Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Chiến Quốc Sách
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Vài Lời Thưa Trước
Đ
ọc danh mục sách của cụ Nguyễn Hiến Lê, chúng ta thấy có khá nhiều tác phẩm cụ viết chung với cụ Giản Chi. Riêng hai bộ Chiến Quốc sách và Sử kí của Tư Mã Thiên, cụ Nguyễn Hiến Lê cho biết:
“Chiến Quốc sách đã được các nhà Nho trong Nam Phong trích dịch vài chục bài; Sử ký được Nhượng Tống dịch dăm chương. Ông Giản Chi và tôi tính làm kỹ hơn, phân công nhau: tôi giới thiệu bộ Chiến Quốc sách và trích dịch, chú thích hết các bài hay; ông Giản Chi tuyển dịch độ một phần tư bộ Sử ký và chú thích rất kỹ; tôi giới thiệu tác giả cùng tác phẩm. Người này làm xong, đưa người kia coi lại.
Chúng tôi sưu tập tất cả các sách Hoa và Anh, Pháp viết về hai tác phẩm đó, để giúp độc giả hiểu thời đại, nguồn gốc, nội dung, giá trị về sử liệu, giá trị về phương diện văn học (điều mà các nhà khác không chú trọng tới mấy) của mỗi tác phẩm.
Riêng về Chiến Quốc sách, chúng tôi còn dùng tài liệu trong tác phẩm để vẽ lại xã hội Trung Hoa thời Chiến Quốc. Trong bộ Sử ký, chúng tôi nhấn mạnh vào cuộc đời oan khổ của Tư Mã Thiên, nó ảnh hưởng tới tư tưởng và phương pháp viết sử của ông ra sao.
Bộ Chiến Quốc sách có phụ lục: Niên biểu thời Chiến Quốc, Nhân danh và Địa danh. Bộ Sử ký có hai bản đồ: Trung Hoa thời Chiến Quốc và Trung Hoa thời Hán.
Bị hạn chế về phương tiện in, chúng tôi không thể dịch trọn hai tác phẩm bất hủ đó được, nhưng đọc hai bản dịch của chúng tôi – 700 và 800 trang – độc giả cũng có một số tri thức tạm đủ và rõ rệt rồi, và chúng tôi mong rằng vài ba chục năm nữa sẽ có người dịch trọn bộ Sử ký. Ai cũng nhận hai bộ đó của chúng tôi có giá trị”.
Theo Wikipedia thì “Chiến Quốc sách là cuốn cổ sử Trung Quốc viết về lịch sử thời Chiến Quốc, từ năm 490 TCN đến năm 221 TCN, lúc Cao Tiệm Ly không thành công ám sát Tần Thuỷ Hoàng”; nhưng theo hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê bảo: “(…) bộ Chiến Quốc sách – thực ra chưa đáng gọi là sử – chép việc của mười một nước: Chu, Tần, Tề, Sở, Triệu, Ngụy, Hàn, Yên, Tống, Vệ, Trung Sơn từ năm 453 (đời Đông Chu Định Vương) tới năm 221 trước Tây lịch (tức năm 16 đời Tần Thuỷ Hoàng, năm mà Tần diệt xong lục quốc và thống nhất Trung Hoa)” (trang 15). Hai cụ còn cho biết thêm: “(…) xét về nội dung Chiến Quốc Sách thì phần lớn không phải là tài liệu đáng tin về sử, mà có lẽ chỉ là những luận thuyết, biện thuyết dựa vào lịch sử mà viết” (trang 18); và “chúng ta đừng nên coi Chiến Quốc Sách là tác phẩm của Sử-phái đời Tiên Tần mà nên coi nó là tác phẩm của Luận-phái đời Tiên Tần hoặc đời Tây Hán; mà đọc Chiến Quốc sách thì chúng ta đừng nên tìm tài liệu lịch sử trong đó, chỉ nên tìm hiểu xã hội Trung Hoa, tư tưởng và chính sách của bọn chính khách, mưu sĩ thời Chiến Quốc, nhất là thưởng thức giá trị nghệ thuật tự sự, luận thuyết, tức giá trị về văn học của bộ đó thôi” (trang 26).
