tế Lincoln, tiểu bang Illinois, vẫn đang hoạt động, dù rất khó khăn.
Cũng như toàn bộ miền trung nước Mỹ, phi trường đang rối tung bởi một cơn bão tuyết lớn chưa từng thấy trong vòng sáu năm nay. Cơn bão đã kéo dài ba ngày. Bây giờ, như những mụn mủ trên một thân thể xiêu vẹo, yếu ớt, những chỗ yếu nhất đang vỡ ra đều đều.
Một xe tiếp phẩm của hãng United Airlines mang theo hai trăm phần ăn, bị mất tích và bị kẹt tuyết đâu đó trong phạm vi sân bay. Việc tìm kiếm chiếc xe tải hoặc người tài xế của nó đã thất bại trong bão tuyết và bóng tối.
Chuyến bay 111 của hãng United, chuyến bay thẳng đến Los Angeles mà chiếc xe tiếp phẩm phải phục vụ, đã chậm lịch bay nhiều giờ. Sự hỗn loạn do chiếc xe tiếp phẩm bị mất tích sẽ làm cho nó chậm hơn nữa. Những trường hợp chậm tương tự vì những lý do khác nhau đã làm ảnh hưởng đến ít nhất một trăm chuyến bay của hai mươi hãng hàng không khác nhau đang sử dụng Phi trường quốc tế Lincoln.
Trong phạm vi sân bay, đường băng 3-0 không sử dụng được, do bị chặn bởi chiếc máy bay Boeing 707 của hãng Aéreo-Mexican, những bánh xe của nó kẹt sâu trong lớp bùn tuyết, gần mép đường băng. Hai giờ tận lực để kéo chiếc máy bay khổng lồ đi đều thất bại. Bây giờ, sau khi sử dụng hết khả năng của mình, hãng Aéreo-Mexican phải cầu cứu hãng TWA.
Vì đường băng 3-0 bị chặn nên đài kiểm soát không lưu (KSKL) phải áp dụng chế độ kiểm soát trên không hết sức chặt chẽ và hạn chế việc tiếp nhận máy bay từ những trung tâm lân cận như Minneapolis, Cleveland, Kansas City, Indianapolis và Denver. Mặc dù vậy, vẫn có hai mươi máy bay đang lượn tròn trên trời xin hạ cánh, một số gần cạn nhiên liệu. Còn trên mặt đất thì có gấp đôi số máy bay như thế sẵn sàng cất cánh. Nhưng chừng nào tình hình trên không chưa bớt căng thẳng, đài KSKL chưa cho phép bất cứ máy bay nào cất cánh. Kết quả là các cửa ra máy bay, đường lăn, khu sân đỗ nhồi đầy máy bay đang nằm chờ, nhiều chiếc đang nổ máy sẵn.
Trong kho của tất cả các hãng hàng không đều đầy ứ hàng hóa, những hàng hóa cần vận chuyển gấp nhưng giờ bị cơn bão ngăn trở. Các nhân viên giám sát hàng hóa lo lắng nhìn những đống hàng mau hỏng - những hoa hồng trồng trong nhà kính từ Wyoming đi New England; một tấn phó mát Pennsylvania chở đi Anchorage, Alaska; đậu ướp lạnh chở đi Iceland; những con tôm hùm sống từ miền đông chở đi châu Âu trên chuyến bay qua bắc cực. Những con tôm hùm này phải xuất hiện trong thực đơn ngày mai của các khách sạn, nhà hàng ở Edinburgh và Paris, nơi chúng được gọi là “hải sản tươi sống của địa phương” và đám khách du lịch Mỹ cả tin sẽ tranh nhau ăn chúng. Dù có bão hay không, các hợp đồng đã ghi rằng những thứ hàng mau hỏng này phải được vận chuyển đến nơi vẫn còn tươi và phải nhanh chóng.
Điều làm các nhân viên hàng hóa của hãng American Airlines đặc biệt lo ngại là lô hàng mấy nghìn con gà tây mới ra khỏi lồng ấp cách đây vài giờ. Lịch chuyên chở món hàng này đã được sắp xếp chính xác từ nhiều tuần lễ trước đây - giống như mệnh lệnh khai hỏa một trận chiến - trước khi những quả trứng gà tây được đưa vào lồng ấp. Chậm nhất những con gà sống này phải được chở tới bờ biển phía tây trong vòng bốn mươi tám giờ đồng hồ sau khi nở, là thời hạn để những sinh vật tí hon này có thể sống sót mà không cần ăn uống. Thông thường, việc vận chuyển như vậy có tỉ lệ sống sót gần một trăm phần trăm. Còn nếu cho chúng ăn uống trong khi vận chuyển thì chúng và cả chiếc máy bay sẽ bốc mùi nặng đến nhiều ngày sau chưa hết. Bây giờ lịch vận chuyển chúng đã bị chậm mất nhiều giờ. Vì thế một chuyến bay chở hàng được điều động thay cho một chuyến bay hành khách, xem ra những chú gà tây mềm yếu này được ưu tiên hơn mọi thứ, kể cả những hành khách VIP.
