For friends... do but look upon good Books: they are true friends, that will neither flatter nor dissemble.

Francis Bacon

 
 
 
 
 
Biên tập: Phuong Uyen Pham
Upload bìa: Phuong Uyen Pham
Số chương: 20 - chưa đầy đủ
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 1343 / 13
Cập nhật: 2015-11-11 14:04:27 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Người Trong Thang Máy
aris, tháng Bảy năm 2001
Trong bảo tàng Louvre.
Một cô gái châu Á cao và gầy, tóc ngắn màu hạt dẻ, đeo kính gọng nhựa trắng, mặc áo len màu rêu non đứng trước một tác phẩm hội họa. Tay cô ôm hờ trước ngực một cuốn sổ để mở. Chốc chốc cô lại cúi xuống, di di cây viết trên cuốn sổ, rà soát tới lui danh sách câu hỏi. Cô đang đợi một nhà thiết kế mới nổi. Đây là bài phỏng vấn đầu tiên mà tạp chí thời trang cô đang cộng tác giao cho. Cô rất kỳ vọng vào cơ hội này.
Trước bức tranh bên cạnh là một gia đình ba người nói giọng Anh đặc sệt. Ông bố đang giảng giải cho cậu con trai sự tinh tế của cách phối màu sắc. Bà mẹ nhìn hai bố con, ánh mắt ấm áp. Bố mẹ đều tóc vàng mắt xanh. Cậu con tóc đen mắt đen thuần Á Đông.
Hà Nội, tháng Tư năm 2006
Trên lề đường trước cửa hàng kem Tràng Tiền.
Một cô gái vận đầm xanh da trời, đứng duyên dáng trên đôi giày cao gót đỏ đang điệu đàng nhấm từng miếng kem. Kem đậu xanh lấm tấm thành một vành quanh làn môi cam. Hơn hai giờ nữa, cô sẽ lên máy bay rời Hà Nội. Mãi cho đến những phút cuối cùng của chuyến công tác, cô mới có được chút rảnh rỗi đi tìm hương vị yêu quý ngày xưa. Ngày xưa, mỗi lần bố mẹ dắt lên Hà Nội, cô và em trai đều đòi bằng được kem Tràng Tiền. Luyến tiếc mút miếng kem cuối cùng trên que, mắt cô khẽ lướt qua nhóm thanh niên nước ngoài đang vừa ăn kem, vừa rôm rả tán chuyện. Rồi cô vẫy taxi ra sân bay.
Trong nhóm thanh niên tình nguyện quốc tế ấy có một chàng trai trẻ gốc Á. Vị kem tan trong miệng, với anh, chẳng ngon lành gì. Nhưng anh vẫn ăn đến cây thứ hai, cố gắng tìm lại cảm giác ngày xưa. Hai mươi năm trước, anh và chị mình từng hạnh phúc tột cùng mỗi khi được bố mẹ đưa lên Hà Nội chơi và mua cho que kem Tràng Tiền.
Hong Kong, một ngày tháng 11 năm 2008. Buổi chiều.
1. Judy Nguyen
2:15 chiều. Sau cú điện thoại từ văn phòng thám tử, Judy ngồi thẫn thờ tại bàn làm việc. Cô chốc chốc nâng cốc cà phê lên ngang mặt, dưới tầm mắt một chút và lắc nhẹ để nhìn thứ nước nâu sẫm ấy sóng sánh. Rồi cô lại đặt cốc xuống, không nhấp ngụm nào. Cứ như vậy năm lần. Đến lần thứ sáu, khi chiếc cốc đang lửng lơ trong không khí với điểm tựa duy nhất là hai ngón tay thờ ơ móc vào quai cầm, Judy vẩy cổ tay với sức lực nhiều hơn một chút. Dòng cà phê bắn thẳng vào chiếc áo màu tím gắn một cái nơ phồng rất to chéo trước ngực.
