As a rule reading fiction is as hard to me as trying to hit a target by hurling feathers at it. I need resistance to celebrate!

William James

 
 
 
 
 
Tác giả: Pat Jordan
Thể loại: Truyện Ngắn
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 772 / 0
Cập nhật: 0001-01-01 07:06:40 +0706
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
ai cô chạy bàn đứng ở quầy rượu đang kháo chuyện với nhau, chờ rượu để bưng cho khách. Miệng cô tóc nâu vắt vẻo điếu thuốc lá. Cô hít đẫy một hơi, hai ngón tay đưa lên kẹp điếu thuốc, chu môi thổi phù một luồng khói dày đặc màu trắng đục bay vụt lên trần nhà, ngón tay trỏ đập nhẹ trên thân điếu thuốc làm rụng mẩu tàn dài thoòng lên cái đĩa nằm trên quầy rượu. Những động tác thuần thục điệu nghệ đó chứng tỏ cô đã nghiện hút lâu năm.
Cô tóc vàng liếc mắt nhìn cô gái hút thuốc:
- Ê! Mày nói hay tao nói? Hay thôi mày nói đi.
Cô tóc nâu nhìn thẳng ra phía ngoài quầy rượu. Bàn ghế đông nghẹt khách đang ngồi nhâm nhi ly rượu được pha chế thật vừa ý. Mùa hè nóng bức nên họ ăn mặc quần áo thật giản tiện; quần cụt, áo thun. Có người mặc quần áo tắm biển, loại ít tốn vải nhất, màu thật sáng trông nổi bật giữa buổi trưa nắng chói chang. Lưa thưa người nói chuyện, chỉ ngồi thưởng thức những ly rượu say nồng, lâu lâu thì thầm và chỉ chỏ về phía dưới bãi; ở đó một cặp trai gái chuyên nghề vũ thoát y đang nằm say mê phơi nắng, nước da ngăm ngăm lấp lánh dưới ánh nắng vì cả tấm thân tuyệt mỹ được tráng một lớp dầu dừa. Trên người là một miếng vải nhỏ xíu, nhỏ chỉ vừa đủ che những chỗ cần che, nên cả thân hình cặp trai gái hiện ra lồ lộ dưới ánh mặt trời. Tiếng cô tóc nâu:
- Nói chuyện con chó đàng kia hả?
- Thì còn chuyện gì nữa.
- Thôi mày nói đi.
Cặp đàn ông đàn bà đàng kia ngồi hẳn ra một góc, quay lưng về phía hai cô gái chạy bàn. Vóc dáng người đàn ông lực lưỡng, bắp thịt nổi cuồn cuộn như lực sĩ thể dục thẩm mỹ, nước da nâu bóng, nhúm tóc nhuộm vàng hoe cột như đuôi ngựa thả lủng lẳng sau gáy. Người đàn bà trông già hơn, lớp tóc nhuộm vàng cắt cụt mọc chĩa trên đầu như hầm chông, thân hình cũng đầy múi thịt. Bà ta mặc loại áo tắm ít tốn vải nhất, ngón tay cầm điếu thuốc hít và nhả khói phong cách như một phụ nữ thượng lưu, bàn tay kia vuốt ve mớ lông cổ của con chó đang nằm yên lặng dưới chân. Bộ lông của con chó là một hỗn hợp giữa đỏ, cam và trắng. Nó phải là loại chó lai, trông tinh khôn như một con chồn và dữ tợn như một con sói.
Cô tóc vàng đặt rượu lên khay, một ly rum trộn đá cho người đàn ông và một ly Vốt-ka có đá cho người đàn bà. Người đàn ông đưa cho cô một tờ giấy hai chục và hào phóng bảo cô giữ lấy tiền thối. Cô nói cảm ơn nhưng vẫn đứng ngần ngừ không biết phải mở lời ra sao về chuyện con chó. Người đàn bà lờ đi không biết cô còn đứng bên cạnh, hớp một chút rượu rồi lên tiếng:
- Thế nó hẹn mấy giờ vậy?
Người đàn ông liếc mắt nhìn xung quanh:
- Trễ hai mươi phút rồi.
Phân vân mãi, cuối cùng cô chạy bàn mạnh dạn:
- Xin lỗi ông bà…
Người đàn bà ngẩng mặt lên, bàn tay vẫn không ngừng vuốt ve con chó. Cô tóc vàng chỉ ngay vào con chó, nhỏ nhẹ:
- …nhà hàng không cho phép mang chó vào trong này ạ!
Người đàn bà hít đẫy một hơi thuốc và nhả khói thành một đường thẳng dài:
- Vậy sao?
Bây giờ cô chạy bàn mới nhìn rõ khuôn mặt của người đàn bà. Trông bà ta già hơn khi nhìn từ đàng sau, khoảng 45, nhưng vẫn còn những nét quyến rũ. Bà cúi xuống nựng nựng con chó:
- Nghe chưa con, Hosh. Người ta không muốn con ở trong này.
Miệng thì nói thế nhưng bà vẫn ngồi yên không dẫn chó ra ngoài. Ra cái điều tiệm có quyền đặt ra luật còn khách hàng có tuân theo hay không lại là chuyện khác. Nhìn bà ta bình thản đổ nước vào chiếc đĩa sứ, cúi xuống đặt ngay trước mặt con chó và phớt lờ không cần biết nàng đang đứng bên cạnh, cô chạy bàn biết ngay có nói đến mấy cũng bằng thừa. Thôi thì hôm nay mình xui gặp ngay con mẹ thứ dữ coi trời bằng vung, nàng nghĩ thầm. Đứng mãi cũng ngượng, cô nhún vai ngoe nguẩy bỏ đi, không quên “xí” nhẹ một tiếng cho đỡ tức. Ngay lúc đó, một người đàn ông bụng xệ, đầu hói nhẵn, cằm lởm chởm râu dê từ ngoài bước vào tiến thẳng về phía bàn có con chó lai. Người hắn ánh lên một màu vàng óng trông thật cải lương, từ cái kiếng mát có gọng mạ vàng, cổ treo chuỗi hạt vàng khè, loại 24K, cả chiếc vòng tay vàng choé và nhất là chiếc đồng hồ Rolex vàng rực lóng lánh phản chiếu ánh mặt trời. Cái bụng nước lèo trông đã khó coi thế mà hắn phành luôn cả hai ba cúc áo để bộ ngực đầy lông mọc tua tủa. Bên hông hắn treo không phải một mà là ba cái máy gọi di động. Hắn cúi sát người hôn lên má người đàn bà:
- Chào Sheila.
Hắn ngồi phịch xuống chiếc ghế đối diện với người đàn ông, Bobby. Sheila cất tiếng chào lại:
- Hello Solly.
Bobby hơi khó chịu:
- Sao trễ vậy cha.
- Xin lỗi, tôi có vài việc phải làm.
Con chó lai chồm người đặt chân vào bàn tay hắn vừa mới chìa ra:
- Ồ! Con Hosh, khoẻ không mày?
Hosh vẫy đuôi tỏ vẻ thân thiện. Điều này chứng tỏ hắn khá thân với cặp vợ chồng nên con chó lai mới quen với hắn. Vừa thấy bóng cô chạy bàn đến gần, Hosh nằm mọp xuống ngay như muốn phân bua với cô gái rằng nó nằm đây không dám làm phiền ai hết. Đúng là loại chó lai, tinh khôn ra gì. Solly nói với cô tóc vàng:
- Cho anh ly rum đi cưng, thêm cái hamburger nữa nghe.
Chờ cho cô chạy bàn khuất bóng, Bolly hạch sách:
- Mẹ cha cái thằng này. Mày chuyển sang nghề du lịch rồi à?
Sheila bĩu môi:
- Dám lắm à! Đeo gì mà tới ba cái máy gọi vậy cha?
Hắn tủm tỉm cười không trả lời. Bobby chồm người sang phía bên kia bàn, sẵng giọng:
- Có chuyện gì gấp mà mày gọi tao đến đây, nói tao nghe coi thằng cà chớn.
Sắc mặt Solly bỗng trở nên nghiêm trọng. Hắn thấp giọng:
- Thì cái vụ ở Miami đó chớ còn vụ nào nữa. Tôi lại không có kinh nghiệm nhiều về mấy thằng Cuba đó. Tôi nghĩ ông may ra nói chuyện với chúng nó được. Dù sao mấy vụ trước ông cũng đã giao thiệp với mấy thằng Nam Mỹ đó rồi.
Giọng Bobby hoà hoãn hơn trước:
- Thế mày có biết hàng gì không?
Hắn rảo mắt nhìn đám du khách dò xét một vòng. Sheila sốt ruột từ nãy giờ vì ngồi chờ lâu, bây giờ trông điệu bộ của Solly lại càng làm nàng ngứa mắt:
- Dẹp cha cái màn đó đi. Nói mẹ nó ra cho bọn tao nhờ.
Cô tóc vàng trở lại với ly rượu và cái hamburger. Solly nhướng mày ra dấu im lặng. Đợi cho cô chạy bàn khuất bóng, không thèm để ý đến Sheila, hắn hạ thấp giọng:
- Vụ này lớn lắm ông ơi! Bọn Cuba cần vài món hàng. Khoảng 200 gì đó; CZ (súng Tiệp), AK (súng Trung cộng), Uzis (tiểu liên Do-thái). Mẹ chúng nó, muốn toàn hàng ngoại không à. Nó nói là mấy loại lớn đã có rồi, cỡ SAM, Stingers, nghe đâu mua từ tay mấy thằng buôn súng lậu ở Boca.
Bobby thắc mắc:
- Thế tại sao nó lại cần tao?
- Ông không biết con mẹ gì hết. Nó không thể mua mấy loại hàng nóng đó ở Miami được. Thằng này thuộc loại lưu vong, chờ ngày phục quốc mà. TV cứ lâu lâu lại nhắc đến nó. Nó mơ một ngày cả đám quay trở về chiếm lại hòn đảo thần tiên đó bằng vũ lực, ông nghe rõ chưa, bằng súng đạn, cái kiểu đổ bộ lên Vịnh Con Heo thời Kennedy đó, ông nhớ không? Nó chiêu tập cả một đoàn quân trú ẩn ở Everglades, ăn mặc như trong thời chiến, lúc nào cũng võ trang tận răng, tập trận ở mấy bãi đầm lầy, lâu lâu lại có màn thảy lựu đạn giết mấy con cá sấu chơi.
- Thế sao nó không gởi người lên đây mua luôn cho tiện?
- Ông lại không hiểu mấy thằng Nam Mỹ rồi. Chúng như bọn đen ở Bronx, Nữu Ước. Có bao giờ chúng dám rời sào huyệt đâu. Nó mà gởi người lên Lauderdale để mua hàng hả, nói thiệt với ông, có khối thằng chạy theo để thịt nó liền. Ông biết, đời giang hồ thì có biết bao kẻ thù. Cứ ở lì trong doanh trại mà điều khiển thì chắc ăn như bắp. Bởi vậy nó cần một trung gian, đứng ra mua hàng dùm nó. Xong việc nó trả tiền sòng phẳng. Bỏ tiền ra nhờ một người làm dùm mình công việc đó có hơn không, tội gì phải mua lấy nguy hiểm. Bọn nó cần một người có thể tin tưởng được, để móc nối việc mua bán.
Hắn tợp một hớp rượu, tiếp tục:
- Và ông là người đi mua hàng dùm nó. Ông gặp nó trước, nói chuyện, mà thằng đó chỉ thích nói chuyện chính trị. Ông chuẩn bị một số chuyện chính trị, đem ra bàn thảo với nó để lấy cảm tình. Không chừng khi thích rồi nó dám cho mượn loại Stingers để ông đi chiếm mấy cái khu tập trung người da đỏ dành lại đất cho dân tộc ông lắm à. Để tôi nói thêm cho ông rõ về buổi gặp gỡ. Thế này nhé, vợ chồng ông sẽ ăn tối với vợ chồng nó tại biệt thự riêng. Ăn xong rồi bàn bạc chuyện. Yên trí đi, nó mà thích ông rồi hả, tiền công hậu hĩ lắm.
Solly ngoạm một miếng hamburger thật to, giọng ồm oàm:
- Biết tiếng Sì (Spanish) không?
Sheila rút thêm điếu thuốc, rảo mắt tìm cô chạy bàn để gọi thêm ly rượu nữa. Vừa quay lại nàng bắt gặp Solly quẳng cho Hoshi miếng thịt khá to. Sheila gằn giọng:
- Cha mày Solly, tao đã bảo đừng cho nó ăn thịt.
- Trời ơi! Nó là chó, chó mà không ăn thịt thì ăn gì hở bà.