Trong nhà ga hàng không chính, sự hỗn loạn đã tăng cao. Các phòng chờ chật kín hàng nghìn hành khách của các chuyến bay bị hoãn hay bị hủy. Hàng đống hành lý khắp nơi. Cả căn phòng khổng lồ trông giống như sự lộn xộn kết hợp giữa một trận đấu bóng đá kiểu Mỹ với cửa hàng Macy's trước lễ Giáng sinh.
Cao trên mái nhà ga, câu slogan thiếu khiêm tốn PHI TRƯỜNG QUỐC TẾ LINCOLN - NGÃ TƯ HÀNG KHÔNG THẾ GIỚI, hoàn toàn bị tuyết che lấp.
Thật đáng kinh ngạc là mọi thứ vẫn tiếp tục hoạt động, Mel Bakersfeld nghĩ.
Mel, Tổng giám đốc phi trường - dáng gầy, khắc kỷ - đang đứng cạnh phòng chỉ huy chống tuyết, cao trên tháp KSKL, nhìn chăm chú vào màn đêm. Bình thường từ văn phòng kính này, toàn bộ khu liên hợp phi trường - các đường băng, đường lăn, nhà ga, giao thông dưới đất và trên không - trông giống như những mô hình bé xíu, ngay cả vào ban đêm hình dạng và chuyển động của chúng có thể nhìn thấy rõ ràng dưới ánh đèn. Chỉ có một nơi nhìn được như vậy cao hơn - Đài KSKL chiếm hai tầng trên cùng.
Nhưng đêm nay chỉ nhìn thấy thấp thoáng vài ánh đèn gần nhất sau tấm màn tuyết dày đặc đang bị gió cuốn. Mel nghĩ rằng mùa đông này sẽ còn được thảo luận tại Hội nghị các nhà khí tượng trong nhiều năm tới.
Trận bão tuyết này xuất hiện cách đây năm ngày tại vùng núi khuất gió ở Colorado. Lúc mới xuất hiện nó chỉ là một vùng áp thấp không to hơn một quả đồi, và đa số các nhà dự báo thời tiết, để lập bản đồ khí tượng cho các chuyến bay, không ghi nhận ra nó, hay bỏ qua nó. Và như bất mãn, cơn áp thấp đó gia tăng sức mạnh giống như một căn bệnh ác tính khổng lồ, vẫn đang phát triển, lúc đầu hướng về phía đông nam, sau đó phía bắc.
Nó vượt qua Kansas và Oklahoma, sau đó tạm dừng tại Arkansas, thu thập thêm sức mạnh. Ngày hôm sau, mạnh lên và hung hãn, nó ào ào đổ vào thung lũng Mississippi. Cuối cùng, cơn bão trút xuống Illinois, gần như làm tê liệt cả tiểu bang với gió mạnh, nhiệt độ đóng băng, và một lượng tuyết dày mười inch trong 24 giờ.
Tại sân bay, lớp tuyết dày mười inch lúc đầu rơi nhẹ, liên tục. Nhưng bây giờ lớp tuyết cũ được tiếp nối bởi nhiều tuyết hơn, gió cuốn chúng thành từng đống, cùng một lúc các đống tuyết mới lại chồng lên các đống tuyết cũ. đội dọn tuyết đã gần như kiệt sức. Trong vòng vài giờ qua một số người đã được lệnh về nhà, mặc dù trong trường hợp khẩn cấp như thế này sân bay có cung cấp cho họ nơi tạm nghỉ.
Tại phòng chỉ huy chống tuyết ở gần Mel, Danny Farrow - lúc bình thường là trợ lý của Tổng giám đốc phi trường, nay phụ trách phòng chỉ huy chống tuyết - đang gọi Trung tâm chống tuyết qua radio.
“Chúng tôi đang mất cả các bãi đậu xe rồi. Tôi cần thêm sáu xe dọn tuyết nữa và một đội banjo tại ngã ba bảy bốn”.
Danny đang ngồi tại phòng chỉ huy chống tuyết, thực sự không phải là một căn phòng đúng nghĩa, nhưng là một chỗ rộng cỡ ba gian nhà. Trước mặt Danny và hai người giúp việc của ông ở hai bên là một loạt điện thoại, máy telex và máy radio. Xung quanh họ là các bản đồ, sơ đồ, và các tờ phiếu ghi lại tình trạng và vị trí của tất cả các xe dọn tuyết, cũng như các nhân viên và các giám sát. Có một phiếu riêng biệt cho các đội banjo - đội lưu động với dụng cụ dọn tuyết cá nhân. Phòng chỉ huy chống tuyết chỉ hoạt động đúng mục đích của mình trong một mùa này. Tại các thời điểm khác trong năm, căn phòng này chỉ còn sự vắng vẻ và yên tĩnh.