Judy rút khăn giấy thấm khô vết cà phê rồi đứng dậy, mặc vào chiếc áo khoác giả da màu nâu và kéo túi rời khỏi phòng. Cô đến gặp sếp tuyên bố về sớm. Nguyên do: cô không thể làm việc trong bộ cánh lấm lem thế này. Một biên tập viên hàng top của tạp chí thời trang hàng đầu Hong Kong thì không thể tự chấp nhận mình ngồi trong văn phòng với chiếc áo in trọn một vũng cà phê. Mặc một chiếc áo như thế thì cảm hứng làm việc là zero.
Ông sếp đầu trọc người Ý chưa kịp trả lời thì đôi bốt cao gót của Judy đã bước ra khỏi cửa. Ông không gọi cô lại. Tòa báo này, có ai mà không hâm. Càng hâm, họ lại càng có sức lực để sáng tạo ra tờ tạp chí mà ngàn vạn người mong ngóng mỗi tháng. Thôi thì cũng đành nuông chiều một chút cái sự hâm của họ.
Judy bước vào thang máy. Trong đó có một thanh niên. Đấy là chuyên viên mới của công ty phân tích tài chính nằm ở tầng trên tòa báo. Thỉnh thoảng cô vẫn nhìn thấy anh ta ở tầng hầm đỗ xe hay trong sảnh tòa cao ốc.
Mắt Judy trượt nhanh qua người chàng trai. Anh chàng có vẻ trẻ hơn cô vài tuổi. Sáng láng, bảnh bao, đeo một chiếc kính gọng bạch kim sang trọng và trí thức. Anh mặc áo sơmi có những sọc màu tím rất mảnh (của Versace – Judy nghĩ), quần tây ống hẹp màu xám nhạt, chất vải nhìn rất mịn (của Armani – Judy nghĩ), cà vạt bằng lụa Nhật Bản màu đu đủ chín (bệnh nghề nghiệp của Judy!). Thang máy bắt đầu trôi tuột xuống. Judy đứng hơi tựa vào một vách buồng, hai tay khoanh trước ngực, mắt xoáy vào hình ảnh chính mình phản chiếu méo mó lên chiếc cửa bóng loáng. Chàng trai đứng sát vào vách thang máy đối diện.
Tầng 28. Tầng 18. Tầng 8. Bing boong. Thang máy dừng ở tầng sảnh. Chàng trai bước ra. Trước khi cửa đóng sập, anh quay lại nhìn Judy một cái nhanh rồi đi thẳng. Cửa thang máy khép kín. Judy tiếp tục đi xuống tầng hầm đỗ xe, chẳng lấn cấn nhiều về cái nhìn của chàng trai – “Chắc anh ta thắc mắc về bãi cà phê trên áo mình.”
Judy ngồi im trong xe, chẳng buồn tra khóa vào ổ để khởi động. Mắt cô nhìn vào cái cột bê tông sơn trắng to đùng phía trước mặt. Mắt cô nhìn vào những dãy xe đủ màu trắng, đen, xám, xanh dương, xanh lá sẫm… nằm ở đằng xa hơn cái cột một chút. Tất cả mọi thứ ở cái hầm xe này, nếu trong tầm mắt thì Judy đều nhìn. Và tất cả mọi thứ đều bị hút nhanh vào một khối trống rỗng đang giãn nở trong lòng cô. Judy mặc kệ cho mình rơi tự do vào trạng thái không cảm xúc. Là trạng thái khi con người ta cam chịu rằng bản thân đã mất hết hy vọng. Phải, “hết hy vọng” – văn phòng thám tử đã nói với cô như thế.
***
Judy Nguyen là cô gái Hongkong kiểu mẫu – xinh đẹp, tài năng, công việc lương cao. Một cái vỏ hoàn hảo, thành quả của những năm tháng cố gắng không ngừng để sống tốt, sống tốt hơn và sống tốt hơn nữa. Để có được những thứ khi sinh ra không phải là của mình thì phải cố gắng gấp trăm vạn lần hơn. Judy thấu điều này hơn ai hết. Bởi ngày chào đời, cô đáng lẽ sẽ sống một cuộc đời khác, đã mang cái tên khác: Nguyễn Phương Hoa.