- Đúng, nhưng không phải loại thịt đó. Ăn vào chỉ làm hư bao tử. Tao xin mày đừng cho nó ăn nữa, để tao lo cho nó. Điều nữa, đừng gọi nó là chó nghe không.
- Bà này dở hơi. Chó mà không gọi là chó thì gọi là gì?
- Nghe tao đây. Nó không phải chó. Nó vượt xa một con chó bình thường, mày hiểu chưa?
Solly nhìn Sheila cười giả lả, miệng nói “được rồi được rồi” liên tục. Hắn quay sang Bobby:
- Thằng Cuba muốn gặp ông tối nay ăn cơm. Nửa đêm thì đúng hơn. Tiên sư cha mấy thằng nhà giàu, ăn chiều mà đợi đến nửa đêm mới ăn. Biệt thự của nó nằm ở vùng Gables.
Hắn chuồi mẩu giấy ghi địa chỉ cho Bobby. Chàng mở ra chỉ thấy một hoạ đồ chỉ đường đi chứ không thấy số nhà. Thông thường thì phải thuôc lòng địa chỉ rồi đốt để tránh những hậu hoạ về sau. Giọng Solly đều đều:
- Ngôi biệt thự của nó không có số nhà đâu nhưng dễ tìm lắm. Nó nằm bề thế trên con đường vắng, cổng đúc bê tông dày, hàng rào kẽm gai hai ba lớp bọc kín quanh tường. Ông cứ đến khu đó, chạy tà tà là gặp ngay. Thằng này thích mọi người tôn trọng nó, ông nhớ làm cho nó vừa lòng. Tôi đã nói với nó là ông Bobby Squared sẽ đến bàn chuyện tối nay. Ngay cổng ông cứ nói tên vào cái hộp nhỏ là cửa mở ngay.
Hắn chồm người nói nhỏ vào tai Bobby:
- Điều này quan trọng lắm, nhớ đừng lận súng trong người nghe. Thằng này tối kỵ việc đi ăn mà mang theo súng. Hơn nữa, ông đến bàn chuyện làm ăn mà, không nên mang theo súng.
Nhìn cử chỉ Solly, Sheila ngứa mắt lắm rồi. Đối với nàng chả có chuyện gì quan trọng. Có người muốn vợ chồng nàng môi giới mua súng ống, thấy được thì làm, không thì thôi. Đành rằng mối áp-phe súng đạn rất nguy hiểm, mà lại là súng đạn lậu, chuyện làm ăn phải kín đáo nhưng hôm nay nàng bỗng thấy hắn đáng ghét quá. Solly đến trễ bắt vợ chồng nàng đợi cả ngày, lại quẳng cho con chó cưng của nàng miếng thịt bằm nên Sheila chỉ muốn xong việc đứng lên cho rồi. Solly làm như không biết sự khó chịu của nàng:
- Coi chừng. Đề nghị ông bà mang giày cao cổ và nhớ là không mang theo súng. Tôi nhắc lại là không nên mang theo súng. Mà đem theo cũng bị chúng nó tước đọat trước khi cho phép ông bà vào nhà. Mấy thằng đó lục soát thì cái kim trong người cũng lòi ra nữa là khẩu súng. Nhớ đừng để mấy thằng đó có lý do ghét mình.
- Giá cả thì sao?
- Hàng nóng nên giá độ 75 xấp, thằng Cuba đưa cho ông 100 xấp, ông giữ phần còn lại. Mà ông biết cái thằng duy nhất ở trên này chuyên cung cấp những loại hàng này, phải không?
- Ừ! Tôi biết nó.
- Thế ông đã gặp thằng đó lần nào chưa?
- Cái thằng này bệnh hoạn lắm. Sư cha nó, lúc nào cũng nghĩ nó là thượng đế hoặc gần gần như vậy. Nó lại rêu rao cái chủ thuyết sống mà theo nó đó là con đường suy nhất dẫn đến chân lý. Nghe ngứa tai vô cùng vậy mà có khối đứa theo nó mới là lạ.
Solly vểnh tai nghe Bobby nói về cái thằng đầu nậu mua bán súng lậu. Mải nghe nên hắn đãng trí thảy cho Hoshi một miếng thịt nữa. Con chó lai hực một cái, nuốt trổng luôn miếng thịt bằm. Sheila la lớn:
- Tiên sư bố mày, tao đã nói là đừng ném thịt cho nó nữa, mày nghe không, thằng chết bầm.
Rồi nàng vùng vằng đứng lên, giật giật sợi dây dẫn con chó đi thẳng về phía bãi biển. Solly ngạc nhiên, phân trần:
- Tôi có làm gì đâu.
- Dẹp cha mày đi. Thảy thịt cho con Hosh làm bả giận mà mày nói là không làm gì.
Nói rồi Bobby đứng lên đi theo Sheila. Nhìn dáng đi của nàng từ đàng sau lúc nào Bobby cũng cảm thấy xốn sang trong lòng. Cái lối bước của nàng dễ làm đàn ông chóng mặt. Trong mỗi bước đi nàng vặn nhẹ gót chân làm đôi mông mẩy tròn nhấp nhô một cách quyến rũ. Sheila bước gần đến mép nước rồi chạy vụt lên khi sóng xô vào bờ, Hoshi tung tăng theo sát chủ, nghịch ngợm. Bobby chép miệng rảo bước nhanh hơn để bắt kịp nàng.
* * *
Sheila lặng thinh nhìn qua lớp kiếng xe xám đục trong khi Bobby lái chiếc van màu đen trên xa lộ liên bang 95 về hướng Nam. Phá tan bầu khí ngột ngạt, Bobby quay sang nàng:
- Có gì không em?
Vẫn không ngoái nhìn, Sheila đáp cộc lốc:
- Không có gì…
Rồi không biết nghĩ sao, nàng quay sang Bobby, giọng nhỏ nhẹ:
- Em xin lỗi cưng. Không phải lỗi anh.
Sheila mặc một bộ đồ luạ mềm màu trắng đục nối liền từ trên xuống dưới, kiểu phi công. Nàng đội bộ tóc giả, màu xám nâu, búi thành lọn phủ chiếc gáy mềm loà xoà mớ tóc mai. Một dây lưng bằng da to bản buộc ngang eo nàng. Sheila thóp bụng vào để sửa dây nịt:
- Cái dây nịt cà chớn này làm em khó chịu quá.
Không để ý đến lời phàn nàn, Bobby với tay sang vỗ nhẹ vào đùi nàng:
- Cho anh xin lỗi, cưng nhé.
Nàng nhoẻn miệng cười bằng lòng. Chiếc xe van đen vẫn bon bon trên xa lộ. Mặt kiếng của những ngôi nhà chọc trời nổi bật với những hàng chữ viết bằng phấn màu xanh, đỏ và hồng. Sheila lại phàn nàn:
- Tại sao anh lại bắt em mang cái dây lưng to bản thế này?
Không trả lời thẳng vào câu hỏi, chàng hỏi ngược lại:
- Thế khẩu súng Seecamp của em đâu?
Nàng lục lọi trong cái xắc cầm tay và lôi ra một khẩu súng nhỏ xíu, vỏ crôm mát lạnh, nằm gọn trong lòng bàn tay. Đây là súng dành cho phụ nữ, nòng.32, 6 viên, bắn được một lúc 2 viên. Bobby tặng cho nàng hai năm trước. Sheila nói súng ngộ quá, nhỏ nhắn rất hợp với em. Đừng khinh thường loại súng nhỏ này; trong vòng 10 mét nó có thể đốn ngã một người đàn ông lực lưỡng, cỡ 180 lbs là thường. Bobby vẫn chú ý vào giòng lưu thông:
- Bây giờ em nhét nó vào chỗ thắt lưng cho anh. Mấy thằng cận vệ chắc không để ý đến cái eo của em đâu… anh mong thế.
Nàng cởi mấy hột cúc ở phía trước, nhét sâu nó xuống phía dưới, ngay phía sau dây nịt. Sheila xuýt xoa:
- Lạnh quá… nhưng thấy… thích.
Mấy chữ sau, Sheila liếc đôi mắt đĩ thoã về phía Bobby, miệng cười chúm chím. Chàng mải suy nghĩ về cuộc gặp gỡ tối nay nên không để ý đến câu nói gợi tình của Sheila. Khi đến Coral Gables, Bobby quẹo trái về hướng biển. Chàng cho xe chạy chầm chậm, lôi trong người ra mẩu giấy của Solly để dò đường. Những biệt thự nguy nga san sát hai bên đường nằm ẩn khuất sau những tàng cây lớn. Đường vắng hoe, lâu lâu mới thấy một chiếc xe chạy ngược chiều. Trời đã sập tối, ngọn gió biển lùa vào lùm cây phong mọc nhan nhãn hai bên đường gây tiếng kêu xào xạc nghe thật quạnh hiu. Lao mình vào một chuyến mua bán súng đạn lậu không ít thì nhiều trong lòng cũng cảm thấy bồn chồn lo lắng, không biết lành dữ thế nào. Giọng Bobby bình tĩnh:
- Sắp đến chỗ hẹn rồi.
Sheila đưa mắt nhìn cái cổng bằng sắt cao lớn bên tay phải, vòng kẽm gai che kín phía trên. Xa xa một đường trải sỏi trắng hình vòng cung và đập thẳng vào mắt nàng là những chiếc Royces, Ferraris, BMWs. Tất cả sáng rực lên dưới muôn ánh đèn chạy dọc theo bãi cỏ. Nàng đang lạc vào một thế giới mà đôi lần chỉ thấy trên phim ảnh. Thế giới của giai cấp thượng lưu, sang trọng. Đầu óc Bobby đang suy tính công việc nên chẳng chú ý gì đến quanh cảnh chung quanh. Chàng dặn dò:
- Bữa ăn chiều, em nhớ luôn ngồi sát bên anh. Nếu có trục trặc xảy ra, em cứ bình tĩnh đứng lên xin phép vào phòng rửa mặt son phấn lại. Lấy khẩu Seecamp ra, đút vào bóp cầm tay. Khi trở lại, em cứ tự nhiên bỏ xuống dưới chân. Vài phút sau, em giả vờ làm rơi khăn chùi miệng, cúi xuống lấy khẩu súng nhét vào ống giày của anh. Em nhớ làm với một vẻ thật tự nhiên, bình tĩnh. Mạng sống của chúng ta tuỳ thuộc vào tài đóng kịch của em. Nếu em sơ hở để nó nghi thì chúng mình không có hy vọng bước ra khỏi căn nhà đó.
Sheila mỉm cười nói anh đừng lo, em biết cần phải làm thế nào. Vài phút sau, Bobby dừng lại trước ngôi biệt thự có cổng sắt thật cao, phía trên hai ba vòng kẽm gai chạy suốt chiều dài bức tường. Bobby xưng tên vào cái hộp máy nhỏ ngay tại cổng và cánh cửa tự động mở ra. Bobby chạy xe dọc theo con đường trải sỏi mịn dài thăm thẳm dẫn đến cửa chính của ngôi biệt thự. Những tàng cây đại, cây cọ và hàng dừa nước trổ ra xum xuê dọc hai bên đường. Hai tên lính, súng tiểu liên Uzis lủng lẳng bên hông, một tay đang nắm chặt sợi dây xích cố giữ con chó rottweiler nhe răng gầm gừ muốn chồm tới trước khi thấy vợ chồng Bobby. Sheila nhủ thầm, mẹ cha loại chó gì mà to như con bò con. Nàng ước lượng nó khoảng 160 lbs là ít. Nó mà chồm tới thì mình chắc chết, chưa kể loại chó này chuyên được huấn luyện cắn vào cuống họng. Sheila rùng mình khi nghĩ đến hàm răng nhọn hoắt của nó ngoạm vào cổ mình. Bất giác nàng đưa tay rờ lên cổ và thở dài nhè nhẹ.
Xe vừa ngừng, tên lính gác tay dẫn chó chạy xô đến mở cửa. Không để ý đến bàn tay Sheila đưa ra chào xã giao, hắn hỗn xược chộp lấy cái xắc nàng khoác trên vai. Tay bên kia, hắn ghìm chặt cái vòng cổ con chó. Sheila bước hẳn xuống xe, nàng trừng mắt nhìn con chó. Đôi mắt xanh lơ của nàng loé lên dữ dội, phóng ra những tia lửa điện. Con chó vừa đụng phải luồng mắt của nàng thì cụp đuôi, mõm rít lên vài tiếng rồi quay sang hướng khác. Nàng vói tay xoa xoa lên cổ phía sau tai nó, miệng không ngớt vỗ về “ngoan cưng, ngoan cưng”. Con chó tránh ánh mắt nàng, gầm gừ và lùi hẳn về phía sau.