Cái đầu hói của Danny bóng nhẫy những giọt mồ hôi khi ông ghi chú những ký hiệu trên bản đồ khổ lớn của sân bay. Ông lặp đi lặp lại thông điệp của mình cho Trung tâm chống tuyết, nghe giọng ông giống như một lời van xin cho cá nhân, mà có lẽ đúng như thế thật. Ở trên cao này là phòng chỉ huy. Và người chỉ huy phòng này phải hiểu rõ toàn bộ sân bay, biết rõ từng yêu cầu và triển khai các thiết bị đến bất cứ nơi nào cần thiết nhất. Một vấn để - và chắc chắn là nguyên nhân làm cho Danny toát mồ hôi - là những người dưới kia, những người đang chiến đấu để sân bay tiếp tục hoạt động, ít khi chia sẻ quan điểm giống nhau về những nơi nào ưu tiên hơn.
“Chắc chắn, chắc chắn rồi. Thêm sáu xe dọn tuyết nữa”. Một giọng nói từ Trung tâm chống tuyết, từ đầu bên kia sân bay, gắt gỏng trong loa. “Để chúng tôi hỏi Ông già Noel đã. Hình như ông ta đang ở quanh đây thôi”. Im lặng một chút, rồi sôi nổi hơn, “Còn có chỉ dẫn ngu ngốc nào nữa không?”
Liếc nhìn Danny, Mel lắc đầu. Ông nhận ra giọng nói trong loa là của một đội trưởng có lẽ đã làm việc liên tục kể từ khi bắt đầu có bão tuyết. Tâm trạng giận dữ trong hoàn cảnh như thế này cũng dễ hiểu. Thông thường, sau một mùa đông khó khăn chiến đấu với tuyết, Trung tâm chống tuyết và Ban giám đốc sân bay sẽ tổ chức một buổi tối vui vẻ với nhau mà họ gọi là “đêm-hóa-dữ-làm-lành”. năm nay chắc chắn sẽ cần một buổi tối như thế.
Danny nói có lý, “Chúng tôi đã yêu cầu bốn xe dọn tuyết đi tìm chiếc xe tiếp phẩm của hãng United. Họ có lẽ đã xong việc rồi chứ”.
“Họ có thể đã xong việc rồi - nếu chúng ta tìm được chiếc xe chết tiệt đó”.
“Anh chưa tìm ra nó sao? Mấy người của anh đang làm gì vậy - Ăn tối với các quý bà chắc?” Danny vươn tay vặn nhỏ âm thanh như một cử chỉ đáp trả bực bội.
“nghe này, những con chim trong cái chuồng nhếch nhác đó làm sao có ý tưởng nào về những gì xảy ra ngoài sân bay? Có lẽ anh nên nhìn ra ngoài cửa sổ một lát chứ. Bất kỳ ai có thể ở Bắc cực chết tiệt đêm nay mới biết khác biệt như thế nào”.
“Cố thổi vào tay đấy, Ernie”, Danny nói. “Nó có thể làm tay anh ấm áp và im miệng”.
Mel Bakersfeld hiểu hầu hết các trao đổi này, ông biết rằng những gì đã nói về tình hình bên ngoài nhà ga là sự thật. Một giờ trước đây, Mel đã lái qua sân bay. Ông đã sử dụng đường công vụ, mặc dù ông biết rõ sân bay như lòng bàn tay, nhưng tối nay ông đã rất khó khăn khi tìm đường và nhiều lần gần như bị lạc đường.
Mel đã đến kiểm tra Trung tâm chống tuyết nơi đang hoạt động khẩn trương. Nếu tòa tháp nơi đặt phòng chỉ huy chống tuyết là sở chỉ huy, thì Trung tâm chống tuyết là một doanh trại ở chiến tuyến. Từ đây, các đội công nhân mệt mỏi và các đội trưởng đến và đi, những người đẫm mồ hôi và lạnh cóng thay phiên nhau, các công nhân thường xuyên được bổ sung thêm những công nhân tạm thời - thợ mộc, thợ điện, thợ ống nước, nhân viên, cảnh sát. Các công nhân tạm thời được lấy từ công nhân và nhân viên làm nhiệm vụ thường xuyên trong sân bay và được trả lương gấp rưỡi cho đến khi kết thúc tình hình khẩn cấp vì tuyết. Nhưng họ biết công việc phải làm, vì trong mùa hè và mùa thu họ đã diễn tập dọn tuyết nhiều lần vào những ngày cuối tuần, như những người lính, trên đường băng và các đường lăn. Những người đứng bên ngoài đôi khi tức cười khi xem các nhóm công nhân cào tuyết, máy ủi, máy thổi tuyết gầm rú, vào một ngày nắng nóng. Nhưng nếu có ai ngạc nhiên trước mức độ chuẩn bị công phu như thế, Mel Bakersfeld sẽ nhắc nhở họ rằng việc dọn tuyết khỏi khu vực hoạt động của sân bay tương đương bằng bảy trăm dặm đường cao tốc.