Nguyễn Phương Hoa sinh ở Hải Phòng. Bố là công chức và mẹ buôn bán nhỏ. Cô còn một em trai thua mình bốn tuổi. Gia đình cô đầm ấm, nhưng nghèo. Cái nghèo khiến người phụ nữ một thời xuân sắc lắm kẻ đeo đuổi như mẹ cô không chấp nhận. Bà mưu cầu vật chất dư dả. Nhưng bố thì không có tham vọng đó. Vả chăng, ông cũng biết mình không có khả năng kiếm ra nhiều tiền nên đành chấp nhận đời chắt bóp. Rồi gia đình xuất hiện những mối bất hòa nho nhỏ. Những cuộc cãi vã ầm ĩ. Những tiếng chửi rủa. Những trận khóc lóc. La hét. Oán than.
Mẹ cô qua lại với một gã đàn ông khác. Ông ta rót vào tai bà những lời nhỏ nhẹ: cùng ông ta vượt biên sang Mỹ thì sẽ khá giả. Rồi giữa bố và mẹ có những tiếng đay nghiến, những lời thách thức.
Chuyện xảy ra ngày hôm ấy, Judy còn nhớ rất rõ. Vào giờ ra chơi một sáng thứ tư, mẹ đột nhiên đến trường đón cô, tay xách túi hành lý lớn. Mẹ vội vã gọi xe ôm đưa cả hai đến bến cảng, nơi nhân tình của mẹ chờ sẵn. Rồi cả ba lên một chiếc tàu không lớn không nhỏ. Cô lờ mờ đoán ra là mẹ đang đem mình bỏ trốn. Vì vậy mới phải lén lút, vội vã. Cô muốn hỏi mình đang đi đâu và tại sao không đem em theo cùng, nhưng nhìn gương mặt mẹ căng thẳng, mồ hôi đang rịn ra trên trán và quanh mép, mắt dài thườn thượt theo những tiếng thở thì hai môi cô mím chặt, không để âm thanh bật ra. Cô chỉ biết buồn bã nhìn những con sóng chấp chới. Những con sóng hiện lên gương mặt của bố và em.
Tàu cập cảng Hong Kong. Cô chẳng có khái niệm rằng mình đã ra nước ngoài. Chỉ biết đây là một nơi rất lạ. Nhiều nhà cao, chữ viết rắc rối, tiếng nói thì nặng trịch. Vài ngày sau, gã đàn ông kia đưa mẹ con cô đến một tiệm mì, rồi bỏ đi vệ sinh. Một tiếng. Hai tiếng. Mẹ con cô chờ suốt từ trưa đến chập tối. Đến tối đen thui. Đến bình minh hôm sau… Sau này cô nghe ngóng được rằng gã kia đã sang tàu đi Mỹ ngay hôm đó, tất nhiên là với toàn bộ tư trang của mẹ con cô.
Cô bé tám tuổi và chuyến vượt biên nửa vời.
Nhập cư bất hợp pháp, không tiền bạc phòng thân, hai mẹ con phải trốn chui trốn nhủi, lăn lóc ở lề đường và những xó ổ chuột một thời gian dài trước khi có chỗ ở tạm bợ, được cấp giấy phép cư trú. Để kiếm tiền, mẹ cô làm nhiều công việc nặng nhọc khiến hai bàn tay bàn bật móng, chảy máu xối xả, để lại những vết sẹo, vết sứt gớm ghiếc không bao giờ lành. Mẹ cô từng làm cả những công việc đến quá nửa đêm mới về nhà, mà khi về thì nồng nặc mùi rượu. Phải lớn hơn một chút thì cô mới biết mẹ đi làm tiếp viên quán rượu, một nghề bẩn tưởi.
Thời gian và sự mệt nhoài là một cục tẩy thần kỳ. Những ngày mới sang, cô thi thoảng vẫn bắt gặp gương mặt của bố và em trai in trên bầu trời, trên những tàng cây, trên thân chiếc xe buýt vụt qua trước mắt. Nhưng nỗi nhớ nhung bị bôi mờ dần. Đến một ngày nào đó ở tuổi thiếu niên, cô không còn để tâm đến chuyện mình có người để nhớ. Thời gian quý như tiền và cô không có xu lẻ để đánh rơi: sáng học, chiều làm, đêm ngủ. Cô chẳng muốn sớt mất thời gian của những chuyện quý báu ấy, để nghĩ đến những người không gặp được.