Tên gác kia ngoắc tay ra hiệu Bobby bước xuống xe. Vừa đặt chân xuống đất, bàn tay hắn vuốt từ cổ tay chàng xuống tận ống chân, không bỏ sót một ngóc ngách nào. Vừa khi đó, cánh cửa lớn bật mở. Một gã đàn ông mập mạp nhỏ thó quần áo trắng toát xuất hiện ngay trước ngưỡng cửa dưới ánh đèn đặt chìm phía trên. Gã dận đôi giày da đen hiệu Gucci mắc tiền, mái tóc đen dài lấm tấm pha lẫn màu bạc búi ngược ra sau. Đôi mắt gã to, đen thăm thẳm. Gã mỉm cười:
- Ồ! Ông Squared. Rogers nói nhiều về ông lắm.
Bobby ngạc nhiên:
- Rogers?
Gã đàn ông nhíu mày:
- Ông không biết Rogers sao? Ông Solly Rogers đó.
- À! Ra là Solly. Hắn cũng nói với tôi nhiều cái hay về ông lắm, ông Medina.
Gã nhăn nhở cười toét cả miệng và gật đầu ra chiều bằng lòng. Mấy cái thằng buôn lậu này cứ thấy khen là phổng cả mũi lên, Bobby nghĩ thầm. Đàng kia, tên gác dẫn chó vẫn tiếp tục lục soát trên người Sheila. Medina quát to một tràng tiếng Mễ về phía tên gác. Hắn như bị điện giật, rụt tay về và thụt người ra sau. Medina cúi đầu, nhỏ nhẹ:
- Xin bà thông cảm, chỉ là thủ tục thôi. Ở địa vị tôi…
Sheila ngắt lời tự giới thiệu và xoè bàn tay ra:
- Không sao, thưa ông. Tôi hiểu. Sheila Doyle.
Medina nhúm lấy mấy đầu ngón tay rồi chợt ngây người ra ngắm nghía nàng; một người đàn bà mang vẻ đẹp man dại và đứng cao hơn gã cả một cái đầu. Medina lại sủa một tràng tiếng Sì với hai tên gác và quay sang nàng mỉm cười. Sheila đi một màn xã giao:
- Cám ơn ông Medina. Por los complimientos.
Medina ngạc nhiên khi thấy nàng nói được tiếng Tây Ban Nha. Hắn phá lên cười vui vẻ:
- Không ngờ bà nói được cả tiếng nước tôi. Thật hân hạnh.
Nàng khiêm tốn:
- Un poquito.
Gã vồn vã:
- Xin mời vào, xin mời vào. Rất hân hạnh đón tiếp ông bà trong túp lều campesino nhỏ bé cuả tôi.
Medina bước đi trước dẫn đường. Bobby nghĩ thầm, thằng này bày đặt khiêm tốn một cách lố bịch, căn biệt thự đáng giá 5, 6 triệu mà nói là túp lều. Gã khách sáo như một tay trưởng giả học đòi làm sang. Chàng để Sheila đi trước. Nàng ngoái ra sau nói nhỏ vào tai chàng:
- Số vốn ngoại ngữ của em chỉ đến đó.
Bobby gật đầu. Cứ để cho gã nghĩ mình thông thạo tiếng nước nó cũng chẳng hại gì, nhiều khi còn tốt là khác. Medina dẫn hai vợ chồng vào phòng khách. Gã nện gót giày Gucci trên nền gạch men trắng tinh một cách tự tin, kênh kiệu. Đúng là tư cách của mấy thằng trọc phú. Không biết cái thằng lùn chết tiệt này lót gạch men loại gì mà tiếng kêu lại ấm và dòn dã nghe êm tai vô cùng. Khung cảnh phòng khách trang trí như một chương trình giảng đạo trên truyền hình. Những chiếc ghế bành bằng da ngồi lọt thỏm cả người. Hai chiếc ghế trường kỷ màu hồng viền vàng. Đồ sứ đắt tiền đủ loại bày biện thật đẹp. Còn biết bao thứ khác, thứ nào cũng đắt tiền được mua với mục đích trưng bày khoe của chứ không có giá trị thực dụng. Phía trên lò sưởi bằng đá cẩm thạch là một bức tranh sơn dầu vẽ toàn thân của một người đàn bà đập vào mắt chàng. Medina rối rít khoe:
- Ông biết ai không? Vợ tôi đó, Lucinda.
- Đẹp tuyệt.
Bobby thật lòng khen người trong tranh đẹp và nét cọ của người hoạ sĩ tuyệt. Người đàn bà khoảng 35, trang điểm lộng lẫy, mớ tóc bồng bềnh vàng hoe hơi ngả sang hồng trông như hào quang bao quanh khuôn mặt nhỏ nhắn với đường nét cân đối và trẻ trung. Chàng nghĩ Lucinda hơi mập, nhìn núng nính như con bồ câu cái.
Medina đẩy dạt cánh cửa kéo bước ra ngoài. Một hồ tắm hình trái tim nước xanh ngắt chập chờn trong ánh đèn gắn chìm dưới đáy. Gần bên, một quầy rượu lộ thiên và Lucinda dang ngồi xoay xoay ly rượu trong tay, vẻ mặt hơi biến sắc khi thấy chồng. Bobby nhận thấy khuôn mặt của nàng trông già hơn trong bức hình ít nhất 20 tuổi, mập hơn khoảng 20 lbs. Đúng như chàng nghĩ, một con bồ câu cái trong chiếc váy hồng.
Gã giới thiệu hai bên. Sheila nở nụ cười thật tươi chào đón Lucinda. Nàng trả lễ bằng một nụ cuời gượng pha chút sợ sệt. Tay pha rượu người Nicaragua quần áo trắng tinh nghiêm trang đứng chờ lệnh chủ. Anh hầu bàn lễ phép bưng khay rượu và trứng cá caviar đến mời từng người. Medina lại xổ một tràng tiếng bản xứ. Một người đầy tớ liền chạy vụt vào trong khệ nệ bưng ra một hộp dài. Mở nắp, gã khệ nệ nâng lên một khẩu súng Uzi, chỉ khác là khẩu tiểu liên được gọt dũa tinh vi bằng ngà voi. Gã khoe nhặng lên:
- Đây là quà tặng của mấy người bạn Do-thái. Chúng tôi thường giúp đỡ nhau. Làm nghề này cứ giúp người biết đâu sau này người giúp mình, phải không ông bà. Chuyện như thế này. Một thằng trong đám khủng bố Hamas đến Miami để mua súng. Họ có nhờ tôi cho nó về với thượng đế. Thằng này lại quá ngu, ỷ có tiền đi khơi khơi mua hàng quốc cấm. Bùm…thế là xong đời một thằng ngu xuẩn.
Medina chùi hai tay vào nhau ý nói chuyện thanh toán xảy ra gọn không để lại một chút máu. Gã đứng ngây người ngắm nghía khẩu súng ngà voi, giọng mơ màng:
- Đã đến lúc chúng tôi cần những thứ khác thật hơn, hữu dụng hơn là loại đồ giả này.
Rồi như chợt tỉnh cơn mê, gã đứng lên:
- Để cho hai bà nói chuyện với nhau đi. Ông theo tôi xuống dưới này xem nhiều cái hay hơn.
Gã dẫn Bobby đi sâu vào trong dãy hành lang hun hút đầy bóng tối để lại hai người đàn bà ngồi nhâm nhi rượu. Chàng cố quay lại, làm một cử chỉ giã biệt tự nhiên nhưng ngụ ý muốn nhắc Sheila nhớ lời chàng căn dặn trước đây. Nàng gục gặc đầu, cố giữ nét mặt thật thản nhiên nhưng nếu tinh ý người ta sẽ thấy đôi mắt lạc thần của nàng. Hình như nàng đang cố níu giữ hình ảnh cuối cùng của Bobby trước khi khoảng tối nuốt chửng lấy chàng. Thoát khỏi dãy hành lang, Medina bước vội qua một sân cỏ rộng và tiến về hướng căn nhà tựa như dùng để chứa xe. Gã chép miệng:
- Tôi sống ở đất nước được 30 năm rồi nhưng tôi vẫn là người Cuba. Vợ tôi cũng là người Cuba. Các con tôi cũng thế. Cho dù sống hay chết, chúng tôi luôn luôn phải là người Cuba. Ông hiểu tôi nói gì chớ?
Bobby gật đầu. Medina vẫn say sưa trong ý nghĩ:
- Cho dù sống lưu vong, tôi vẫn đi nhà thờ như lúc còn ở Havana vậy. Những năm đó thật tuyệt vời, ông ạ, cho đến khi thằng thổ phỉ đó cướp chính quyền làm dân chúng điêu đứng.
Đến trước căn nhà, gã nhấn vào cái nút tròn trên tường. Cánh cửa cuộn hẳn lên trần. Medina bật đèn và Bobby trố mắt nhìn chiếc xe Cadillac Coupe de Ville đời 1957 màu đỏ tươi hiện ra rực rỡ. Gã hãnh diện:
- Ông thấy đẹp không?
Bobby xuýt xoa:
- Đẹp quá.
Bàn tay Medina vuốt dọc theo tấm thân mịn màng của chiếc xe classic. Gã say sưa kể chuyện:
- Tôi lái chiếc Cadillac giống như chiếc này trên đường phố Havana. May mắn tôi kiếm được chiếc cùng đời xe ở Miami, mua về sơn sửa lại. Tôi có thú chơi xe classic, ông ạ. Tuy tốn tiền nhưng thích. Mất 5 năm tôi mới tu sửa xong chiếc Cadillac này. Nó giúp tôi nhớ lại một quá khứ huy hoàng trước đây.
Gã quay sang Bobby:
- Ông Squared, ông biết tôi đang mơ ước điều gì nhất không?
Chàng lắc đầu. Gã thổ lộ nỗi niềm:
- Tôi mơ một ngày sẽ lái chiếc xe này cùng với Lucinda trên đường phố Havana, hai bên phố dân chúng đứng chen chúc vẫy tay hoan hô mừng ngày tôi trở về. Mỗi đêm, tôi thường ra đây, nhìn chiếc Cadillac và mường tượng đến cái ngày vinh quang đó. Ông biết không, trước sau gì tôi cũng phải về. Bỏ hết, căn biệt thự này, cuộc sống sung túc này, nếu cần tôi bỏ ngay để đổi lấy ngày trở về.
Bobby tỏ vẻ thông cảm tâm sự của Medina. Chàng nghĩ thầm, con người ai cũng cần hy vọng để sống, gã lại mơ ước ngày đuổi hết bọn Castro để trở về phục sinh đất nước. Ước mơ của những người yêu nước cao quý lắm chứ. Giọng gã sôi nổi, chân thực như điệu hát dân ca trên xứ sở Cuba. Nét mặt Medina thành khẩn, bình an như đứa trẻ thơ đang ngủ. Tất cả trái ngược với những gì Solly nói về con người thật của Medina. Gã độc ác, tàn nhẫn, giết người không gớm tay. Cũng theo lời Solly, đã có lần gã cho nổ tung một chiếc máy bay Cuba chở đầy hành khách, 288 hành khách vô tội không một người sống sót, không một thi hài thu nhặt được trọn vẹn. Giới giang hồ đặt cho gã hỗn danh El Loco. Thằng Điên.
- Đừng hiểu lầm tôi, ông Squared…
Chàng giật mình khi nghe Medina phân trần. Mẹ cha cái thằng này, nó có biệt tài đọc được ý nghĩ của mình à. Bobby tự nhủ cần phải cẩn thận hơn, không thể để tư tưởng lộ ra trên nét mặt.
- …tôi rất biết ơn đất nước này. Nó đã ưu đãi tôi nhiều thứ. Tiền tài, danh vọng, tôi có đủ cả. Nhưng một người lưu vong như tôi, những thứ đó không phải là cứu cánh. Nguồn gốc, tổ tiên mới là chính. Cội nguồn tôi ở Havana. Cha tôi đã chết thảm ở đó. Ông là một người yêu nước chân chính. Cả đời, ông chỉ chống một thằng duy nhất: Castro. Thằng đồ tể. Ngày ông bị thằng thổ phỉ bắt tôi đang còn nhỏ. Nó đòi hai mẹ con tôi đến trại tù để chứng kiến buổi xử tội cha tôi. Tôi và mẹ tôi đứng giữa trời nắng chang chang để thấy cha tôi bị điệu tới trước mặt Castro. Nó bảo lính đập vào ống khuyển bắt cha tôi phải quỳ mọp dưới chân. Nó lại bảo cha tôi cúi đầu. Ông ngạo nghễ trả lời không. Tôi còn nhớ cha tôi chưởi thằng thổ phỉ là đồ hèn nhát, thách thức nó có dám giết ông không. Đúng là cái thằng hèn nhát, thân hình nó to như con bò mộng mà đởm lược thì không bằng hạt lúa mì, thằng thổ phỉ… thằng chó chết…
Nói đến đó, gã ú ớ không còn nói thêm được một chữ nữa vì sự tức giận đang dâng lên ào ạt bít lấy thanh quản. Cử chỉ và khuôn mặt của gã thật khủng khiếp. Ngay như Bobby đã giáp mặt biết bao thằng đầu trộm đuôi cướp mà vẫn khẽ rùng mình. Mặt gã đỏ bừng, quai hàm bạnh ra thấy rõ những đường gân cổ, tròng mắt trợn ngược, gã nắm chặt bàn tay chỉ lòi ra ngón trỏ rồi đâm thẳng liên tiếp vào không khí như đang lụi dao vào ngực kẻ thù, nước bọt trắng xoá sùi ra hai bên mép. Trông gã như một người đang lên cơn động kinh.