Cũng giống như phòng chỉ huy chống tuyết trên tháp KSKL, Trung tâm chống tuyết chỉ hoạt động theo chức năng của nó vào mùa đông. Đó là một gian phòng lớn, tối tăm ở bên trên một nhà để xe tải của sân bay, khi sử dụng, được lãnh đạo bởi một người điều vận phụ trách công tác vận chuyển trong sân bay. Căn cứ từ giọng nói trong radio hiện nay, Mel đoán rằng người ta đã thay người điều vận khác, có lẽ người kia đã về ngủ trong “Phòng Xanh”, như mọi người trong sân bay gọi đùa phòng nghỉ của công nhân.
Tiếng người đội trưởng của Trung tâm chống tuyết vang lên lần nữa trong radio: “Chúng tôi cũng đang lo về chiếc xe đó, Danny. Thằng con hoang khốn khổ đó chắc chết cóng ngoài đó rồi. Mặc dù nếu hắn ta có tháo vát chút nào đi nữa, hắn ta không phải chết đói”.
Chiếc xe tiếp phẩm của UAL đã rời nhà bếp của hãng hàng không để đến nhà ga chính cách đây gần hai giờ. Hành trình của nó chạy theo đường vành đai, thông thường chỉ mất mười lăm phút. Nhưng chiếc xe tiếp phẩm đã không đến nơi, và rõ ràng lái xe đã lạc đường và bị kẹt tuyết trong khu hoang vu nào đó của sân bay. Hãng United đã gửi đi một đội tìm kiếm, mà chưa có kết quả. Bây giờ những người quản lý sân bay phải đích thân lo việc này.
Mel hỏi: “Rốt cuộc chuyến bay United cất cánh rồi sao? Bay mà không có thực phẩm à?”
Danny Farrow trả lời mà không cần nhìn lên. ”Tôi nghe thấy cơ trưởng nhường cho hành khách quyết định. Ông ta nói với họ rằng phải mất thêm một giờ nữa mới có một chiếc xe tiếp phẩm khác, rằng họ đã có phim và rượu trên máy bay, và mặt trời vẫn chiếu sáng tại California. Mọi người đã biểu quyết để rời khỏi địa ngục này. Nếu là tôi, tôi cũng sẽ làm như vậy”.
Mel gật đầu, chống lại sự cám dỗ để tiếp nhận và đích thân tìm kiếm chiếc xe tải mất tích và người lái xe. Hành động là một liệu pháp. Cái lạnh và sự ẩm ướt nhiều ngày, đã làm nhói đau vết thương cũ thời chiến tranh của Mel một lần nữa - ký ức chiến tranh Triều Tiên không bao giờ rời ông - và ông có thể cảm thấy nó ngay bây giờ. Ông chuyển, nghiêng, tì trọng lượng của mình sang chân lành. Nhưng chỉ được một lát. Hầu như cùng một lúc, ở vị trí mới, cơn đau trở lại.
Ông vui mừng, một lúc sau đó, rằng ông đã không can thiệp. Danny hầu như đã làm đúng - tăng cường tìm kiếm chiếc xe, kéo các xe dọn tuyết và công nhân từ khu vực nhà ga, chuyển ra các đường vành đai. Trong thời gian này, các bãi đỗ xe sẽ phải để lại, và sau đó sẽ có rất nhiều lời phàn nàn về điều đó. Nhưng người lái xe mất tích phải được cứu giúp ưu tiên.
Giữa các cuộc gọi, Danny cảnh báo Mel, “Ông phải tự chống chọi với nhiều khiếu nại hơn nữa đấy. Việc tìm kiếm này phải chặn đường vành đai. Chúng tôi phải giữ lại tất cả xe tiếp phẩm khác cho đến khi chúng ta tìm thấy anh chàng kia”.
Mel gật đầu. Các lời khiếu nại là một phần công việc mà người quản lý sân bay không sao tránh khỏi. Trong trường hợp này, như Danny đoán, sẽ có một cơn lũ các lời phản đối khi các hãng hàng không khác nhận ra xe tiếp phẩm của họ đã bị giữ lại, bất kể vì lý do gì.
Có một số người nhất định không chịu tin rằng người ta có thể chết vì ở ngoài trời tại một trung tâm của nền văn minh như sân bay, nhưng chuyện đó hoàn toàn có thể xảy ra. Các khu xa tít của sân bay không phải là nơi để đi lang thang vào một đêm như thế này. Và nếu người lái xe quyết định ở lại trong chiếc xe của mình và giữ được động cơ chạy ấm áp, nó có thể nhanh chóng bị tuyết bao phủ, với khí carbon monoxide chết người tích lũy bên dưới.
Một tay Danny giữ ống nghe điện thoại màu đỏ, tay kia giở quyển hướng dẫn xử lý những trường hợp khẩn cấp, do chính Mel thảo ra cặn kẽ, tỉ mỉ cho những dịp như thế này.
Chiếc điện thoại màu đỏ dùng để liên lạc với đội trưởng đội cứu hỏa sân bay. Danny đang tóm tắt cho anh ta biết tình hình hiện nay.
