Mắc Kẹt epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 1
eattle, Washington
Thứ Bảy, ngày 24 tháng 6 năm 2017
Kurt Schill đẩy chiếc xuồng bọc nhôm dài hơn bốn mét dọc theo những khúc củi dạt mà cậu đã xếp sẵn nhằm hạn chế tối đa việc thân tàu cọ vào đá. Cậu muốn bảo vệ món đầu tư mới đây của mình, nhưng điều cậu muốn hơn cả là tránh gặp rắc rối với những cư dân sống trong các tòa chung cư và các khu căn hộ nằm dọc lối đi hẹp dẫn vào eo biển Puget. Vào thời điểm bốn giờ ba mươi phút sáng như thế này, họ sẽ chẳng lấy gì làm thích thú khi sự yên tĩnh bị phá vỡ. Nếu họ báo với cảnh sát chuyện Schill hạ thủy chiếc xuồng từ cái nơi, xét một cách nghiêm túc, là đường đi, cậu sẽ chẳng còn gì để chối cãi. Những tấm biển báo đã quá nhiều và quá rõ ràng rồi. Schill bước xuống nước để cân bằng lại chiếc xuồng, và cậu cảm nhận được làn nước lạnh buốt chỉ tám độ của eo biển Puget qua đôi ủng cao su. Cậu xô mạnh chiếc xuồng một cái rồi nhảy lên, đầu gối đập mạnh vào thân xuồng, chiếc xuồng tròng trành cho tới khi cậu lấy lại được thăng bằng và ngồi vào vị trí ở chính giữa. Chiếc xuồng hình chữ V có cảm giác giữ được thăng bằng tốt hơn chiếc thuyền bằng sợi thủy tinh hồi trước. Chiếc thuyền ấy thường trở nên khó điều khiển mỗi khi biển động. Tuy thế cậu vẫn phải chờ cho tới khi đi xa thêm một chút nữa mới có thể khởi động cái động cơ Honda sáu mã lực và cảm nhận nó một cách chân thực nhất.
Cậu gác mái chèo gỗ lên cọc chèo rồi bắt đầu rẽ mặt nước, lướt đi trong im lặng. Xung quanh chẳng có gì khác ngoài tiếng mái chèo đập nước và tiếng lạch cạch khi mái chèo gõ vào cọc theo mỗi nhịp chèo. Chiếc xuồng bằng nhôm lướt đi giữa hai làn nước tối đen như mực. Cậu vẫn còn đang tìm hiểu về món đồ đi biển mới của mình. Cậu đã tiết kiệm tiền và mua lại nó từ một gã trên mạng craiglist với giá hai ngàn đô, bao gồm cả cái xe kéo. Cậu có chừng hơn một ngàn năm trăm đô, và cha cậu đã giúp cậu phần còn lại, mặc dù cậu vẫn sẽ phải trả lại khoản tiền đó. Cậu tính toán rằng cậu sẽ để dành được khoản tiền đó nếu cắt đi khoản phí hạ thủy xuồng ở bến tàu và kéo được nhiều cua hơn. Hiệp hội Đánh bắt cá giới hạn mỗi người chỉ được bắt năm con cua Dungeness, nhưng Schill chẳng có ý định thả trở về biển những con cua mà mình bắt được, nhất là khi các nhà hàng chấp nhận mua chui số cua đó cho cậu.
Cậu chèo xuồng hướng về phía đảo Blake, một mô đất màu đen nhô lên trên mặt nước. Nhìn nó có vẻ bé đi bởi sự hiện diện mờ mờ ảo ảo của những hòn đảo lớn hơn rất nhiều đằng sau nó, đảo Bremerton và đảo Vashon. Ở phía bắc, những ánh đèn trên con phà đang di chuyển chầm chậm hướng về Seattle ở phía đông đảo Bremerton khiến nó trông giống như một con bọ nước đang phát sáng. Dưới bộ quần áo bảo hộ và chiếc áo phao, mồ hôi đang chảy xuống ngực và lưng cậu, và Schill thầm cảm ơn cơn gió nhẹ mát lạnh đang thổi ngang qua cổ cậu.
Đi cách bờ chừng vài trăm dặm, cậu gác mái chèo rồi di chuyển về phía cuối xuồng. Cậu móc thiết bị điều khiển từ xa vào áo phao, bóp quả bóng trên dây dẫn nhiên liệu ba lần để bơm xăng vào động cơ, chỉnh lại van xăng và kéo dây nổ máy. Động cơ kêu lên khục khục rồi tắt ngúm. Cậu phải chỉnh lại cho các chi tiết phụ tùng về đúng vị trí và kéo lại lần nữa. Động cơ nổ bình bịch và cuối cùng cũng đã chạy.
Theo luật, chỉ có những bộ tộc người Mỹ bản địa mới được đánh bắt cua ngay đầu mùa như thế này, và nếu bị bắt quả tang, phí nộp phạt sẽ cao không tưởng, nhưng cuối mùa vụ trước, Schill đã tìm được cả một hang ổ rất nhiều cua, và cậu nóng lòng muốn kiểm tra xem liệu cái hang ổ đó có còn sản sinh ra nhiều cua như thế không. Để tránh bị phát hiện, cậu thả lồng sau khi mặt trời đã lặn và đi kéo lồng khi mặt trời còn chưa lên. Dù vậy, việc làm này vẫn rất mạo hiểm. Chạy xuồng mà không có đèn đồng nghĩa với việc nguy cơ cậu bị thuyền khác đâm phải hoặc lao vào những khúc củi trôi nổi trên mặt nước sẽ cao hơn. Bất cứ trường hợp nào cũng khiến cậu gặp rắc rối lớn, cực lớn.