- …tiên sư cha cái thằng râu xồm hèn nhát. Nó xoay sang nói với tên hầu cận, một thằng Mỹ, một thằng chuyên việc ám sát, cái thằng khốn nạn đó cũng đáng chết lắm. Thằng râu xồm rút súng bên hông trao cho hắn, loại P.38, súng bọn Quốc xã hay xài, nói không đáng để nó giết bẩn tay rồi ra lệnh thằng Mỹ xử tử cha tôi. Và, ông biết không, thằng khốn nạn thản nhiên đẩy một viên ngay giữa hai con mắt, không suy nghĩ, không chần chừ. Tiên sư cha nó, thằng chó chết độc ác thì không nói, cái thằng Mỹ thù hằn gì mà nhẫn tâm giết cha tôi như thế. Thật là một lũ thổ phỉ gian ác.
Nói đẫy một hơi gã mới hả giận. Một lát, nét mặt Medina hoà hoãn hơn:
- Xin lỗi… xin lỗi đã làm phiền ông. Tôi là người sống bằng cảm xúc. Mong ông thông cảm. Sự thống khổ của đồng bào tôi là một cảm xúc. Chính mối cảm xúc này giữ tôi còn sống đến hôm nay và nó luôn luôn nhắc nhở tôi đến mối thù truyền kiếp.
Giọng Medina bỗng trở nên thân mật:
- Này ông bạn, ông muốn kết bạn với tôi chớ?
Bobby hơi cúi đầu, chìa hẳn bàn tay ra:
- Rất hân hạnh được làm bạn với ông, ông Medina.
Gã chúm tay giữ lấy mấy đầu ngón tay của chàng, để yên một chút rồi rụt tay về. Giang hồ đã lâu, chưa bao giờ Bobby thấy một kiểu bắt tay lạ lùng như thằng chết bầm này. Kẹt nằm trong sào huyệt của nó chứ nếu ở ngoài, chàng sẽ thu tay về đá đít thằng lùn này để dạy cho nó một bài học lịch sự. Dưới ánh trăng thượng tuần, Bobby chợt thấy hai hàm răng trắng ởn của gã nhe ra như loài ma sói. Gã cười bằng lòng và chàng chột dạ khi nhìn thấy nụ cười ma quái trong đêm. Bobby linh cảm một cái gì đó không rõ nét. Bất giác, chàng rùng mình. Giọng Medina lại vang lên:
- Tốt lắm, tốt lắm. Tôi biết tôi tin ông được.
Chàng nghĩ thầm, mày tin tao nhưng tao tin được mày lại là chuyện khác.
* * *
Cả bốn người ngồi vào bàn dùng bữa cơm chiều. Medina lầm lì ngồi ăn, hà tiện từng lời nói. Lâu lâu gã lại nạt nộ gã bồi làm tên này co rúm người như con cuốn chiếu. Đang ăn, gã ngoắc tay gọi một tên cận vệ đang đứng khoanh tay phía sau. Tên cận vệ bước nhẹ đến bên cạnh, lễ phép khom người nghe lệnh. Gã nói nhỏ vào tai tên cận vệ. Hắn lùi lại, cúi đầu chào, xoay người và biến mất sau cánh cửa kéo. Sheila nhíu mày nhìn Bobby. Chàng lắc đầu nhè nhẹ và bóp nhẹ cánh tay ngăn cản nàng đứng dậy đi vào phòng rửa mặt. Chưa đến lúc phải làm liều. Dư âm của cơn cuồng nộ vừa rồi vẫn còn đọng lại trên nét mặt Medina. Có lẽ gã đang nghĩ đến Havana của ngày tháng cũ, một thành phố chứng nhân cho cái chết của cha gã và mối thù không đội trời chung với thằng Castro và tên hầu cận. Vợ gã im lặng ăn, nhai nhỏ nhẹ như mèo, đầu hơi cúi và hình như Lucinda không dám ngửng mặt lên thì phải. Một người vợ Cuba tiêu biểu. Lucinda có thể đã chứng kiến những cơn giận dữ của chồng trước đây nên nàng biết thân biết phận không dám mở miệng nói một câu. Bobby cố phá tan bầu khí nặng nề bằng cách bắt chuyện nhưng nàng nở nụ cười méo mó trên môi rồi cúi gầm mặt xuống không bao giờ ngước lên nữa.
Bữa cơm nặng nề trôi qua, Medina búng tay và một gia nhân mang đến một cặp da có khoá. Gã trao cho Bobby:
- Tất cả những gì tôi cần đều nằm trong đó. Ông có thể giúp tôi được chớ?
- Tôi sẽ làm ông vừa lòng.
Giọng gã trầm hẳn xuống:
- Tôi có nghe đến một tay sống cùng thành phố với ông bà có thể bán những hàng tôi muốn nhưng lại khó móc nối.
- Ông đừng lo, tôi có cách.
- Ông Rogers cũng nói với tôi thế.
Đột nhiên gã im lặng, chìm vào dòng suy nghĩ. Một lúc sau, gã khẽ thở dài:
- Ông có biết tay này buôn bán đủ loại súng nhưng chỉ trọng tiền bạc chớ không bao giờ ủng hộ mục đích đấu tranh của tôi đâu.
- Sao ông biết? Hắn nói cho ông biết à?
Gã mỉm cười:
- Tôi có nguồn tin riêng. Thôi, bỏ chuyện đó đi. Tôi chỉ biết là họ khuyên tôi nên nhờ trung gian khi mua súng với tên này. Bởi vậy tôi cần đến ông.
- Tôi hiểu, vì thế tôi mới đến đây bàn chuyện.
- Thế thì tốt lắm. Bao lâu ông mới giao hàng?
- Độ vài tuần.
- Vài tuần thì được. Để xem, lâu quá thì… hay thôi, như thế này… hai tuần, hai tuần nữa ông giao hàng cho tôi. Được không?
Bobby gật đầu và đưa bàn tay ra. Gã lại chúm lấy mỏm tay của chàng. Cũng cái lối bắt tay kỳ quặc đó. Bỗng nhiên chàng cảm thấy mấy đốt ngón tay của gã lạnh băng. Lạnh ngắt như xác một người chết lâu ngày. Chàng khẽ rùng mình.
- Có tờ giấy ghi rõ những lọai hàng tôi cần. Trên đó có tên và số điện thoại. Người của tôi, tên Raoul. Từ bây giờ trở đi, ông chỉ liên lạc với Raoul và xin nhắc lại là không bao giờ ông đến tìm tôi nếu tôi không mời. Tôi phải nói rõ vì nguyên tắc bảo mật. Sau này, ông không biết tôi cũng như tôi không biết ông.
Phiêu lưu trong nghề này đã lâu, Bobby biết phải giữ những nguyên tắc căn bản để bảo vệ cho cả hai bên. Gã không dặn thì chàng cũng chẳng bao giờ muốn gặp lại làm gì. Thằng này có một cái gì đó không ngửi được nên chàng tự nhủ chuyến này là chuyến cuối cùng đi mua súng cho nó, lần sau cho dù có trả nhiều tiền hơn chàng cũng không làm. Gã dặn dò:
- Tiền cũng ở trong đó luôn. Ông thấy cần đếm lại không?
Chàng phất tay:
- Không cần, thưa ông. Làm ăn phải tin tưởng nhau chứ.
Gã xoa tay vào nhau, cử chỉ như lúc gã kể chuyện thanh toán thằng khủng bố Hamas, tỏ vẻ bằng lòng:
- Tốt quá.
Khoảng 15 phút sau, chiếc xe đen tuyền đã bon bon trên xa lộ đưa vợ chồng Bobby trở lại Fort Lauderdale. Chàng kể cho Sheila nghe ước mơ của Medina, và con người thật của gã theo lời kể của Solly, nàng rùng mình:
- Thằng đó ghê gớm thật.
* * *
Hai tuần sau, Sheila nằm tắm nắng trên bãi biển để mặc Bobby bàn chuyện với một thằng trung gian ở quán kế bên. Nghe cái tên thằng này là biết ngay món hàng cần mua: Bob Súng Máy. Cả hai ngồi mãi gần bìa quán sát bãi biển, một phần yên tịnh dễ bàn bạc, phần nữa chàng muốn lâu lâu nhìn chừng Sheila đang nằm phơi nắng. Từ hôm gặp thằng Medina về, chàng cứ nhấp nhổm không yên. Bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra. Cái nghề giao du với bọn buôn súng lậu kể ra thật nguy hiểm. Đôi khi bọn nó muốn bảo vệ bí mật, không cho ai biết việc mua súng; cũng có thể bọn nó tiếc tiền, muốn đoạt hàng tay trên; sẵn súng trên xe chúng đẹt cho chàng một viên là rồi đời. Ôi sinh nghề tử nghiệp, biết sao hơn bây giờ. Nhưng nếu chúng âm mưu dễ hại chàng và Sheila, chàng cũng không ngồi yên đó để chúng muốn giết lúc nào cũng được. Tao mà chết thì khối thằng bọn mày cũng phải chết theo, chàng nhủ thầm. Vì thế chàng phải soạn thảo kế hoạch kỹ càng. Duyệt lại mọi chi tiết đều thấy tốt đẹp cả, không có gì trục trặc nhưng sao trong thâm tâm chàng vẫn cảm thấy một cái gì đó không ổn trong việc mua bán này. Cẩn tắc vô ưu. Cứ cẩn thận vẫn hơn. Ngay chuyện gặp thằng Bob Súng Máy chàng cũng cẩn thận, không nói chuyện gì khác ngoài chuyện mua súng. Thằng này say mê chủ thuyết Quốc xã. Hắn lúc nào cũng mặc quần áo lính, vòng cổ và bông tai hình chữ vạn ngược, huy hiệu thời Hitler. Sheila hoàn toàn không ngửi được hắn; vì thế nàng mới bỏ ra ngoài này phơi nắng để mặc Bobby bàn chuyện.
Nàng thấy Bobby đứng dậy bắt tay thằng Súng Máy. Chắc mọi việc đã xong. Chàng đang đi về phía Sheila. Khi đến gần, con Hosh nhảy lên vẫy đuôi mừng chủ. Bobby cúi xuống vuốt ve mớ lông cổ. Lấy tay che ánh nắng, nàng nheo mắt hỏi:
- Xong rồi hả anh?
- Ừ! Nửa đêm ngày mai mình giao hàng.
Nàng vói tay chụp cái mũ rộng vành lên đầu:
- Em không chịu được bản mặt cái thằng Quốc xã đó.
- Anh cũng ưa gì nó. Mình cần nó để móc nối với thằng bán súng, thế thôi. Em đừng để ý đến nó. Lúc nào nó cũng trong tư thế chiến đấu, cứ như dân da trắng chuẩn bị một cuộc tấn công vĩ đại để diệt mẹ hết bọn da màu. Em chưa biết nó còn dùng xe díp lùn quân đội, đội mũ lính lái xe nữa kia. Kệ cha nó, xong việc tiền bạc sòng phẳng thì đường ai nấy đi.
- Đành vậy, nhưng giao du với những thằng như nó hèn người đi.
- Sheila, anh đã nói rồi. Mình đang cần nó, em biết không? Ai muốn mua hàng lớn đều phải qua thằng Súng Máy hết. Nhờ nó mình mới gặp thằng kia để lấy súng chớ. Trao tay xong là mình có 25 xấp, còn đòi hỏi gì hơn nữa em.