Cũng theo Wikipedia thì “Sách này (tức Chiến Quốc sách «戰國策») có khoảng 120.000 chữ và chia thành 33 chương và 497 tiết đoạn, gồm có 12 sách lược như sau: Đông Chu sách («東周策»), Tây Chu sách («西周策»), Tần sách («秦策»), Tề sách («齐策»), Sở sách («楚策»), Triệu sách («趙策»), Ngụy sách («魏策»), Hàn sách («韓策»), Yên sách («燕策»), Tống sách («宋策»), Vệ sách («衛策»), Trung Sơn sách («中山策»)”. Và theo hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê thì Lưu Hướng là người thu thập và chỉnh lý bộ Chiến Quốc sách. Hai cụ bảo: “…ngày nay, còn lưu lại bài Tựa Chiến Quốc sách của ông, trong đó đại ý nói rằng khi thu thập các tài liệu, ông tìm được nhiều quyển sắp đặt lộn xộn, lại thấy tám thiên chép riêng về các nước, nhưng không đủ, ông bèn theo từng nước và theo thứ tự thời gian mà sắp đặt lại thành ba mươi ba thiên, hiệu đính lại nhiều chữ sai lầm”.
Vì Lưu Hướng không sắp đặt tất cả các bài trong trọn bộ Chiến Quốc sách theo thứ tự thời gian, cho nên đọc những bài do hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê tuyển dịch, ta thấy bài Trí Bá quá tham mà bị diệt (Triệu I 1), có thể xem như bài đầu tiên chép việc xảy ra đầu thời Chiến Quốc lại không phải là bài đầu tiên trong Chu sách, và bài chép việc xảy ra cuối thời Chiến Quốc là bài Thái tử Đan và Kinh Kha (Yên III 5), cũng không phải là bài cuối cùng trong Trung Sơn sách. Cũng vì các bài trong Chiến Quốc sách được chia ra thành nhiều “sách”, cho nên ta thấy các bài liên quan đến việc Tần đánh Nghi Dương nằm trong Đông Chu sách (bài 2), và trong Tần sách (bài II 6, bài II 7, bài II 8, bài II 9, bài II 10). Người chỉ huy trận đánh đó là Cam Mậu, mà muốn tìm hiểu về nhân vật này, ngoài các bài vừa nêu, chúng ta cần đọc thêm 3 bài trong Tần sách: bài II 11, bài II 12, bài II 13, và cả trong Sở sách nữa như bài I1 5… Các bài viết Tô Tần, được xem là nhân vật chính trong Chiến Quốc sách, còn nhiều hơn nữa và nằm rải rác trong nhiều “sách” hơn nữa: Tần sách, Tề sách, Sở sách, Triệu sách, Ngụy sách, Yên sách, Tống sách. Mà ngay trong một thiên, ví dụ như thiên Tần II, chúng ta thấy có hai bài viết về nhân vật Cam Mậu vừa kể trên cũng không theo đúng thứ tự thời gian: bài Tần II 12 (Tô Đại giúp Cam Mậu) chép việc xảy ra vào đời Tần Chiêu Tương Vương, và bài Tần II13 (Vua Tần đuổi Công Tôn Diễn) chép việc xảy ra vào đời Tần Vũ Vương, mà Tần Chiêu Tương Vương (307 tr.T.L. -250 tr.T.L.) là người kế vị Tần Vũ Vương (311 tr.T.L. – 307 tr.T.L.), cho nên theo chúng tôi thì bài Tần II12 phải đặt sau bài Tần II 13 mới phải.