“Khi chúng tôi xác định được vị trí chiếc xe, hãy đưa một xe cứu thương ra đó nhé, có lẽ anh cần mang theo máy hô hấp hoặc máy sưởi, có thể là cả hai. Nhưng tốt nhất đừng đi vội cho đến khi chúng tôi biết nơi chính xác. Chúng tôi cũng không muốn lại đi bới mấy người của anh đâu”.
Những giọt mồ hôi ngày càng nhiều trên đầu hói của Danny. Mel hiểu rằng Danny không thích phải làm việc tại phòng này mà hạnh phúc hơn trong bộ phận riêng của mình về quy hoạch sân bay, chọn lọc các cơ sở phục vụ hậu cần và các giả thuyết về tương lai của ngành hàng không. Những việc như vậy được dự kiến thoải mái, có thời gian để suy nghĩ, không vội vã, ngay lập tức giống như đêm nay. Cũng như có những người sống vì quá khứ, Mel nghĩ, nhưng cũng có những người như Danny Farrows, sống vì tương lai. Nhưng dù có vui vẻ hay không, dù mồ hôi ra như tắm, Danny vẫn làm tròn nhiệm vụ.
Với qua vai của Danny, Mel cầm lấy chiếc điện thoại trực tiếp tới Tháp KSKL. Người chỉ huy đài trả lời ông.
“Chiếc 707 Aéreo-Mexican thế nào rồi?”
“Vẫn thế, ông Bakersfeld. Họ đã cố gắng di chuyển nó vài giờ qua. Nhưng chẳng có chút may mắn gì”.
Chuyện xảy ra khi trời vừa tối, khi cơ trưởng chiếc Aéreo-Mexican, trên đường lăn đi ra để cất cánh, nhầm lẫn rẽ qua bên phải thay vì bên trái của dãy đèn màu xanh dọc đường lăn. Thật không may, mặt đất phía bên phải, thay vì thông thường được phủ cỏ, lại có một rãnh thoát nước, người ta định sẽ lấp đi khi hết mùa đông. Do đó, mặc dù tuyết rơi nhiều, vẫn còn có một khối bùn bên dưới bề mặt. Trong vòng vài giây đi sai đường, chiếc máy bay một trăm hai mươi tấn bị lún sâu trong bùn.
Khi hiểu ra chiếc máy bay có tải nặng không thể nào tự thoát ra bằng sức mạnh của mình, người ta bèn quyết định đưa các hành khách đang càu nhàu tức giận ra khỏi máy bay, đưa họ lội qua bùn và tuyết đến những chiếc xe buýt được điều ngay tới đó. Bây giờ, hơn hai giờ sau đó, chiếc máy bay phản lực khổng lồ vẫn không nhúc nhích được, thân và đuôi của nó nằm chắn cả đường băng 3-0.
“Nghĩa là đường băng và đường lăn vẫn chưa sử dụng được?”, Mel hỏi.
“Khẳng định”, người chỉ huy đài báo cáo. ”Chúng tôi giữ tất cả các máy bay đang đỗ ở các cửa ra lại, sau đó cho chúng chuyển đến các đường băng khác”.
“Có chậm quá không?”
“Làm chậm chúng tôi năm mươi phần trăm. Ngay bây giờ chúng tôi đang giữ mười chuyến bay chờ trống đường lăn, một tá chuyến bay khác đang chờ khởi động”.
Đó là một bằng chứng hiển nhiên, Mel phản ánh, về việc sân bay cần khẩn trương xây dựng thêm đường băng và các đường lăn. Trong ba năm qua ông đã cố thuyết phục để xây dựng một đường băng mới song song với đường 3-0, cũng như cải tiến các hoạt động khác. Nhưng Hội đồng quản trị sân bay, dưới áp lực chính trị từ trung tâm thành phố, từ chối phê duyệt. Áp lực là vì chính quyền thành phố, vì lý do riêng của họ, không muốn phát hành thêm trái phiếu mới, là nguồn tài chính cần thiết.
“Mặt khác”, người chỉ huy đài nói, “Vì đường 3-0 không sử dụng được, chúng tôi đang phải cho cất cánh trên Meadowood. Người ta đã bắt đầu phản đối rồi đấy”.
Mel rên rỉ. Thị trấn Meadowood, nằm tiếp giáp phía tây nam của sân bay, là một cái gai trong mắt ông và là một trở ngại cho hoạt động của các chuyến bay. Mặc dù sân bay này được xây dựng trước thị trấn rất lâu, cư dân của Meadowood liên tục và than phiền gay gắt về tiếng ồn từ máy bay trên không. Báo chí cũng hùa theo. Nó thu hút các khiếu nại, tố cáo ngày càng gay gắt hơn đối với sân bay và Ban giám đốc. Cuối cùng, sau các cuộc đàm phán dài liên quan đến chính trị, sau sự rùm beng của báo chí và - theo ý kiến của Mel Bakerfeld - sau những trò gian lận, sân bay và Cục Hàng không Liên bang đã thừa nhận rằng máy bay phản lực cất cánh và hạ cánh trực tiếp trên Meadowood sẽ chỉ được thực hiện khi cần thiết trong trường hợp đặc biệt. Kể từ khi bị hạn chế về đường băng, hiệu quả của sân bay này bị giảm sút đáng kể.