* * *
Chiều hôm sau, cả hai rong ruổi trên đường 84 về hướng Tây. Con Hoshi ngồi lên trên cái cặp da bên cạnh Bobby. Mắt chăm chăm nhìn ra ngoài cửa kiếng, Sheila đếm được cả chục trạm xăng dọc trên đường, những quán rượu tràn ngập xe vận tải ở bãi đậu, nơi bọn tài xế xuyên bang ghé lại xả hơi sau một ngày lái xe mệt nhọc. Bobby khều nhẹ nàng:
- Sheila, nhìn dùm anh cái quán ăn (diner) bên đường. Trông nó giống như cái toa xe (trailer). Đó là điểm hẹn mà chúng ta sẽ gặp Raoul, người của thằng Medina.
Vài ngày trước, khi nhận được cú phôn của Raoul nói về việc giao hàng, Bobby đã bàn bạc với nàng để dựng lên một kế hoạch an toàn, tương đối an toàn. Bobby đề nghị với thằng Raoul sẽ đậu chiếc xe van của chàng tại quán ăn, lái một chiếc vận tải loại trung do nó cung cấp, đến doanh trại mua súng, chất hàng lên và lái về; sau khi đổi xe cho nhau, thằng Raoul lái xe đầy súng đi (làm gì kệ mẹ chúng nó không cần biết!), còn vợ chồng chàng cũng lái xe mình đi với 25 nghìn bỏ túi, thế là xong.
Sheila vẫn dán mắt bên ngoài để tìm quán hẹn, tay vẫn vuốt mớ lông cổ con Hoshi, nàng băn khoăn:
- Bobby, em thấy không cần phải mang Hoshi theo. Chuyến này em cảm thấy lo âu làm sao ấy.
- Em không biết, con Hosh khôn lắm. Nó lai sói nên khôn ranh và dữ tợn không thua gì béc-giê của Đức. Có nó cũng đỡ được nhiều chuyện. Nếu có chuyện bất ngờ, nó sẽ báo cho biết trước chuẩn bị, hơn nữa khi đụng trận có thêm nó mình cũng đỡ lo. Phải không Hosh?
Hosh hình như hiểu được tiếng người, nó vẫy đuôi, dụi đầu vào bên hông chàng. Sheila kiểm soát lại khẩu Seecamp một lần nữa. Cái chất crôm lành lạnh không làm nàng khó chịu, trái lại nàng cảm thấy vững tâm hơn. Bobby nói:
- Cầm tay lái dùm anh.
Vẫn ngồi ở chỗ cũ, nàng vói tay giữ tay lái cố giữ cho chiếc van chạy ngay ngắn trên phân lộ phải. Bobby vòng tay sau lưng rút ra một khẩu CZ-75. Chàng kéo nòng kiểm soát lại ổ đạn, nạp nguyên một băng đầy, lên nòng trở lại rồi đút ngược phía sau lưng. Sheila nheo mắt:
- Em cứ tưởng anh tin thằng Medina.
Chàng chỉ tay vào người nàng, giọng nghiêm chỉnh:
- Anh chỉ tin một người duy nhất, em.
Cả hai lặng yên theo đuổi ý nghĩ riêng. Một lát sau, Bobby lên tiếng:
- Cái thằng bán súng cho mình cũng là một loại ngoại hạng. Để anh nói thêm cho em biết. Nó chủ trương chỉ có giống da trắng là đáng sống, còn các chủng tộc khác một là chết hai là làm nô lệ phục vụ giòng giống thuần chủng. Nó tôn thờ Hitler, quảng bá chủ thuyết Quốc xã, kêu gọi, xách động giống da trắng đứng lên xử dụng quyền lực (white power) của mình. Nó chiêu tập được một số thằng đầu trọc (skinhead) và phát-xít, sống sâu trong rừng, lập doanh trại, nuôi chó dữ, huấn luyện lính chuẩn bị một cuộc tấn công quy mô dành lại chính quyền cho người da trắng. Lâu lâu, nó lại tập trận, trùm mặt, đốt rụi cây thánh giá. Mấy thằng đi theo tôn phong nó làm giáo chủ và một mực trung thành với chủ thuyết da trắng. Thằng này đặc biệt ghét bọn đen nhưng ghét nhất là bọn Cuba, cỡ thằng Medina.
Bỗng Sheila chỉ tay về phía trước:
- Quán ăn đây rồi anh.
Bobby cho xe chạy chậm lại và quẹo vào bãi đậu xe. Bây giờ đang còn vắng chứ lát nữa đây khi chở súng về thì không biết bao nhiêu xe đổ dồn vào đây để bốc hàng, chàng nhủ thầm. Bobby lái vòng ra bãi đậu xe tối mịt phía sau quán ăn và đậu sát bên chiếc vận tải màu trắng. Chàng nói với Sheila:
- Em ngồi đây chờ anh.
Hosh bỗng nhỏm dậy, khẽ rít lên mấy tiếng và nhìn theo hướng chủ vừa bước xuống. Sheila vỗ vỗ vào gáy bảo nó nằm yên. Bên chiếc xe vận tải, một người đàn ông cũng bước xuống. Ngồi trong xe Sheila cố nhướng mắt để nhận diện người đàn ông nhưng bãi đậu xe tối quá nên nàng chỉ thấy dáng người hắn nhỏ thó khi đứng đối diện với thân hình lực lưỡng của Bobby. Hắn trao cho Bobby một vật rồi bước vòng ra phía trước quán ăn. Chàng quay về phía Sheila vẫy tay ra dấu. Nàng bước xuống xe với con Hosh, tay cầm theo chiếc cặp da. Bobby đã ngồi vào chỗ tài xế của chiếc vận tải trắng, nàng bước lên ngồi kế bên. Sheila huýt gió gọi Hosh. Không biết vì lý do gì nó cứ đứng nhìn chủ trân trân và bỗng nhiên Hosh cất tiếng sủa vang, chân lùi dần về phía sau.
Tiếng sủa vang lên rộn rã trong đêm thanh vắng làm náo động cả bãi đậu xe. Sheila mở cửa xe nhoài người ra ngoài gọi con chó. Hosh càng sủa dữ và bất ngờ nó nhảy chồm tới cắn vào gấu quần jean của nàng, kéo ngược trở lại. Bobby bối rối vì nếu nó cứ tiếp tục sủa ran thì chẳng mấy chốc mọi người ở quán ăn sẽ đổ dồn ra phía bãi đậu xe. Chàng gắt:
- Cái con khỉ này hôm nay lại dở chứng. Em dắt nó lên không thì hư chuyện mất.
Sheila nhảy xuống, nắm lấy vòng cổ và kéo con chó sền sệt lên xe. Nó ghìm hai chân lại, nhất định không chịu theo ý nàng. Cuối cùng, nàng cũng bế được nó lên, vỗ về:
- Chuyện gì vậy con?
Bobby lại gắt lên, giọng bực tức thấy rõ:
- Mày có im đi không hả Hosh. Tao cho mày ở lại bây giờ.
Nó hiểu được tiếng chủ, không ghì hai chân xuống sàn xe nữa nhưng miệng lại rít lên những tiếng thảm thiết. Hình như nó muốn nói với chủ điều gì đó mà không sao diễn tả được. Nằm bên cạnh Sheila nhưng con Hosh vẫn nhấp nhổm không yên, lâu lâu nó lại rên khe khẽ. Bobby nhăn mặt không để ý đến cử chỉ của con chó lai nữa. Chàng lấy chùm chìa khóa Raoul vừa mới đưa và giải thích cho Sheila hiểu:
- Nó đưa cho anh hai cái máy phát tín từ xa (remote transmitter). Một cái dùng để nổ máy và khoá hai cánh cửa phía trên. Một cái dùng để khoá cánh cửa ở phía đuôi xe đề phòng có đứa nào lén mở cửa sau đánh cắp hàng.
Chàng đưa cho Sheila thấy cái hộp nhỏ phát tín hiệu có dán băng màu trắng. Bobby nhấn nút, nghe tiếng click, mọi cánh cửa trước khoá chặt, hai ngọn đèn pha ở đầu xe chớp tắt báo hiệu hệ thống báo động đã hoạt động, máy xe cũng sẵn sàng. Chàng đề máy. Xe chở hàng quốc cấm có khác. Đề là nổ liền, tiếng nổ tròn trịa và êm ru. Sheila thắc mắc:
- Còn cánh cửa sau thì sao?
Bobby chìa cho nàng thấy một cái hộp khác có dán băng màu đỏ để phân biệt:
- Thằng Raoul dặn rất kỹ. Sau khi chất hàng lên xe là phải bấm nút này liền không cho thằng nào mở cửa sau leo lên vì bất cứ lý do gì. Nó dặn mãi đừng bấm chậm, đừng bấm sớm; cứ nhận hàng đầy đủ thì mới bấm. Cha tiên sư mấy thằng Cuba, có mỗi cái máy phát tín mà nó cứ dặn đi dặn lại hoài. Nó cứ làm như mình ngu lắm không biết xử dụng mấy cái hộp thổ tả này vậy.
Chàng lui xe và chạy vòng ra phía trước, rời bãi đậu xe. Giây phút quan trọng đã đến. Lên đường lao mình vào cuộc phiêu lưu đầy hiểm nguy. Qua kiếng cửa sổ, chàng chợt thấy thằng Raoul ngồi một mình ở quầy hàng, nhâm nhi ly cà phê. Bobby lẩm bẩm:
- Lát nữa lái về giao cho nó cái chìa khoá xe rồi về nhà làm một giấc cho đã con mắt.
Bobby dự định sau chuyến mua súng chàng và Sheila sẽ đi thoát khỏi nơi này, đến một nơi thật xa, tha hồ yêu nhau để bù lại những giây phút căng thẳng. Chàng chợt nghĩ đến căn phòng ấm cúng và Sheila trong bộ đồ ngủ hình mắt cáo khêu gợi từ phòng tắm bước ra…
* * *
Mười lăm phút sau, Bobby lái xe vào một con đường mòn cây cối mọc chằng chịt hai bên đường. Những cành cây thông và tàn hoa dại đập vào kiếng xe nghe bần bật. Phía bên trái, những ngọn đèn xanh loé lên rồi biến mất. Mắt nai. Chàng không ngờ khu vực này nhiều nai đến thế. Độ một lúc sau, quãng đường tương đối quang đãng hơn nhưng gập ghềnh. Có lẽ ổ gà hoặc những mô đất đắp cố ý trên đường để xe phải chạy chậm lại. Bobby chợt thấy một tấm biển khá lớn bên vệ đường: KHU VỰC HẠN CHẾ, TRẠI DA TRẮNG THUẦN CHỦNG, TOM MILLER. Qua ánh đèn xe lấp loáng, chàng thấy một căn nhà bằng gỗ đứng sừng sững, bên cạnh là căn nhà chòi làm bằng vỏ nhôm, sơn màu xanh đậm và nâu như màu quần áo lính Thuỷ Quân Lục Chiến.
Bobby đậu xe cách căn nhà vài mét. Đèn trước hiên bật sáng và một người to lớn, phải nói khổng lồ mới đúng, xuất hiện ngay trước ngưỡng cửa. Chàng độ chừng hắn ít nhất phải cao 6’6’’, và nặng ít nhất 300 cân Anh. Khuôn mặt của gã khổng lồ trông ma quái, bộ râu quai nón rậm che kín nửa mặt, đi đôi giày lính, cái tạp-dề trên người che kín từ ngực xuống cái bụng phệ. Chàng dặn vội Sheila:
- Em cứ ngồi đây. Nếu trong 10 phút anh không đi ra thì em lập tức lái xe chạy ra khỏi cái ổ quỷ này gấp.
Nàng rút trong túi ra khẩu Seecamp:
- Mười phút nữa không thấy anh em sẽ xông vào.
- Trời ơi! Em có điên không. Đây là ổ chứa súng, em đưa cái đồ chơi con nít ra dọa bọn nó à! Đừng dại mà chết chùm. Em cứ thoát khỏi đây còn anh sẽ có cách. Nghe anh đi.
Nàng thở dài:
- Thôi được rồi, em nghe lời anh nhưng anh phải cẩn thận.
Bobby bước ra khỏi xe và tên khổng lồ tiến lên, theo sau là con pitbull trắng, cao cỡ con Hosh nhưng dáng to lớn kềnh càng hơn. Ngồi trong xe, Hosh đánh hơi được chó lạ, nó cụp tai chồm dậy, hai chân trước đứng thẳng, cổ họng gầm gừ nhe hàm răng trắng ởn, tư thế sẵn sàng lâm trận.
Sheila hồi hộp theo dõi từng bước của chàng. Cả hai đứng đối diện, trao đổi dăm ba câu, bắt tay và tên khổng lồ gần như ôm choàng lấy Bobby. Bằng hai ngón tay, hắn nhón lấy khẩu súng khỏi dây lưng của chàng và thảy ngay vào bụi cây bên cạnh. Hắn quàng cánh tay hộ pháp qua vai Bobby và dẫn chàng đi về phía căn nhà chòi. Người Bobby gần như lọt thỏm vào trong cánh tay hộ pháp của hắn. Lần đầu tiên trong đời, nàng chợt thấy thân hình Bobby nhỏ bé hẳn lại.