Trong phần dịch, hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê bảo là chỉ “lựa khoảng nửa số bài trong Chiến Quốc sách”, và: “Tất nhiên chúng tôi dịch hết những bài có giá trị về nghệ thuật, chúng tôi lại dịch thêm những bài để dẫn chứng cho phần I (phần giới thiệu), và một số bài khác có tính cách vui vui nữa”. Trong những bài đó ắt hẳn có vài chục bài, như lời hai cụ, đáng coi là những viên ngọc quý nhất của cổ văn Trung Quốc, đến Sử ký và Nam Hoa kinh cũng không hơn được (trang 64). Hai cụ không nêu tên những “viên ngọc quý đó”, nhưng về phương diện văn học, hai cụ bảo hai bài Tư Mã Thác bàn lẽ đánh Tần (Tần I 7) và Nhạc Nghị đáp Yên Chiêu Vương (Yên II 10) được mọi học giả Trung Hoa khen là hay; các bài Truyện Tô Tần (Tần I 2), Thái tử Đan và Kinh Kha (Yên III 5), Đường Thư không nhục sứ mệnh (Ngụy IV25), Phùng Uyên làm thực khách nhà Mạnh Thường Quân (Tề IV 1), Nhan Xúc thuyết Tề Tuyên Vương (Tề IV 5), Dự Nhượng (Triệu I 4), Nhiếp Chính (Hàn II 19)… đạt tới mức cao về nghệ thuật kể truyện và miêu tả tính tình nhân vật, cảm động nhất là truyện Thái tử Đan và Kinh Kha (Yên III 5); các bài Trương Mao khuyên vua [Ngụy] đừng đánh Hàn (Ngụy IV 3), Thuốc bất tử (Sở IV 8), Tử Tượng khuyên Tống đừng giúp Tề (Sở I 1), Trai, sò găng nhau, chỉ lợi ông chài (Yên II 13), Vẽ rắn thêm chân (Tề II 4), Cáo mượn oai cọp (Sở I 3), Trang Tân dùng ngụ ngôn khuyên Sở Tương Vương (Sở I1 2), Xúc Chiệp thuyết thái hậu nước Triệu (Triệu IV 18), Khỏi bị cách chức (Đông Chu 9), Người đất Ôn khéo đối đáp mà khỏi bị giam (Đông Chu 10), Du Đằng biện hộ cho vua Chu (Tây Chu 3), Cam La thuyết Trương Đường và vua Triệu (Tần V 6)… có giá trị cao về thuật thuyết phục.
Bài Xúc Chiệp thuyết thái hậu nước Triệu (Triệu IV 18) được hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê cho là cho là toàn bích và cụ Nguyễn Hiến Lê chép vào Phụ lục cuốn Đắc nhân tâm cùng với bài Ân và Oán (Trung Sơn 8) và bài Nên quên rằng mình có ân đức với người (Ngụy IV 21). Sau khi dẫn gần trọn bài Xúc Chiệp thuyết thái hậu nước Triệu (Triệu IV 18), cụ Nguyễn Hiến Lê kết luận:
“Tâm lý của con người phương Đông cũng như phương Tây, thời xưa cũng như thời nay. Thuật thuyết phục của Xúc Chiệp ăn khớp với học thuyết của Dale Carnegie: sinh trước Carnegie trên hai ngàn năm mà chỉ trong một câu chuyện với Thái hậu, ông bất giác tìm ra được sáu qui tắc của Carnegie trong phần IV (qui tắc 1, 2, 3, 4, 7, 9) cộng với ba qui tắc nữa của Carnegie trong chương I phần II (tự đặt mình vào địa vị người, chú trọng tới cái lợi của người), trong chương độc nhất phần V (xin người ban cho mình một ân huệ để cho người được vui lòng) và trong chương II phần I (khen người một cách tự nhiên, tế nhị). Chúng ta có thể hiểu biết nhiều hơn cổ nhân, nhưng cái khôn của cổ nhân vẫn còn đáng cho ta học. Đó là một nguồn vui khi ta đọc sách của cổ nhân”.
Trong ba bài ngụ ngôn mà hai cụ Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê cho là bất hủ: Trai sò găng nhau, chỉ lợi ông chài (Yên II 13), Vẽ rắn thêm chân (Tề II 4), Cáo mượn oai cọp (Sở I 3), có hai bài, (Yên II 13 và Sở I 3), đã được hai cụ Nguyễn Văn Ngọc và Trần Lê Nhân tuyển vào bộ Cổ học tinh hoa tức bài Con cò và con trai và bài Hồ mượn oai cọp.