Cô lên trung học, học giỏi, có học bổng và đi làm thêm nên cuộc sống cũng bớt khổ sở. Nhưng hậu quả của những ngày lao lực là mẹ cô lâm bệnh nặng. Vì mặc cảm tội lỗi, vì tủi thân, bà giống như là không muốn khỏi, qua đời khi cô còn chưa hết cấp ba.
Sau khi chôn mẹ, cuộc sống của cô xuất hiện những khoảng nhàn rỗi. Thời gian mà trước đây dành để chăm sóc mẹ, giờ cô dốc vào việc học và làm. Và vẫn còn dư ra được chút ít rảnh rang vào những sáng sớm và những đêm trước giấc ngủ. Dần dần vào những lúc ấy, cô thấy mình đang mường tượng về hình dáng của bố và em. Trong cô rộn lên thôi thúc tìm lại.
Tốt nghiệp cấp ba được nửa năm, cô dành dụm đủ tiền cho một chuyến về Hải Phòng. Nhưng ngay lúc ấy, cô được học bổng sang Pháp. Cơ hội này không thể bỏ lỡ. Nếu từ chối, cô có thể vĩnh viễn sẽ chẳng thoát được chuỗi ngày sống hy vọng về một tương lai tươi sáng, nhưng lại không có tự tin vào hy vọng đó. Cô một lần nữa đi xa. Nhiều năm sau, cô trở về Hong Kong, đổi một cái tên mới: Judy Nguyen.
Sau khi đã trở thành một con người mà bản thân có thể vì thế tự hào, Judy mới đi tìm người thân. Lần đầu trên chuyến bay Hong Kong – Hà Nội, những giọt nước mắt cứ vô tư trượt dài trên mặt Judy. Cô mếu máo hình dung gương mặt bố ngỡ ngàng khi cô từ đằng xa chạy lại, choàng tới ôm ông. Cô nôn nao phác thảo hình ảnh em trai trong đầu – nó sẽ mang đường nét của bố hay mẹ, có giống cô không… Nhưng kỳ vọng càng cao, hụt hẫng càng nặng: sau khi mẹ đem cô đi, bố vì tủi nhục lao vào rượu chè, hai năm sau thì qua đời vì tai nạn xe. Em trai được gia đình người cô trong Sài Gòn nhận nuôi. Một thời gian sau, gia đình ấy vượt biên sang Mỹ, từ đấy mất tung tích.
Sau hai tuần dò hỏi thông tin từ mọi mối quen biết lỏng lẻo, Judy lảo đảo rời khỏi Việt Nam. Trên phi trường, những tiếng khua của giày cao gót lên sàn gạch lạnh đanh khiến cô rợn người. Nghe như tiếng gõ chiêng của địa ngục. Cô nghĩ đến cái chết và sợ. Nếu xui xẻo máy bay rơi thì ai sẽ nhận xác cô? Mẹ mất, bố mất và em trai không biết phương nào. Chẳng lẽ mọi cố gắng sống tốt của cô lại kết thúc ở nghĩa trang nhân đạo, với một nấm mồ đá đề “Judy Nguyen – người không có tình thân”?
Thẫn thờ ngồi trên máy bay, Judy cảm thấy mọi cảm xúc tồi tệ nhất thế gian đang liên hợp lại đâm vào mình. Một cơn đau lớn và dài. Một cảm giác không thể tả. Thậm chí bản thân cô cũng không có sức lực để cảm nhận đầy đủ. Chỉ là đau, đau, rất đau. Buông thõng thân mình trên ghế, cô thiếp đi…
Với những người yêu cuộc sống, cơn đau chính là nguồn năng lượng mới. Khi vừa đặt bước chân đầu tiên trở lại Hong Kong, Judy cảm nhận có một luồng chất dẫn qua gót giày vào ống chân, chảy theo các mạch máu lên thân thể, lên tay, lên mặt rồi đầu. Cô thấy mình có một đôi mắt mới và một đôi tai mới. Cô nhìn cảnh vật Hong Kong rất thân thuộc. Cô nghe tiếng Quảng Đông nặng trịch mà ấm áp. Lần đầu tiên. Judy nhận ra mình với nơi đây cũng có một tình thân, và hơn thế, một sự quý trọng. Chính ở đây, cô biết mình mạnh mẽ và ham sống. Chính ở đây, cô trở thành cô của bây giờ.