Mớ lông cổ con Hosh bỗng dựng đứng, cổ họng thoát ra những tiếng gầm gừ. Sheila gãi gãi phía sau tai nhưng nó vẫn nhìn theo hướng Bobby. Bóng của chàng và tên khổng lồ cùng con chó biến mất sau cánh cửa của căn nhà chòi.
Nàng vỗ về:
- Bình tĩnh, Hosh, mọi việc sẽ đâu vào đó.
* * *
Bên trong căn nhà, Tom Miller, tên chủ doanh trại, người cầm đầu lũ phát-xít, thân mật giới thiệu con chó với Bobby:
- Tôi gọi nó là Đại Cẩu. Rất trung thành. Cũng thuộc giống da trắng thuần chủng đó cha.
Một tay xoa đầu con Đại Cẩu, hắn nháy mắt chàng, miệng cười tủm tỉm:
- Giống da trắng chúng mình phải biết đoàn kết, đúng không Bobby.
Rồi hắn phá lên cười như bị ai thọc léc:
- Mày cứ nựng nó đi. Đại Cẩu rất ngoan, không cắn chết ai đâu trừ khi tao ra lệnh.
Chàng cúi xuống vỗ nhẹ lên đầu con chó làm quen. Thật đúng là vật cũng như chủ, khuôn mặt lạnh lùng, hắc ám. Thân hình con Đại Cẩu đầy những vết sẹo, có lẽ kết quả những lần nghe+ lệnh chủ tấn công địch thủ. Hàm răng loại chó pitbull nổi tiếng là sắc và nhọn. Hai tai bị sứt mẻ nhiều chỗ nhìn không còn hình dạng bình thường nữa. Tròng mắt vàng khè, quắc lên dữ tợn. Chàng ngẩng mặt lên khi Tom nhíu mày thắc mắc:
- Bobby Squared. Họ gì nghe lạ quá?
Chàng suy nghĩ thật nhanh, trước sau gì hắn cũng biết. Hắn tưởng lầm chàng là người da trắng nhưng nó không phải loại ngu, chàng không thể dấu mãi được. Chi bằng nói ra gốc gác của mình kẻo đến khi hắn khám phá ra chàng nói dối thì hậu quả không biết đâu mà lường với cái thằng mang nặng chủ nghĩa độc tôn trong đầu. Bobby nhìn thẳng vào mắt tên khổng lồ, giọng bình tĩnh:
- Đúng ra tên tôi là Robert Redfeather. Khi còn ở trong khu tập trung của người da đỏ.
- À! Mày đổi tên. Nhưng tên cũ hay đó chớ, đổi làm gì. Da đỏ cũng thuộc dòng giống quý phái đó, đáng được sống. Bọn da trắng tao đáng lẽ không nên chiếm đất này làm gì, cứ để cho bọn mày sinh sôi nẩy nở.
Hắn phá lên cười nắc nẻ. Giọng cười nghe rổn rảng như tiếng chuông. Tiên sư cái thằng da trắng, không biết ý nó thế nào. Nó có mỉa mai mình không đây? Có thật nó muốn dân tộc da đỏ lan tràn trên mảnh đất màu mỡ này không? Nếu không đoán được ý nó thì chàng phải cẩn thận, không thể nói hớ. Hắn bỗng ngưng cười, hất đầu:
- Đi, vào đây, thằng da đỏ, tao đã chuẩn bị hàng cho mày rồi.
Tom dẫn chàng di sâu vào phía trong. Hoá ra bên ngoài trông lụp sụp nhưng bên trong nở rộng ra hình cánh quạt. Càng vào sâu càng nóng, chàng ngửi thấy mùi nấm dại, cỏ khô và cả mùi cứt ngựa nhưng nồng nhất là mùi dầu súng. Bobby bước ngang một cái bàn khá lớn, trên đó sách vở và giấy tờ nằm la liệt. Những tựa đề trên bìa cuốn sách giữ bước chân chàng chậm lại: Thư Gửi Các Bạn Da Trắng, Tình Huynh Đệ, Nhật Ký Tranh Đấu Cho Quyền Lực Da Trắng, Lệnh Giáo Chủ Tom Miller. Hắn lôi ra trong kệ tủ một cuốn sách có tên Kinh Điển Adolf Hitler, khoe với chàng:
- Một người vĩ đại, phải không mày?
Chàng ậm ừ cho qua chuyện. Hắn nháy mắt với chàng lần nữa rồi vung cánh tay hộ pháp chỉ về phía cuối phòng. Bobby nhìn thấy một bàn dài thô sơ, một bục gỗ đứng chơ vơ bên cạnh. Nhìn sâu vào phía trong, một lá cờ phát-xít phủ kín cả bức tường, ngay giữa tấm hình bán thân Hitler đang trố mắt nhìn. Có lẽ căn phòng này dùng làm nơi tuyên thệ những hội viên mới gia nhập. Hắn giải thích:
- Mấy cái thằng theo tao lại thích những trò rẻ tiền này. Đứng nghiêm trang chào Hitler, chữ vạn, đốt thánh giá. Có thế bọn nó làm việc mới hăng. Tao dễ tính lắm, muốn thì cho chẳng mất mát gì, có điều phải tuyệt đối trung thành với chủ thuyết của tao.
- Ông là giáo chủ hả?
- Đúng thế. Chủ thuyết phải có giáo chủ mới mưu đồ việc lớn được chớ.
- Thế hội viên đồng ý tôn ông làm giáo chủ à?
- Cần đếch gì thằng nào, tao tự phong cho tao, ngay trong căn phòng chó chết này. Mẹ cha mấy cái thằng ngu theo tao mà cứ tôn thờ Hitler, trong khi thằng này đã chết từ lâu. Kiếm người sống mà tôn thờ chớ theo mấy cái xác chết làm gì. Tao đang còn sống đây, xứng đáng để bọn nó tôn thờ lắm chớ, tìm kiếm đâu xa. Tao tính rồi, bỏ cái hình của thằng Hitler xuống, treo hình của tao lên để cho mấy thằng đần độn cúi chào dần dần cho quen đi. Tao là giáo chủ, bọn nó phải tôn thờ tao.
Hắn say sưa nói, khuôn mặt ma quái của hắn trông lại càng rùng rợn hơn. Sự đam mê quyền lực chích vào máu hắn những tư tưởng điên cuồng, không còn chút nhân tính. Sống mãi trong cái thế giới đầy ảo tưởng về một uy quyền tuyệt đối nên hắn đâm nghiện cái ý nghĩ một ngày nào đó tất cả những người da trắng tôn hắn làm giáo chủ, trung thành tuyệt đối và sẵn sàng chết cho hắn. Bobby không dám hé môi cắt đứt dòng tư tưởng điên rồ mà chỉ mới nghe thôi chàng đã thấy lợm giọng. Thằng Tom còn bệnh hoạn hơn cả thằng Medina nữa. Hoá ra những thằng say mê quyền lực đều bệnh hoạn giống nhau; chỉ khác thằng bệnh nặng thằng bệnh nhẹ. Thế giới này còn may mắn vì những thằng như thằng Tom và Medina chưa nắm được quyền lực trong tay. Ngày nào chúng lên ngôi ngày đó chắc chắn nhân loại sẽ bị cáo chung.
Hắn chợt choàng tỉnh, quay về với thực tế:
- Hôm nào tao sẽ nói thêm về chủ thuyết của tao. Hay lắm. Mày nghe một lần thôi tao bảo đảm sẽ mê. Mày thấy chủ thuyết cộng sản không, nghe quyến rũ lắm vậy mà chết tức tưởi không kèn không trống, cái chủ thuyết mà thằng Castro đang bám víu ở Cuba, kéo biết bao nhiêu người vào cõi chết nhưng chủ thuyết của tao lại khác, thực tế và quyến rũ hơn nhiều. Thôi, bỏ chuyện đó đi, đến đây tao cho mày thấy cái này.
Hắn kéo chàng vào một căn phòng nhỏ hơn đối diện. Trong phòng toàn là những thùng các-tông chất cao đến tận trần nhà. Bobby đọc thấy những hàng chữ trên mấy thùng giấy: BRNO, HÀNG TIỆP-KHẮC; HÀNG QUÂN ĐỘI DO-THÁI; LLMA GABILANDO, HÀNG TÂY-BAN-NHA; NORINCO, HÀNG NHÂN DÂN TRUNG-QUỐC; BERETTA, HÀNG Ý-ĐẠI-LỢI. Tom mở thùng giấy hàng của Tiệp và lôi ra một khẩu AK-47 còn mới toanh:
- Mày muốn loại hàng này phải không?
Khẩu AK-47 khá cồng kềnh thế mà nằm lọt thỏm trong bàn tay hắn như một món đồ chơi. Đột nhiên, hắn nâng khẩu súng lên, nhắm ngay giữa trán Bobby và thản nhiên bóp cò. Cắc một tiếng. Tất cả những động tác hắn làm quá nhanh nên Bobby không thể nào trở tay kịp. Chàng đứng sững đến khi nghe tiếng cắc mới hoàn hồn thở ra nhè nhẹ. Hắn phá lên cười sảng khoái. Giọng cười rền rĩ của hắn dội vào bức tường nhôm trong căn phòng tù túng xoáy vào màng nhĩ nghe chát chúa như tiếng súng liên thanh nổ dòn bên tai. Mẹ cha cái thằng này, ngay tiếng cười của hắn nghe đã khiếp sợ rồi; hắn mà quát lên thì mái nhà chắc phải bật tung. Hắn ngưng tiếng cười, thảy khẩu AK cho Bobby rồi mở tung những hộp giấy còn lại. Nào là CZ-75, súng lục, Uzis, và khẩu Llama 45. Hắn nói:
- Toàn là thứ tốt trừ khẩu Llama. Bọn tao không thích loại này. Những gì thuộc về bọn Sì là tao không ưa. Còn mấy cái này tao cho mày xem luôn.
Từ nãy giờ tên giáo chủ cuồng tín nói huyên thuyên, không cần biết chàng có lắng nghe hay không. Hình như lâu ngày không có ai thổ lộ nỗi niềm nên khi vớ được một người kiên nhẫn nghe như Bobby, hắn nói cho thỏa thích. Mà không kiên nhẫn cũng không được, thật tâm Bobby không muốn làm hắn mất lòng. Chàng chỉ muốn lấy hàng, giao tiền rồi chạy gấp ra khỏi khu vực ma quái của thằng điên Tom càng sớm càng tốt. Mặc dù nghĩ thế nhưng chàng vẫn tỏ ra sốt sắng theo sát bước chân hắn. Tom hăm hở tiến đến cái tủ chìm trong tường. Hắn đẩy cửa tủ, Bobby đếm được 10 hộp sắt to chứa toàn lương khô chất chồng lên nhau, cái giá treo toàn áo có chóp mũ bằng sa-tanh đủ màu sắc, loại áo choàng của đảng Ku Klux Klan (đảng cực đoan phân biệt chủng tộc). Hắn vênh váo:
- Mày thấy không, đủ màu, hôm thì mặc xanh, có bữa khoác màu vàng nhưng tao thích nhất là màu đỏ. Giáo chủ như tao phải mặc màu đỏ trông mới nổi giữa buổi họp. Còn đây là cái tao muốn nói với mày.
Hắn vói tay lên cái kệ ở phía trên giá áo lấy xuống một hộp khá lớn. Mở nắp, hắn cẩn thận bóc từng lớp giấy nằm phía trên để lộ lớp vải pha trộn nhiều màu. Tom trịnh trọng nâng tấm vải bằng hai tay, nắm lấy hai góc và rũ mạnh.