Nhan đề ba bài ngụ ngôn đó, tức:
- Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi «蚌鷸相持,漁翁得利» (Trai, sò găng nhau, chỉ lợi ông chài – Yên II 13),
- Hoạch xà thiêm túc «畫蛇添足» (Vẽ rắn thêm chân – Tề II 4),
- Hồ giả hổ uy «狐假虎威» (Cáo mượn oai cọp – Sở I 3) cũng là những thành ngữ được nhiều người sử dụng. Chiến Quốc sách còn cho ta một số thành ngữ khác như:
- Bất dực vô phi «不翼而飛» (Chưa đủ cánh thì chưa thể bay cao được – Tần II 2),
- Huy hãn thành vũ «揮汗成雨» (Mồ hôi vẩy thành mưa – Tề I1 6),
- An bộ đương xa «安步當車» (Thủng thẳng đi bộ thì cũng thích như ngồi xe – Tề III 5),
- Giảo thỏ hữu tham quật «狡兔有叄窟» (Thỏ khôn phải có ba hang – Tề IV 1),
- Vong dương bổ lao «亡羊补牢» (Mất cừu rồi mới lo rào chuồng – Sở IV 4),
- Thương cung chi điểu «傷弓之鳥» (Chim bị thương sợ cành cong – Sở IV 10),
- Cao chẩm vô ưu «高枕無忧» (Gối cao ngủ kỹ – Ngụy I 10)…
Xuất xứ của hai chữ “tựa cửa”, tức “ỷ môn” «倚門», cũng từ Chiến Quốc sách: “Nhữ triêu xuất nhi vãn lai, tắc ngô ỷ môn nhi vọng” «女朝出而晚來,則吾倚門而望» (Sáng con ra đi mà chiều về thì mẹ tựa cửa ngóng con – Tề VI 1). Điển tích này được Nguyễn Du dùng trong Truyện Kiều: Xót người tựa cửa hôm mai, Đặng Trần Côn dùng trong Chinh phụ ngâm khúc: Lão thân hề ỷ môn «老親兮倚門» (Đoàn Thị Điểm dịch là: Lòng lão thân buồn khi tựa cửa ).
Chiến Quốc sách cũng lưu lại nhiều danh ngôn như:
- Ta hồ! Bần cùng tắc phụ mẫu bất tử, bảo quý tắc thân thích úy cụ. Nhân sinh thế thượng, thế vị phú quí, cái khả hốt hồ tai!
«嗟乎!貧窮則父母不子,寶貴則親戚畏懼。人生世上,勢位富貴,蓋可忽乎哉!»
Ôi! Nghèo khốn thì bố mẹ không nhận làm con, giàu sang thì thân thích sợ sệt. Người sinh ở đời, thế lực, chức vị và tiền của có thể coi thường được đâu! (Tần I 2),
- Dĩ tài giao giả, tài tận nhi giao tuyệt; dĩ sắc giao giả, hoa lạc nhi ái du.
«以財交者,財盡而交絕;以色交者,華落而愛渝。»
Dùng tiền bạc kết giao, hết tiền thì hết tình; dùng nhan sắc mà kết hợp, sắc suy thì tình đổi (Sở I 9),
- Tích vũ trầm chu, quần khinh chiết trục, chúng khẩu thước kim.
«積羽沈舟,群輕折軸,衆口鑠金。»
Chất lông nhiều quá có thể làm chìm thuyền, vật nhẹ mà nhiều cũng làm cho gẫy xe, nhiều người nói quá thì vàng cũng chảy. (Ngụy I 10)…
Bản đồ thời Xuân Thu
Trong Đời viết văn của tôi, cụ Nguyễn Hiến Lê viết: “Văn Chiến Quốc sách rất cổ, rất khó hiểu mà tôi lại không kiếm ra được một bản chú giải nào vừa ý, nên phải so sánh ba bốn bản, dùng cả bản bạch thoại, lại phải tra hai bộ từ điển Trung Hoa, có khi mất cả một ngày mới dịch được một trang. Trong khi dịch bộ đó tôi đau bao tử liên miên, phải vừa xoa bụng vừa viết, đau quá thì nằm nghỉ một chút rồi ngồi lên viết tiếp. Năm đó nhà tôi qua Pháp, tôi phải dạy thay mấy tháng, nên tôi làm việc quá sức. Bộ đó tôi phải dựa vào ba chặng, cuối mỗi chặng nghỉ nửa tháng”. “Năm đó” là năm 1965, cụ bà Trịnh Thị Tuệ qua Pháp để dự đám cưới của con trai của hai cụ là Nguyễn Nhật Đức. Trong cuốn Chiến Quốc sách này, ta thấy ngày cụ Nguyễn Hiến Lê viết bài Lời dẫn (trong phần II: Trích dịch) là ngày 15.11.1966. Đến 1968, cuốn Chiến Quốc sách được nhà xuất bản Lá Bối in lần đầu, và được tái bản vào năm 1973.