Bố mẹ đã kết thúc cuộc đời trong bất hạnh, nhưng cô sẽ không thế. Và em cô cũng sẽ không thế. “Vẫn chưa hết hy vọng để tìm ra nó” – Judy trấn an mình và ngẩng cao đầu, kéo valy rời khỏi phi trường trong ánh nắng chiều nhạt màu.
***
Giọt mồ hôi rờn rợn trườn từ thái dương xuống má khiến Judy giật mình. Mồ hôi đang ri rỉ ra khắp thân người. Cô hẳn đã ngồi rất lâu trong xe bít bùng mà quên bật máy lạnh. Judy tra khóa khởi động, đưa mắt nhìn lên: chàng trai gặp trong thang máy vừa đi ngang mũi xe cô. Nhiều người khác vừa tan sở cũng ùn ùn xuống hầm lấy xe. Cô gõ nhẹ ngón trỏ trên tay lái, những lời tay thám tử của một văn phòng điều tra quốc tế vang lên trong đầu: “Xin lỗi, chúng tôi đã làm hết sức nhưng không thể tìm ra một người nào khả thi là em trai cô ở Mỹ. Rất tiếc phải báo với cô rằng có thể là đã hết hy vọng.” Judy mím chặt môi, chớp mắt một cái lâu rồi xoay tay lái, quẹo sang lối ra.
2. Ryan Furnham
Những ai nhận danh thiếp của Ryan Furnham sau khi đọc qua đều phải nhìn anh một cái như thể kiểm tra, rồi mới cất vào ví. Ryan đã quá quen với điều đó. Chuyện chỉ vì ngoại hình anh rặt Á Đông, chẳng có đến một nét lai, nhưng lại đi với tên họ đặc Anh Mỹ. Những lúc như thế, Ryan cười khẩy trong bụng: “Những kẻ này có quá ít vốn sống, chẳng thể nhanh trí đoán ra mình là con nuôi.” Ryan là con nuôi của một gia đình người Anh họ Furnham.
***
Ryan bước vào xe, định ghé đến quán bar nào đó sau một ngày kỳ kỳ. Anh chưa khởi động máy ngay, mà ngồi yên một lúc, ngón trỏ gõ nhẹ trên tay lái, cố tìm cách giải thích vì sao hôm nay bản thân lại có những hành động quái lạ.
Buổi chiều, khi cô gái đó bước vào thang máy, Ryan đột nhiên nhìn cô rất kỹ. Mái tóc dài nhuộm màu đỏ sẫm, sợi quăn sợi duỗi. Bộ cánh cực mốt và bước ra từ tầng của tòa soạn tạp chí thời trang lớn nhất Hong Kong. Ryan đoán là một cây bút hay stylist làm việc tại đây. Cái dáng cô bước sao mà vô cảm. Anh không giỏi nắm bắt ngôn ngữ cơ thể, nhưng dáng đi đó lộ rõ mồn một là người bước đang cảm thấy trống rỗng. Có thể hôm nay là ngày tồi tệ với cô. Vết cà phê to tướng trên chiếc áo kiêu kỳ đóng góp thêm một bằng chứng nữa.