Một lá cờ Cuba hiện ra trước mắt Bobby. Ba sọc xanh, hai sọc trắng, hình ngôi sao trắng nằm giữa tam giác đỏ. Đúng là màu cờ Cuba. Lá cờ trông bẩn thỉu và sờn rách nhiều chỗ; lấm tấm đen vì thuốc súng, nền vải khô cứng vì thấm máu. Mắt hắn đăm đăm nhìn lá cờ như một bảo vật:
- Tao chiến đấu vì lá cờ này. Đời phải có một lý tưởng để nhắm tới, phải không mày. Và lý tưởng duy nhất của tao chính là lá cờ Cuba. Tao luôn mang theo bên người. Cái trận Sierra Maestra mới thật kinh hoàng, người chết như rạ nhưng tao quấn lá cờ này trong người dẫn đoàn quân cách mạng xung phong đánh bại bọn phò đế quốc. Nhờ chiến thắng này làm bàn đạp, tao thống lĩnh quân cách mạng tiến vào Havana, rồi lật đổ thằng độc tài Batista luôn. Mày biết không, ngày cách mạng thành công dân chúng Havana đổ ra đường đông không thể tả, họ bu lấy tao, tung hô vạn tuế, tôn vinh tao như thượng đế. Họ cứ la lên: Tom muôn năm, Tom muôn năm. Trời ơi, mỗi khi nhớ lại ngày đó, người tao cứ lịm đi vì sung sướng. Tao bỏ nước Mỹ đi làm cách mạng cho dân Cuba cũng chỉ mong một đất nước Cuba mới hơn, phồn thịnh hơn. Mày thấy chưa, lý tưởng cao đẹp lắm chớ…
Hắn bỗng nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống sàn, giọng gay gắt:
- …vậy mà thằng thổ phỉ Castro trả công cho tao thế nào mày biết không? Chờ cho đoàn quân cách mạng của tao đánh đuổi sạch bọn Batista, nó đến Havana hai ngày sau, vinh quang bước vào thủ đô cứ như nó thống lĩnh đoàn quân chiến thắng không bằng. Tiên sư cái thằng cướp của giết người, nó bày đặt gắn cho tao cái huân chương chó chết trong buổi lễ mừng cách mạng thành công, và cỡ hai trăm ngàn dân chúng tham dự hoan hô tao tưng bừng: Tom! Tom! Nó ghé sát tai tao hỏi nhỏ: “ông có nghĩ ông vĩ đại hơn tôi không, Tom?” Tao không biết phải trả lời ra sao nữa. Tao có quyền gì cấm dân chúng hoan hô tao đâu. Họ ngưỡng mộ tao vì công lao tao bỏ ra cho cách mạng. Cái thằng chó chết lại đi ganh tị với tao. Từ đó, nó sắp xếp tao trông coi tiểu đội hành quyết, một tiểu đội chỉ đi giết những thằng phản cách mạng. Trời ơi, tài năng như tao mà cả ngày chỉ đi lùng người để giết, thế còn gì là thể thống. Thằng đê tiện, nó cố ý làm nhục tao. Tao đề nghị là lính của thằng Batista không có tội gì, nên quý người của nước mình, cho chúng gia nhập đoàn quân cách mạng để giữ gìn đất nước luôn. Thế mà nó không chịu, cứ sai bọn tao đi kiếm người để giết, giết cho bằng hết. Tao không dám cãi lệnh nhưng cũng không khuyến khích, cứ để cho mấy thằng thuộc hạ của tao muốn làm gì thì làm. Chỉ duy nhất có một lần, chính tao cầm súng bắn chết một thằng…
Giọng tên giáo chủ phân biệt chủng tộc hòa hoãn hơn, hắn lắc đầu như không muốn nhớ lại chuyện cũ:
- …thằng Fidel sửa soạn giết nó. Nghĩ cũng tội, thằng thổ phỉ bắt vợ con nó đứng giữa trời nắng để chứng kiến cảnh hành quyết. Bắt vợ con đứng chứng kiến cái chết của chồng cha thì dã man quá. Mà bọn cộng sản đứa nào cũng vậy, nó nghĩ ra những cách mới lạ để giết người, để hành hạ kẻ khác. Thằng Fidel lại có biệt tài này, đúng hơn nó có cái thú nhìn địch thủ quằn quại trong đau đớn. Cái thằng hèn sai lính đập vào ống khuyển bắt nó quỳ mọp xuống nhưng phải công nhận nó can đảm thật. Mày không ngờ nó thách thức Fidel có can đảm giết nó không? Nó ngang nhiên nhìn thẳng vào mắt thằng Fidel rồi nói nếu mày còn là người thì một chọi một với tao. Mặt thằng Fidel bối rối thấy rõ. Tiên sư cái thằng hèn nhát, ngon thì bắn mẹ nó đi, đằng này nó lại quẳng cho tao khẩu P.38, loại của bọn phát-xít, rồi ra lệnh cho tao xử tử thằng phản cách mạng. Không còn cách nào khác, tao đành phải đẩy một viên giữa hai con mắt cho vừa lòng thằng Fidel. Hai tuần sau, chính thằng khốn nạn lại ký giấy bắt giữ tao vì tội giết người, thế có ức không. Tao đành phải bỏ hết sự nghiệp cách mạng, leo lên thuyền vượt biên đến Miami.
Khi quay lại, Bobby thấy đôi mắt hắn đẫm lệ. Chàng không ngờ một con người cao ngạo sắt đá như hắn lại có lúc lệ rơi. Không biết hắn khóc vì thương tiếc những ngày tháng vàng son cũ hoặc khóc vì bị một tên cao ngạo khác đối xử tệ bạc. Hắn nghiến răng:
- Sau lần đó, tao không còn tin vào một lý tưởng nào nữa ngoại trừ lý tưởng do chính tao tạo ra. Cha tiên sư mấy thằng ăn cháo đá bát. Bọn Do-thái, bọn khủng bố Hamas, bọn đòi tự trị Ái-nhĩ-lan (IRA), bọn Ulster Defense Forces. Cha bọn bay, tao đếch cần thằng nào, tao sống với lý tưởng của tao. Muốn giết nhau tao cho giết. Tao cung cấp súng cho bọn mày giết, tha hồ giết. Giết gần hết thì đến phiên tao, tóm hết về một mối cho chủng tộc da trắng.
Cuối cùng hắn gằn giọng:
- Đứa nào muốn mua súng tao cũng bán hết nhưng tuyệt đối tao không chơi với mấy thằng Sì, nhất là mấy thằng Cuba. Tao không ngửi được bọn nó kể từ ngày tao bị thằng Fidel đá ra khỏi nước. Mấy thằng Sì khoái chém giết nhau lắm. Không có súng chúng nó cũng kiếm cách khác giết nhau. Không những giết mà còn giết đẹp nữa kìa.
* * *
Khi Bobby xuất hiện ở ngưỡng cửa căn nhà chòi với chiếc xe đẩy chất đầy thùng, Sheila mới thở phào nhẹ nhõm. Chàng ra dấu cho Sheila de đuôi xe ngay tầm cửa để chất hàng cho dễ. Nàng nghe tiếng cửa sau mở và những thùng hàng rơi mạnh lên sàn xe làm chiếc vận tải lắc lư sóng sánh. Sheila đốt một điếu thuốc và liếc mắt thấy con pitbull ngồi ngay dưới cửa xe, ngước mắt nhìn lên. Mẹ cha con chó khôn thật, không biết nó ngồi làm gì, hay là canh chừng theo lệnh của chủ. Hoshi leo lên đùi nàng nhìn xuống, cào móng sắc vào kiếng xe nghe rào rạo, miệng rít lên tức giận. Nàng vỗ nhẹ vào đầu con Hosh:
- Không sao… không sao, kệ nó con…
Chẳng bao lâu những thùng súng ống chất đầy lòng xe, cao gần đụng trần. Tiếng cửa sau đóng mạnh. Sheila quay cửa kiếng xuống để trao cho chàng cái cặp da. Bobby đếm đủ số tiền đã giao ước, trả lại cái cặp da cho Sheila và trao xấp bạc cho tên giáo chủ:
- Rất mong sẽ có dịp giao dịch với ông trong một ngày rất gần.
- Tao cũng mong thế, Robert Redfeather.
Có lẽ chẳng bao giờ có lần sau nữa. Thằng này không được bình thường. Làm ăn với một thằng bệnh hoạn mất hết nhân tính như nó chắc chắn lành ít dữ nhiều. Chàng chỉ muốn bước nhanh ra khỏi doanh trại của thằng Tom với 25 nghìn nằm trong cặp da Sheila đang giữ chặt trong tay. Bobby mở cửa bên phía tài xế định leo lên nổ máy thì nhanh như chớp, con Hoshi phóng ra ngoài. Chàng la lớn:
- Quay lại ngay, Hosh.
Nhưng nó không còn nghe gì nữa. Hình như nó chỉ đợi có giây phút này. Hoshi nhảy bổ vào người con pitbull. Vừa phóng tới là con Hosh nhe hàm răng trắng ởn tấn công con Đại Cẩu. Con này cũng không vừa, trải qua bao nhiêu trận giao chiến nên nó bình tĩnh né người sang bên làm con Hosh hụt đà đâm tới trước. Đại Cẩu chồm theo. Móng vuốt nó giương ra vả vào mặt con Hosh. Cái nhanh nhẹn của loài sói giúp con Hosh tránh được cú tát nguy hiểm. Để cho con pitbull cào trúng mặt, ít nhất một con mắt phải bị móc theo. Cả hai con chó quấn vào nhau, cào cắn, cấu xé. Nhìn chung, con Hosh nhanh nhẹn hơn nhưng lại yếu sức hơn vì con Đại Cẩu tướng người bề thế, to lớn. Bằng một cái xoay người, con Hosh lách khỏi một cú tấn công của con Đại Cẩu và hàm răng của nó cắm phập vào lưng kéo theo một mảng thịt, máu chảy ướt đẫm lưng. Ngửi được mùi máu, con Đại Cẩu rít lên điên cuồng và với tất cả sức mạnh nó hất con Hosh ngã ngửa và hai hàm răng cứng như sắt ngoạm ngay lấy cổ con Hosh day mạnh, máu đổ thấm ướt mớ lông trắng. Đến lúc này thì cả Bobby lẫn thằng Tom xúm vào kéo hai con chó ra. Chúng gầm gừ, dãy dụa muốn thoát khỏi vòng tay chủ để xông vào cắn chết địch thủ. Sheila đã nhảy xuống xe, tay lăm lăm khẩu Seecamp chĩa vào con Đại Cẩu. Bobby bồng con Hosh lên, ôm chặt vào người. Tên giáo chủ quỳ một gối, tay ôm gọn con chó, miệng kêu than rền rĩ, “Đại Cẩu, Đại Cẩu”.
Con pitbull đang còn tức giận. Nó muốn trườn ra khỏi vòng tay của thằng Tom nhưng Bobby đã bồng con Hosh leo lên xe. Sheila kéo con chó cưng nằm lên lòng mình trong khi chàng nổ máy, lui xe chạy ào ra khỏi khu vực của tên giáo chủ điên cuồng. Bobby hỏi:
- Nó có sao không?
Sheila moi trong bóp ra một tấm khăn nhỏ, đè mạnh lên vết thương để máu khỏi chảy:
- Không sao, may là lôi ra kịp không thì nó cắn chết con Hosh rồi.
Chàng nhìn vào kính chiếu hậu và thấy thằng Tom vẫn quỳ ôm con chó. Cha tiên sư cả chủ lẫn tớ đều điên khùng như nhau, Bobby lầm bầm. Chàng không còn mong gì hơn, thoát khỏi tổ quỷ đó với 25 nghìn trong tay, đủ dung dăng dung dẻ một thời gian với Sheila. Độ tiếng đồng hồ nữa, giao chìa khóa lại cho thằng Raoul, thế là xong. Chẳng bao lâu, chiếc xe vận tải đã thoát khỏi con đường mòn tiến vào xa lộ 84, đi ngược về hướng đông. Sheila cúi xuống xem xét vết thương trên cổ con Hosh. Máu đã ngừng chảy nhưng vết cắn khá sâu, phải mất một thời gian mới lành. Nàng ôm lấy con chó nựng nựng. Hosh cũng hiểu được lòng người chủ thương mến, nó dụi đầu vào ngực nàng, miệng rít lên khe khẽ. Bobby cười sảng khoái:
- Mày ngon lắm nghe Hosh, dám tấn công con Đại Cẩu. Còn em, sao hồi nãy không bắn chết mẹ nó đi cho rồi.
- Nó chỉ là con vật thôi, anh. Hơn nữa con Hosh lại tấn công trước mà.
- Nếu không kéo ra thì nó cắn nát cổ con Hosh.
- Lúc đó thì em sẽ cho nó một viên ngay.
* * *
Hai giờ sáng, Bobby lái chiếc vận tải về đến quán ăn. Bãi đậu đã đầy nghẹt xe, giờ của mấy tay tài xế lái xe đường trường ghé ăn uống, nghỉ ngơi. Trong quán, người người chen chân, ngồi choán hết chỗ. Chàng đậu chiếc vận tải ngay sát chiếc van trắng của chàng. Bobby nói:
- Thằng Raoul ở trong quán, anh vào kiếm nó đưa chìa khoá rồi chúng mình dông.
Sheila nhìn xuống chiếc áo đã khô cứng vì dính máu từ vết thương con chó cưng:
- Thôi, em vào luôn với anh. Em phải chùi vết máu trên cổ con Hosh, trên áo em nữa.