Ebook này, tôi gõ theo bản của nhà xuất bản Từ điển Bách khoa in năm 2006 mà tôi mua được vào ngày 06.07.2010. Sau khi gõ được vài bài trong Tần sách, tôi tình cờ tìm thấy bản của nhà xuất bản Lá Bối in năm 1973 (bản scan do TimSach.com cung cấp). Sau khi đối chiếu vài ba trang, thấy bản Từ điển Bách khoa 2006 có nhiều chỗ sai sót so với bản Lá Bối 1973, nên tôi nhờ bạn Tuanz dùng bản Lá Bối 1973 để sửa lại và sửa cả những lỗi do tôi gõ sai; mà tôi thì gõ sai nhiều lắm! Rồi sau khi gõ được vài bài trong Tề sách, ngày 11.09.2010, tôi lại mua được từ một cửa hiệu bán sách cũ một bản của nhà xuất bản Trẻ in năm 1989, bản này in trên giấy xấu, lại cũ, đọc rất mệt mắt, nhiều chỗ không đọc được, nhưng có cái lợi là chữ Hán được in đầy đủ như bản Lá Bối 1973. Tôi không biết bản Trẻ 1989 in lại từ bản nào vì bản Lá Bối 1973 thì có in bản đồ thời Chiến Quốc còn bản Trẻ 1989 thì không, và vì trong bản Trẻ 1989 có một số chữ Hán không giống với chữ Hán tương ứng trong bản Lá Bối 1973 (về chữ Hán thì bản Tự điển Bách Khoa 2006 lược bỏ gần hết). Còn bản Tự điển Bách Khoa 2006 thì, theo tôi đoán, in lại từ bản Trẻ 1989 vì trong bài Hai cách tấn công (Hàn III6), cả hai bản đều in chú thích (1) là: “…coi chú thích (2) trang 430…”, nhưng câu đó chỉ đúng trong bản Trẻ 1989 mà thôi (lẽ ra thì bản Tự điển Bách Khoa 2006 phải sửa lại là: “…coi chú thích (1) trang 390…” mới phải). Tuy có được ba bản, nhưng tôi vẫn dùng bản Từ điển Bách Khoa 2006 để gõ tiếp, gặp chỗ nào ngờ sai thì dò hai bản kia, nếu sai thì châm chước mà sửa lại; có khi cả ba bản đều sai thì phải tìm thêm các tài liệu khác, thường gặp nhất là nhan đề thứ hai, tức mấy chữ Hán Việt đầu bài, tôi phải theo các bản chữ Hán tìm thấy trên mạng mà sửa lại. Bạn Tuanz vẫn tiếp tục giúp tôi sửa lỗi đến cuối ebook cũng như góp ý về các chú thích mà tôi thêm vào (để khỏi rườm, nhiều chỗ chúng tôi sửa sai mà không chú thích). Xin chân thành cảm ơn 2 bạn Tuanz, Quocsan và xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.
*
Trong eBook mới này, ngoài việc sửa thêm một số lỗi, chúng tôi còn bổ sung Bài đọc thêm: “Các danh ngôn trong Chiến Quốc Sách” ở cuối eBook.
Goldfish
Tháng 10 năm 2010
Sửa chữa và bổ sung tháng 12 năm 2011
Bổ sung tháng 10 năm 2013
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chiến Quốc Sách
Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê
Chiến Quốc Sách - Giản Chi, Nguyễn Hiến Lê
https://isach.info/story.php?story=chien_quoc_sach__gian_chi_nguyen_hien_le