Hơn nữa, người ta cũng đồng ý rằng máy bay cất cánh về phía Meadowood - gần như cùng một lúc sau khi cất cánh vào không trung - sẽ phải áp dụng biện pháp giảm bớt tiếng ồn. Bây giờ, đến lượt đẻ ra sự phản đối từ các phi công, cho rằng biện pháp giảm bớt tiếng ồn là nguy hiểm. Tuy nhiên, các hãng hàng không - vì không muốn công chúng thêm phẫn nộ và vì hình ảnh doanh nghiệp của họ - đã ra lệnh cho các phi công phải chấp hành.
Tuy nhiên, ngay cả điều này vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của cư dân Meadowood. Các thủ lĩnh hiếu chiến của họ vẫn còn tổ chức phản đối, và - theo tin đồn mới nhất - lập kế hoạch quấy rối pháp lý của sân bay.
“Có nhiều cuộc gọi về việc này không”, Mel hỏi người chỉ huy đài. Ngay trước khi nghe câu trả lời, ông rầu rĩ nghĩ rằng những ngày đáng lẽ được làm việc thì ông lại mất vào việc xem xét các đơn khiếu nại, các cuộc thảo luận mà chẳng thay đổi được gì.
“Chúng tôi đã trả lời ít nhất là năm mươi cuộc gọi, và còn nhiều cuộc gọi khác mà chúng tôi không trả lời được. Chuông điện thoại bắt đầu réo ngay sau mỗi lần cất cánh - cả trên các số máy không có trong danh bạ điện thoại. Tôi sẵn sàng trả nhiều tiền để tìm hiểu xem làm thế nào họ biết được những số máy này”.
“Tôi hy vọng rằng ông đã trả lời những người gọi đến rằng chúng ta có một tình huống đặc biệt - cơn bão, một đường băng không sử dụng được”.
“Chúng tôi đã giải thích. Nhưng không ai quan tâm. Họ chỉ muốn các máy bay không bay qua đầu họ. Một số người nói rằng dù có vấn để gì, phi công vẫn có nghĩa vụ phải áp dụng biện pháp giảm bớt tiếng ồn, mà đêm nay họ không làm như vậy”.
“Chúa lòng lành! Nếu tôi là phi công tôi cũng sẽ không làm như vậy”. Lẽ nào một người có hiểu biết, Mel tự hỏi, lại có thể đòi hỏi phi công phải giảm động cơ ngay sau khi vừa cất cánh trong thời tiết tồi tệ như tối nay và sau đó lượn qua hướng khác theo tài liệu hướng dẫn - là những gì được gọi là biện pháp giảm bớt tiếng ồn.
“Tôi cũng sẽ không làm như vậy”, người chỉ huy đài nói. “Mặc dù tôi nghĩ nó tùy thuộc vào quan điểm của ai. Nếu tôi sống ở Meadowood, có lẽ tôi sẽ thấy cách họ làm là đúng”.
“Ông không sống ở Meadowood. Ông phải nghe những lời cảnh báo chúng tôi đã nói với người dân nhiều năm trước là không nên xây dựng nhà ở đó”.
“Tôi cũng nghĩ vậy. Dù sao đi nữa, một nhân viên của tôi nói sẽ có một cuộc họp cộng đồng ở đó đêm nay”.
“Trong thời tiết này à?”
“Có vẻ họ vẫn tổ chức cuộc họp, và nghe nói họ đang bày ra một âm mưu gì đó nữa”.
“Điều gì cũng được”, Mel dự đoán, “Chúng ta sẽ biết sớm thôi”.
Chỉ cần như vậy, ông nghĩ, cuộc họp cộng đồng tại Meadowood là một dịp để cung cấp vũ khí tươi rói rất thuận tiện. Hầu như chắc chắn báo chí và các chính trị gia địa phương sẽ có mặt, và các chuyến bay trực tiếp trên đầu, tuy rất cần thiết tại thời điểm này, sẽ cung cấp cho họ rất nhiều điều để viết và nói. Vì vậy, đường băng 3-0 được giải phóng càng sớm chừng nào càng tốt cho cả hai bên. Ông nói với người chỉ huy Tháp KSKL “Lát nữa tôi sẽ đích thân ra ngoài sân bay xem đang xảy ra chuyện gì. Tôi sẽ báo cho ông biết tình hình tại chỗ”.
“Rõ rồi”.
Thay đổi chủ đề, Mel hỏi, “Chú em của tôi có trực đêm nay không?”
“Có đấy. Keith trên radar theo dõi từ hướng tây đến”.
Hướng tây đến, Mel biết, là một trong những vị trí khó khăn, căng thẳng trong đài KSKL. Nó giám sát tất cả các chuyến bay đến ở góc tọa độ phía tây. Mel do dự một chút, sau đó ông nhớ ông đã hiểu người chỉ huy đài từ lâu lắm. “Keith có ổn không? Có căng thẳng quá không?”