Một chuỗi những quan sát tỉ mỉ quái lạ, bởi Ryan vốn không bao giờ chú ý đến người khác ở nơi công cộng. Tàu điện, thang máy, trung tâm thương mại – chẳng một ai gặp ở những nơi đó mà anh nhớ nổi mặt. Một thói quen, một nếp sống có sau hai mươi năm ở trời Tây, nơi ai lo việc nấy, chẳng thừa năng lượng và lòng tốt ghé mắt đến người dưng xung quanh. Thế mà anh vừa nãy còn đã quay lại nhìn cô ấy sau khi ra khỏi thang máy. Anh không có dự định tán tỉnh, thề có Chúa! Cái cổ anh vô duyên vô cớ quay lại như được lập trình. Nhưng quái lạ nhất chính là việc có một luồng điện xẹt dọc thân người ngay cái giây anh nhìn trực diện gương mặt ấy. Gương mặt có nét gì quen lắm, cứ như đã gặp ở đâu đó, tuy thế lại không phải là ký ức của những năm gần đây. Gương mặt ấy thuộc về những hình ảnh cũ kỹ, những ký ức chỉ còn hư hư ảo ảo tồn tại trong trí nhớ.
Ryan chặc lưỡi “Mình lạ thật!” rồi lái xe đi.
Hong Kong, cùng ngày tháng Mười Một năm 2008. Buổi tối.
Ryan ngồi bên quầy rượu, khuỷu tay chống lên quầy, nâng ly rượu cao ngang tầm mắt, cổ tay khẽ đung đưa để làm chất nước vàng óng trong đó sóng sánh. Những làn rượu gợi cho anh về những con sóng chấp chới trong chuyến đi xa ngày xưa và xâu chuỗi các sự kiện sau đó. Những chuyện cũ ấy, cứ nhớ đến thì anh lại thấy đời mình rất thần kỳ. Tuy trải qua nhiều chuyện không vui ngay từ khi còn nhỏ, nhưng anh cũng đã được bảo bọc trong may mắn.
Bảy năm đầu đời, Ryan tên là Nguyễn Phương Huy.
Năm ấy anh bốn tuổi và hôm ấy anh sốt rất nặng. Anh ngủ mê man, thỉnh thoảng mệt quá, nóng quá, khát nước quá, thì ráng sức gọi mẹ và chị nhưng chẳng có tiếng trả lời. Đến giữa buổi chiều, bố về nhà, chạy vào giường xốc anh dậy. Đặt anh vào ghế trước của chiếc xe đạp cà vẹo, ông gấp gáp và run run ghì từng vòng quay trên những con đường nóng ran. Mắt anh díu dít. Anh muốn hỏi mình đang đi đâu và mẹ sao cả ngày không thấy. Nhưng những lời đó chẳng tìm đâu sức lực mà thốt ra.
Bố đưa anh đến trường đón chị, nhưng cô giáo nói mẹ đã đưa chị đi từ sáng. Bố lại chở anh ra bến cảng. Bố đặt anh ngồi với một bà quán nước. Cái quán hầm hập có mùi khó chịu – mùi mái lá, mùi biển và mùi chè cũ quyện vào nhau. Tâm trí rã rời, anh nhìn bố chạy khắp bến cảng, lo âu và có vẻ gì đó rất đau khổ hỏi chuyện nhiều người. Mặt trời lặn dần. Bố ôm anh vào lòng, ra đứng trên cầu cảng. Cái ôm của bố như ghì như bấu. Anh đau nhưng không nói, khẽ ngước nhìn bố, thấy hai hàng nước mắt rỉ dần xuống đôi gò má đen sạm.
Sáng ngày hôm sau, anh thức dậy bởi mùi khói xộc vào mũi. Hé mắt nhìn ra sân, anh thấy bố đang đốt hết tất cả giấy tờ và hình ảnh của mẹ. Qua lời bà hàng xóm, anh biết mẹ đã đưa chị đi vượt biên.
“Vượt biên là đi đâu hả bố?” – Anh đã hỏi lại bố như thế.
“Im ngay!” – Bố trừng mắt quát. Nhưng rồi nhìn dáng vẻ anh ngờ nghệch đáng thương, bố kéo anh vào lòng, nói ngắt quãng. – “Là đi rất xa. Xa đến mức có khi con sẽ không thể gặp lại chị nữa.”
Những ngày sau đấy, bố lao vào rượu. Trong cơn say, bố thường bước đến giường ngủ của anh, gào lên “Mẹ mày là mụ đàn bà khốn nạn!” Trong cơn say, bố gọi tên chị. Trong cơn say, bố qua đời trong một tai nạn giao thông. Sau đó, anh được gửi vào Sài Gòn cho gia đình người cô.