Chàng kẹp chiếc cặp da vào nách còn Sheila bồng xốc con Hosh lên bước vào quán. Nàng lách người đi về phía hông quán. Một cô chạy bàn chận Sheila lại nói không được mang chó vào đây. Nét mặt lầm lì, nàng không thèm trả lời, lầm lũi bồng chó đi thẳng vào phòng vệ sinh, miệng lầm bầm nói con nhỏ nhiều chuyện. Khách quá đông nên cô chạy bàn không có thì giờ để chất vấn nàng. Trong khi đó Bobby nhìn ngang nhìn ngửa để kiếm thằng Raoul. Quán khách ngồi đông nghẹt nên chàng tìm mỏi mắt mà vẫn chưa thấy nó. Trước khi đi chàng nhớ thấy nó ngồi nhâm nhi ly cà phê ở quầy hàng, vậy mà bây giờ không thấy tăm hơi nó đâu cả. Mẹ cha cái thằng này, nó có nhiệm vụ phải ngồi đợi chàng để nhận hàng, ít nhất phải đến 3 giờ sáng. Mấy thằng tài xế ngồi ăn uống ngồm ngoàm, nói văng tục, cười hô hố; lâu lâu lại đưa cặp mắt khó chịu nhìn Bobby, tay xách cặp da và tóc cột đuôi ngựa treo lủng lẳng, đang đảo mắt nhìn như muốn chiếu tướng. Chàng đã nghe loáng thoáng trong bọn có thằng lẩm bẩm chưởi xéo chàng là đồ đồng tính luyến ái. Bobby bắt đầu sốt ruột, chàng chỉ mong gặp thằng Raoul trao cho nó chùm chìa khoá và bước ra khỏi quán không muốn dây dưa thêm chuyện với bọn tài xế. Bobby gọi giật một con nhỏ chạy bàn:
- Này em, từ nãy giờ có thấy thằng Nam Mỹ nhỏ nhỏ người ngồi ở đây không?
Con nhỏ chu môi thổi ngược mớ tóc loà xoà trước trán:
- Trời ơi, làm không hết việc thì giờ đâu để ý đến mấy thằng thổ dân quê mùa đó.
Một con khác õng ẹo gợi tình:
- Cưng ơi, em bị mù từ khi còn nhỏ nên có thấy thằng Nam Mỹ nào đâu, chỉ thấy anh là mắt em sáng liền hà.
Đứa nữa đứng đắn hơn:
- Độ hai tiếng trước, hắn ngồi đây uống cà phê, đi gọi phôn cho ai đó rồi bỏ đi thẳng.
Chàng nghĩ chắc thái độ thô lỗ của mấy thằng tài xế làm nó ngại không muốn ngồi lâu. Thì chính chàng cũng không thích đụng chạm với mấy thằng dùi đục này. Cái thằng chết nhát, không thì ra ngoài quán chờ chàng chứ lại bỏ đi mất biệt. Không có nó thì chàng biết giao hàng cho ai đây. Đã đến lúc chàng phải gọi điện thoại về nhà để xem có lời nhắn nào không. Bobby hỏi phòng điện thoại công cọng, cô ta chỉ tay về phía cuối quán.
Bục điện thoại đặt gần cửa sổ, nhìn ra bãi đậu xe phía sau. Bobby quay số, tiếng chuông reo vang lên từ phía bên kia đầu giây. Liếc mắt nhìn qua cửa sổ, chàng thấy chiếc van quen thuộc và chiếc vận tải chất đầy súng đậu quay đuôi về phía quán ăn. Bobby chợt nhớ lại lời dặn của thằng Raoul. Chàng lạnh người. Hắn dặn đi dặn lại khi chất hàng xong phải bấm nút để khóa cửa sau, hoạt hoá (activate) hệ thống báo động. Vậy mà từ lúc ở sào huyệt của thằng Tom, vì chuyện con Hosh cắn nhau với con Đại Cẩu, chàng quên khuấy mất chuyện này. Đậu xe ở bãi sau, khuất mắt mọi người mà cửa không khoá lại càng chết. Một thằng nào đó đi ngang tò mò mở cửa rồi tri hô lên thì chết cả đám. Chàng lầm bầm chưởi thề, cuống quýt lôi trong túi ra cái hộp nhỏ phát tín hiệu có dán băng màu đỏ, chìa ra phía cửa sổ và bấm nút.
Chàng nhìn thấy rõ ràng đèn hậu nháy hai lần, nghe tiếng choóc báo hiệu hệ thống báo động đã hoạt hoá và bỗng nhiên… ầm… ầm… Một tiếng nổ long trời lở đất nổi lên. Bùng… bùng… Hai cánh cửa sau của chiếc vận tải bắn bay bổng lên không. Vỏ xe hai bên gãy vụn phóng tua tủa ra tứ phía. Hơn hai trăm khẩu súng đủ loại nát ra từng miểng văng tung tóe như bông pháo. Cửa kiếng quán ăn một số bị nứt rạn, một số bị vỡ nát vì sức ép của thuốc nổ và những miểng đạn bắn ghim lên như lông nhím. Ngọn lửa đỏ rực bốc cao kéo theo cột khói đen ngòm. Chiếc vận tải chỉ còn lại phần sườn xe phía trước. Chiếc xe van của chàng bị lõm hẳn vào một bên trông như hình trăng khuyết. Cả bãi đậu xe gần như được tráng một lớp kim khí vụn.
Quán ăn trở nên hỗn loạn. Tiếng nổ khủng khiếp quá bất ngờ đập vào thính giác làm thần kinh của đám thực khách tê liệt đến cả phút nhưng đến khi hoàn hồn mọi người la hét, chen lấn, xô đẩy cố chạy ra khỏi quán. Một số người ngồi gần cửa kiếng bị mảnh vụn thủy tinh văng trúng mặt máu chảy ròng ròng. Có tiếng người hét nói gọi ngay xe cứu thương. Thực khách ngồi ở hàng ghế sát mặt tiền tuy không bị thương nhưng bị sức ép gây choáng váng. Bobby không bị thương nhưng bị chấn động mạnh. Chàng cảm thấy một luồng gió mạnh tạt thẳng vào ngực. Tiếng nổ gần như hút hết dưỡng khí chung quanh làm chàng há miệng cố hớp lấy phân tử ôxi. Sự việc xảy ra quá nhanh, chàng bấm nút khoá tự động và nghe tiếng nổ sát bên tai; cách nhau chỉ một tấm kiếng mỏng. Miệng Bobby há hốc, bàn tay chàng vẫn giữ hộp điều khiển; ngón tay cái vẫn đặt hờ lên cái nút có dán băng đỏ, còn tay kia đã buông rơi cái ống nghe từ lúc nào. Chàng đứng bất động khá lâu, mắt nhìn trừng trừng ra bãi đậu xe. Tiếng la hét trong quán kéo chàng trở về thực tại. Quang cảnh nhốn nháo hẳn, bàn ghế đổ lỏng chỏng, thức ăn đổ tháo trên bàn, vương vãi cả trên lối đi. Chỉ mới một ít thực khách chạy ra ngoài còn số đông người đang chen lấn bước qua cánh cửa nhỏ. Họ đạp bừa lên nhau cố chạy thoát khỏi quán ăn. Chàng chợt nhớ đến Sheila và con Hosh ở trong phòng vệ sinh. Bobby rảo bước về phía cửa và thấy ngay Sheila đang dáo dác nhìn chung quanh để kiếm chàng. Bobby hét lớn “Sheila” rồi vẫy tay gọi nàng đi ngay ra cửa. Đôi mắt nàng trợn tròn, vẻ mặt thất thần, tay đang bồng con Hosh. Sheila thở hổn hển:
- Bobby, chuyện gì vậy anh?
Không trả lời, chàng lầm lì nắm chặt lấy cánh tay của Sheila đẩy nàng đi về phía cửa. Theo làn sóng người, cả hai trôi ra khỏi quán. Người người đứng nhốn nháo ở bãi đậu xe, vung tay chỉ chỏ, miệng tán chuyện. Vẫn giữ cánh tay Sheila, Bobby bình tĩnh bước qua đám đông người, cắm cúi đi như chạy về hướng xa lộ. Tiếng còi hụ cảnh sát và xe cứu thương đã vang lên từ xa. Chàng lẩm bẩm nói phải thoát khỏi nơi này trước khi cảnh sát đến. Khi bóng hai người đã lọt vào bóng đêm của con đường dài ngoẵng dẫn lên xa lộ, Sheila dừng lại, hất tay chàng ra, giọng gay gắt:
- Đủ rồi. Sao vậy? Anh cho em biết chuyện gì?
Nàng thả con Hosh xuống đất, chờ đợi câu trả lời. Bobby nhìn quanh quất như thể đang có ai theo dõi, hạ thấp giọng:
- Mình bị gài bẫy.
- Cái gì? Gài bẫy? Em không hiểu.
Chàng lại nắm lấy cánh tay Sheila đẩy tiến tới. Cả hai bước đi, con Hosh lẽo đẽo theo sau. Giọng chậm rãi, chàng kể lại mối thù không đội trời chung của thằng Medina và câu chuyện tình cờ của thằng Tom. Bobby vỗ nhẹ vào vai nàng:
- Cha tiên sư thằng thổ phỉ Medina, nó giả vờ nhờ người mua súng. Nó đã biết thằng bán súng là Tom, thằng Mỹ xử tử cha nó theo lệnh của Castro. Nó chất thuốc nổ dưới lườn xe và dặn khi chất hàng lên là bấm nút khoá cửa liền. Cái hộp điều khiển có dán băng đỏ không phải để khoá cửa mà để bấm ngòi nổ. Mẹ cha thằng Medina, nó cố ý giết cả bọn mình để bịt miệng.
Chàng chặc lưỡi:
- Em thấy không, lúc de đuôi xe về phía cửa để chất hàng, anh mà bấm lúc đó thì không những bọn mình, hai con chó, mà người thằng Tom cũng nát như cám. Anh còn nhớ thằng Tom đứng sát bên cửa xe. Mẹ cha thằng Cuba, nó tiên liệu mọi việc như thần, may mà con Hosh nhảy xuống cắn nhau chớ bình thường ra anh đã bấm nút ngay lúc đó rồi. Em thấy không, con Hosh cứu bọn mình thoát chết.
Sheila nghe trống ngực đánh thình thình. Nàng rùng mình. Bước chân nàng run rẩy đi không vững, may nhờ có Bobby dìu sát một bên. Cả hai vừa thoát một cái chết trong đường tơ kẽ tóc. Lúc nãy, nàng không bồng con Hosh vào để rửa vết máu thì giờ này… Nàng rùng mình lần nữa. Trời về đêm lành lạnh, vậy mà nàng nghe mồ hôi đổ thấm ướt lưng. Sheila choàng tay ngang hông chàng, thở phào:
- Ai mà ngờ mình lại dây dưa vào chuyện trả thù của thằng Medina. Thằng khốn nạn, ngon thì sai đàn em đến bắn chết mẹ thằng Tom đi, nó lại dàn cảnh kéo mình chết chùm…
Nàng nhớ lại một việc:
- …anh còn nhớ trước khi lên đường không, con Hosh đâu chịu bước lên xe, nó cứ đứng dưới đất sủa vang. Trời ơi, ai ngờ nó đánh hơi được chuyện nguy hiểm.
Sheila dừng lại, cúi xuống bồng con Hosh lên. Nàng siết chặt nó vào người, cọ má vào lớp lông mịn của con chó cưng. Chưa bao giờ nàng yêu con Hosh đến thế. Bước đến một dãy phố khác, chàng tìm trạm điện thoại công cọng, quay số gọi taxi. Bobby xoa đầu con chó:
- Cám ơn mày nghe Hosh. Xem như mày đã cứu bọn tao hai lần.
Con chó vẫy đuôi, miệng rít lên khe khẽ. Một lúc sau, một chiếc taxi chạy trờ tới và đậu xịch ngay trước mặt. Sheila mở cửa bước lên xe, con Hosh nhảy lên ngồi cạnh nàng, theo sau là Bobby. Người tài xế liếc mắt vào kính chiếu hậu, cằn nhằn:
- Xe không chở chó nghe cha!
Chàng nhìn Sheila, thản nhiên:
- Em có thấy con chó nào lên theo không?
Sheila lắc đầu tỉnh bơ, cười mỉm:
- Không? Toàn là người chứ thấy chó nào đâu.
Quay sang người tài xế, chàng ra lệnh:
- Không có con chó nào cả. A-lê-hấp, chở bọn tao về nhà, đừng nhiều chuyện.
Thù Cha Thù Cha - Pat Jordan