Có một chút ngập ngừng trước câu trả lời. “Có, tôi muốn nói là nhiều hơn bình thường”.
Họ đều hiểu rõ rằng em trai của Mel gần đây gây lo lắng cho cả hai người.
“Thành thật mà nói”, người chỉ huy đài nói, “Ứớc gì tôi có thể giao cho anh ta việc dễ dàng hơn. Nhưng tôi không thể. Chúng tôi ít người quá và tất cả mọi người như ngồi trên lửa vậy”. Và ông nói thêm, “Kể cả tôi”.
“Tôi biết, và tôi đánh giá cao cách ông lo lắng cho Keith như thế”.
“Vâng, trong công việc này hầu hết chúng ta đều mệt mỏi vì chiến đấu, không lúc này thì lúc khác”. Mel có thể thấy ông cân nhắc từng từ một cách cẩn thận. “Đôi khi nó hiện lên trong đầu, khi khác trong lòng. Dù cách nào đi nữa, khi điều đó xảy ra, chúng tôi đều cố gắng giúp đỡ nhau”.
“Cảm ơn”. Cuộc đối thoại đã không xoa dịu đi sự lo lắng của Mel. “Có lẽ lát nữa tôi sẽ ghé thăm”.
“Vâng, thưa ngài”. Người chỉ huy Tháp KSKL gác điện thoại.
Từ “ngài” được dùng một cách lịch sự. Mel không có thẩm quyền trên Tháp KSKL, mà thuộc về Cục Hàng không liên bang có trụ sở chính tại Washington. Nhưng mối quan hệ giữa các nhân viên KSKL và lãnh đạo sân bay rất tốt, và Mel thấy họ cố gắng giữ mối quan hệ đó.
Sân bay, bất kỳ sân bay nào, là một cơ cấu chồng chéo phức tạp kỳ lạ. Không người nào có thể chịu trách nhiệm hết toàn bộ công việc, cũng không bộ phận nào có thể hoạt động hoàn toàn độc lập được. Là Tổng Giám đốc sân bay, Mel gần như được giao hết tất cả trách nhiệm và quyền lực, nhưng ông biết có những nơi không xâm phạm đến là tốt hơn. Tháp KSKL là một nơi như thế, một bộ phận khác cũng như thế là văn phòng đại diện của các hãng hàng không. Ông có thể can thiệp, và thực sự đã can thiệp vào những vấn để ảnh hưởng đến hoạt động của sân bay nói chung hay liên quan đến việc phục vụ hành khách. Ông có thể kiên quyết yêu cầu một hãng hàng không nào đó loại bỏ một tấm biển treo ở cửa có thể gây hiểu lầm hoặc trái với những quy định của sân bay. Nhưng những gì xảy ra phía sau cánh cửa đó, đương nhiên thuộc quyền kinh doanh của hãng hàng không.
Đó là lý do tại sao lãnh đạo sân bay cần phải là chiến lược gia cũng như là nhà quản trị đa năng.
Mel đặt ống nghe xuống. Trên một đường dây khác, Danny Farrow đang tranh cãi với người phụ trách bãi đậu xe, người trong vài giờ qua phải nghe những lời khiếu nại đầy giận dữ từ các chủ xe bị kẹt tuyết. Mọi người hỏi: không có ai trong sân bay biết rằng tuyết đang rơi hay sao? Và nếu họ đã biết rồi, tại sao không có ai tìm cách dọn những đống tuyết đi để người ta có thể lái xe của mình đi bất cứ đâu bất cứ lúc nào, như là quyền dân chủ của mình?
“Bảo họ chúng ta đã tuyên bố một chế độ độc tài”. Không làm thế nào được, Danny khẳng định, sẽ phải đợi cho đến khi giảm bớt chế độ ưu tiên. Ông sẽ gửi người và thiết bị khi nào có thể được. Câu chuyện bị cắt đứt bởi một cuộc gọi từ người chỉ huy Tháp KSKL. Dự báo thời tiết mới dự đoán hướng gió sẽ thay đổi trong một giờ nữa. Có nghĩa là sẽ thay đổi các đường băng, và họ có phải vội vàng dọn tuyết trên đường băng 1-7L không? Ông ấy sẽ làm tốt nhất, Danny nói. Ông kiểm tra lại đường dây tới người phụ trách Đoàn Conga và gọi điện trả lời sau.