Schill đánh hết lái sang phải và mũi tàu lắc mạnh.
Rất nhanh chóng, chiếc xuồng rẽ nước lao đi, để lại một đường hình chữ V trên mặt nước. Tuyệt hảo!.
Gần tới nơi, cậu đi chậm lại, tìm kiếm cái cây bị tách làm đôi ở ven bờ mà cậu đã dùng làm cột mốc. Nhìn thấy nó, cậu cho chiếc xuồng dừng lại và bắt đầu nhìn mặt nước một lượt để tìm hình bóng của một vật có hình chóp nón, cái phao màu trắng và đỏ mà cậu đã thả xuống. Cậu cảm thấy lo lắng khi không thấy nó, người của các bộ tộc bản địa sẽ thu giữ tất cả những dụng cụ vi phạm quyền đánh bắt của họ.
Cậu nhấc chiếc đèn pin ở chỗ ngồi lên và soi kĩ khắp mặt nước. Tới lần thứ ba, cậu nhìn thấy cái phao đang nhấp nhô theo ngọn sóng. Cậu thở phào nhẹ nhõm, đưa xuồng đi về hướng đó, tóm lấy cái móc và kéo đoạn dây chùng lên cho tới khi cảm nhận được sức nặng của lồng cua. Cậu móc đoạn dây thừng lên bánh kéo ở phía cuối của trục neo - một ưu điểm nữa mà con thuyền nhỏ bằng sợi thủy tinh của cậu không có và tiếp tục kéo, để đống dây cuộn lại dưới chân.
“Đến lúc bắt cua rồi đây.” Cậu nói.
Dần dần cậu đã có thể dự đoán chính xác khối lượng cua đánh bắt được dựa vào mức độ nặng nhẹ của chiếc lồng. Nhưng không phải lúc nào cũng đúng. Đã có lần cậu kéo lên được những cái lồng rất nặng nhưng bên trong chỉ toàn là sao biển, cá bon và cá rô biển. Trong số tất cả những lần đi đánh cua của cậu, lần này lồng cua có vẻ nặng nhất, chẳng mấy chốc hai vai cậu đã nóng rực, cậu phải buộc dây lại để cánh tay được nghỉ ngơi một chút.
“Chết tiệt!” Cậu thốt lên, trong bụng sôi lên một nỗi mong ngóng như thường lệ.
Cậu chống đế giày cao su vào mạn xuồng, cởi dây thừng và lập tức cảm nhận được sức nặng của lồng cua. Chiếc xuồng nghiêng sang một bên, mạn phải của chiếc xuồng và cả cần trục neo nghiêng hẳn xuống mặt nước. Schill ước tính cậu đã kéo được mười tám mét dây, và vẫn còn phải kéo chừng sáu mét dây nữa. Nhưng có vẻ có điều gì đó không ổn, đoạn dây thừng không vuông góc với mặt nước mà nghiêng đi một góc chừng bốn mươi lăm độ, điều này thường là dấu hiệu cho thấy có một chướng ngại vật nào đó.
Bất luận nó là cái gì, nó cũng sẽ được kéo lên trước, còn cái lồng của cậu thì đang ở đâu đó phía dưới. Điều này khiến cậu lo lắng. Nếu cậu kéo lên một mớ rong biển cực lớn hoặc một cái mỏ neo tàu bị rơi, cậu sẽ phải thả chúng đi bằng cách cắt dây và để mất luôn lồng cua. Tạm biệt nhé, lợi nhuận của cậu!
Cậu tiếp tục kéo, tất cả cơ bắp ở chân, cánh tay và vai của cậu đều đang nóng rực. Mồ hôi từ trên trán chảy vào mắt cậu, khiến cậu phải lắc đầu để rũ nó đi. Cuối cùng, lồng cua cũng trồi lên khỏi mặt nước. Mặc dù rất khó để nhìn ra nhưng đó là một cái lồng hình chữ nhật. Trong khi đó, lồng của cậu có hình ngũ giác. Có lẽ cậu đã mắc phải dây của một cái lồng thả sát bên cạnh hoặc cũng có thể cậu đã vớt phải một cái lồng bị bỏ đi.
Cậu buộc dây thừng lại và cẩn thận trượt dọc theo băng ghế ngồi. Trục neo hạ thấp xuống mười lăm centimet nữa. Cậu cẩn thận dò dẫm tới chỗ sợi dây thừng với nỗi sợ hãi rằng có thể cậu sẽ khiến chiếc xuồng bị lật. Cậu tóm lấy sợi dây, kéo cái lồng lại gần hơn để chạm được vào khung lồng, và giữ nó thật chặt. Cậu nhặt đèn pin lên bằng tay còn lại và hướng thẳng luồng sáng vào bên trong lồng.
Cái lồng có vẻ đầy, nhưng là cái gì thế kia?
Cậu nhìn thấy rong biển, sao biển và một vài con cua đang nhốn nháo chạy quanh tìm ăn.
Và rồi cậu nhìn thấy một bàn tay.
Mắc Kẹt Mắc Kẹt - Robert Dugoni Mắc Kẹt