Chương 1
gười lính, ba lô trĩu vai, cắm cúi đi trong đêm. Một mình.
Anh đi, suy nghĩ miên man. Những ý nghĩ rối rắm, mung lung, chẳng cái gì ăn nhập với cái gì. Mỗi khi dòng chảy của chúng đột nhiên đứt quãng, khi đầu anh hoàn toàn trống rỗng, anh nghe rõ hơi thở của phì phò nóng hổi nơi môi trên, và, như tiếng bước chân của người khác, tiếng dép của anh đều đều đạp trên mặt đường – soạt, soạt… soạt, soạt…
Cứ thế, không ngừng.
Con đường đá răm luồn lách trong những vạt rừng già, ẩm ướt và tăm tối ngay giữa ban ngày. Nó uốn khúc vắt qua những đồi những núi nhấp nhô và rừng nguyên sinh rậm rạp. Ban đêm, trong những khu rừng ấy sương mù đặc và nặng bốc lên hạ xuống làm thành một thứ mưa không ra mưa. Thỉnh thoảng những giọt vừa kịp đọng của thứ mưa sương ấy lại từ tán lá âm thầm rơi xuống thảm cỏ ướt sũng lá mục.
Anh lính thầm trách mình khờ. Lẽ ra, như người ta, trước khi chiều xuống anh phải tìm một đơn vị bộ đội nào đó, hoặc một trạm thu dung nào đó, để tá túc một đêm. Thời kháng chiến, ở đâu chả tìm được nơi có bộ đội. Người ta sẽ xếp cho anh một chỗ ngủ, và chưa chừng sẽ có một bữa ngon lành sáng hôm sau. Nhưng anh lại cứ nhất quyết đi cơ, mặc những lời gàn quẩy của những người ở trạm giao liên cuối cùng anh vừa rời bỏ.
Chao ôi, chỉ tại anh khoái trá với một ý nghĩ chợt đến – một chuyến đi vào ba mươi Tết, đi xuyên khoảng thời gian mang mốc phân cách, đi từ năm này sang năm khác. Như một thách thức lãng mạn, như một cử chỉ bướng bỉnh. Xét cho cùng, nó là một hành động dở hơi, chẳng có ích gì, kể cả cho chính anh.
Giá phải trả là giờ đây anh sẽ cứ phải đi mãi thế này, suốt đêm, không nghỉ, không ngủ. Cứ thế đi. Anh đã trót đi mất rồi. Thế là sẽ chẳng có một chỗ để ngả lưng, dù chỉ vài giờ, trong đêm lạnh.
Anh bắt đầu ân hận với quyết định gàn dở của mình từ khi bắt gặp cái tĩnh mịch đặc biệt của con đường dằng dặc, khi ánh mặt trời vàng ệch cuối cùng tắt hẳn trên đỉnh núi cao nhất.
Vào lúc này mới đi tìm một chỗ trú chân thì đã quá muộn. Dọc đường anh chỉ gặp, rất thưa thớt, những hàng quán cửa đóng then cài im ỉm hoặc trống huếch trống hoác.
Người lính đã mỏi chân lắm khi leo lên tới đỉnh một con dốc. Trong vòng chục cây số anh vừa đi qua không có lấy một ngôi nhà. Đang thất thểu lê từng bước đổ dốc, anh bỗng thấy trước mặt, trong sương mù trắng đục, một ánh lửa thấp thoáng. Sương mù mỗi lúc một dày đặc, thành thử ánh lửa cứ chập chờn, le lói, khi xa khi gần. Có thể nó ở ngay chân dốc, mà cũng có thể rất xa.
Thôi được, mình sẽ tới đó, sẽ lẳng lặng ngồi xuống hè ngôi nhà nọ, ở đầu hồi, ở chái, ở chỗ nào cũng được, có điều mình phải thật nhẹ nhàng, không làm kinh động chủ nhà, anh tự nhủ. Có nhà là có hơi ấm, là tốt rồi – mình có thể dựa vào vách mà chợp mắt một lúc, chỉ một lúc thôi.
Đêm trừ tịch, chẳng ai muốn đón ai vào nhà mình, người lính biết điều đó lắm. Người trong nhà cũng chẳng tưởng tượng trong đêm cuối cùng của một năm lại có kẻ điên khùng lang thang trên đường, như anh.
Anh là người lính. Là người xông nhà không ai chờ đợi – phúc không, lộc không, thọ cũng không nốt – ai có thể nói chắc điều gì sẽ đến với kẻ ngày mai ra trận?
Đôi Mắt Màu Đêm Đôi Mắt Màu Đêm - Vũ Thư Hiên