Đấy là loại áp lực không ngừng, đã kéo dài suốt ba ngày đêm kể từ khi bão tuyết như hiện nay bắt đầu. Thực sự là áp lực đó làm cho Mel cáu hơn khi người liên lạc mang đến một mẩu thư, mười lăm phút trước. Mẩu thư viết:
ô m -
cảnh báo cho ô - tiểu ban chống tuyết của các
hãng hàng không (do sức ép của vern demerest…
tại sao ông em rể của ông không ưa ông thế)
đang làm bản báo cáo công kích việc dọn tuyết
trên đường băng & đường lăn
là tệ hại, không hiệu quả... (v.d nói thế)
báo cáo đổ lỗi cho sân bay (có nghĩa là ô)
trách nhiệm chính của sự chậm trễ
các chuyến bay... cũng tuyên bố chiếc 707 sẽ
không bị mắc kẹt nếu đường lăn được dọn tuyết
sớm hơn, tốt hơn... vì vậy bây giờ tất cả
các hãng hàng không bị thiệt hại, v.v, v.v...
ô bị mắc lưới rồi... và ô đang ở đâu?
(trong lưới, tôi nghĩ thế)... hãy leo ra &
mua cho tôi cà phê sớm.
chào
t
Từ “t” nghĩa là Tanya - Tanya Livingston, phụ trách quan hệ khách hàng của hãng Trans America, và là một người bạn đặc biệt của Mel. Mel đọc mẫu thư một lần nữa, như ông thường đọc các tin nhắn từ Tanya, thông điệp của cô trở nên rõ ràng hơn sau khi đọc lần thứ hai. Tanya, người có trách nhiệm giải quyết các rắc rối và quan hệ công chúng, phản đối các chữ hoa. (“Mel, nếu chúng ta bỏ các chữ hoa, sẽ có ít rắc rối hơn, nó không nó có ý nghĩa gì sao? Chỉ cần nhìn vào mấy tờ báo mà xem”). Thực sự cô đã ép người thợ cơ khí của hãng Trans America đục bỏ tất cả các chữ hoa trong máy chữ của cô. Mel nghe nói có người cấp trên của cô đã làm ầm ĩ lên về điều đó, do vi phạm quy định cứng nhắc của hãng hàng không về cố ý làm thiệt hại tài sản công ty. Dù vậy, Tanya vẫn làm được điều đó, như cô vẫn thường làm.
Hai từ Vern Demerest trong bản ghi chú là cơ trưởng Vernon Demerest, cũng của hãng Trans America. Như các cơ trưởng giỏi của các hãng hàng không, Demerest là một thành viên tích cực của Hiệp hội phi công dân dụng (ALPA), và vào mùa này, là một thành viên trong Tiểu ban chống tuyết của các hãng hàng không tại Phi trường quốc tế Lincoln. Tiểu ban này kiểm tra, giám sát đường băng và đường lăn trong thời gian có tuyết và công nhận là chúng có đạt yêu cầu cho máy bay sử dụng hay không. Thành phần của Tiểu ban bao giờ cũng có một cơ trưởng đương nhiệm.
Vernon Demerest cũng là em rể của Mel, kết hôn với em gái của Mel, Sarah. Thông qua các tiền lệ và hôn nhân, từ gốc đến ngọn gia tộc Bakersfeld đều làm trong ngành hàng không, giống như xưa kia có những gia đình chỉ liên quan với nghề đi biển. Tuy nhiên, quan hệ giữa Mel và ông em rể rất lạnh nhạt, người mà Mel coi là tự phụ và kiêu ngạo. Ông biết những người khác đều có cùng một ý kiến như vậy. Gần đây, Mel và cơ trưởng Demerest đã có một cuộc cãi nhau kịch liệt tại một cuộc họp của Hội đồng quản trị sân bay, nơi Demerest đại diện cho ALPA. Mel nghi ngờ rằng bản báo cáo công kích việc dọn tuyết - rõ ràng do em rể của ông khởi xướng - là để trả đũa.
Mel không lo lắng nhiều về bản báo cáo đó. Công việc của sân bay có thể có bất cứ sai sót gì đi nữa, ông biết mọi người đã đối phó với cơn bão giống như bất kỳ cơ quan nào khác. Dù sao đi nữa, bản báo cáo là một mối phiền toái. Bản báo cáo sẽ được gửi đến tất cả các hãng hàng không, và ngày mai sẽ có các cuộc gọi điện thoại và văn bản chất vấn, và cần phải có lời giải thích.
Mel nghĩ rằng tốt hơn ông nên chuẩn bị sẵn ý kiến. Ông quyết định ông sẽ thực hiện việc kiểm tra tình hình dọn tuyết hiện tại cùng một lúc với việc kiểm tra đường băng bị chặn và chiếc máy bay Aéreo-Mexican bị sa lầy.
Tại Phòng chỉ huy chống tuyết, Danny Farrow đang nói chuyện với Trung tâm chống tuyết một lần nữa. Khi có một khoảng im lặng, Mel xen vào, “Tôi sẽ vào nhà ga, sau đó ra ngoài sân bay”.
Ông nhớ những gì Tanya đã nói trong bản ghi chú về việc uống cà phê với nhau. Ông dừng lại ở văn phòng riêng của mình trước, sau đó trên đường đi qua nhà ga, ông sẽ ghé qua cánh của hãng Trans America để gặp cô ấy. Suy nghĩ thế kích thích ông.
 Phi Trường  Phi Trường - Arthur Hailey  Phi Trường