Gia đình cô đem theo anh đi “vượt biên”. Lần thứ hai trong đời anh nghe từ này. Lúc lênh đênh trên biển, ai nấy đều căng thẳng và mỏi mệt, chỉ mình anh xốn xang và chờ đợi. Vượt biên – đi đến một nơi rất xa – có thể anh sẽ tìm được mẹ và chị ở đó.
Nhưng chuyến đi không trót lọt. Tàu đắm ở gần một hòn đảo thuộc Mỹ. Anh được hải quân Mỹ cứu lên, đưa vào một trại tị nạn trên đảo. Không tìm thấy gia đình người cô, không giấy tờ, anh rơi vào tình trạng lạ đời: một đứa trẻ bảy tuổi vô thân thích một mình vượt biên. Nhưng cũng vì vậy mà anh may mắn ra trại nhanh hơn, chuyển đến một viện mồ côi. Không lâu sau, anh lại may mắn được một cặp vợ chồng người Anh nhận nuôi, đem về Anh với cái tên mới: Ryan Furnham.
Bố mẹ nuôi từng nhờ người tìm tung tích của mẹ và chị anh ở Mỹ nhưng không kết quả. Tấm hình duy nhất của chị, anh đã làm rơi xuống biển. Cái tên chị Nguyễn Phương Hoa cũng chẳng phải manh mối chắc chắn. Sau vài năm, Ryan và bố mẹ nuôi bỏ cuộc. Mẹ và chị có thể đã không đến được Mỹ. Những chuyến tàu vượt biên khỏi Việt Nam thời đó, rất nhiều đã vĩnh viễn chìm sâu dưới lòng đại dương.
Đến lúc suy nghĩ chín chắn hơn, Ryan lại cho rằng việc không tìm ra người thân có khi lại bớt khó xử. Con phải yêu mẹ. Nhưng anh không yêu người mẹ đã sinh ra mình. Anh không muốn gặp lại người phụ nữ nhẫn tâm đã dẫn chị bỏ đi, khiến cuộc đời bố trở thành khốn nạn. Anh càng không muốn biết vì sao ngày xưa mẹ lại chỉ chọn đem chị theo. Anh căm ghét cái ý nghĩ rằng mình là đứa con bị từ chối.
Ryan toàn tâm toàn ý sống cuộc đời mới. Anh hài lòng với đầy đủ vật chất và tình thương. Tốt nghiệp đại học, Ryan đến Hong Kong kiến tạo những ngày hoàn hảo của một gã độc thân trẻ tuổi, thành đạt: sự nghiệp, căn hộ cao cấp, xe hơi xịn, tài khoản mạnh và các cô gái. Điều duy nhất của phần đời trước kia còn sót lại là những cuối tuần anh đột nhiên biến mất khỏi tiệc tùng. Anh bay về Việt Nam thăm mộ bố.
***
Ryan hớp một ngụm rượu, rồi lắc nhẹ ly tạo ra những làn sóng sánh. Lòng anh dâng một cảm giác lạ. Cứ nao nao không mãnh liệt. Cứ dập dềnh. Khi cảm giác dâng lên thì khiến anh muốn làm điều gì đó, nhưng vừa nhác đứng dậy thì tức khắc nó hạ xuống. Cảm giác sóng sánh như những làn rượu.
Ở tầng trên của quán bar ấy, Judy đang ngồi tại chiếc bàn dài sát cửa sổ kính. Khuỷu tay chống lên bàn, cô nâng ly ngang tầm mắt, cổ tay khẽ lắc để tạo những làn rượu sóng sánh. Cô dập dềnh trong cảm giác nao nao. Tựa hồ như trong lòng đang có những làn rượu sóng sánh, sóng sánh…
Hải Phòng, mùng ba Tết năm 2009
Rời sân bay từ Hà Nội, Ryan đón xe xuống Hải Phòng, đến nghĩa trang thăm mộ bố. Anh mua giỏ hoa quả cùng bó nhang to, mong gửi chút hơi ấm Tết xuống sâu những tầng đất. Và anh ngạc nhiên cực độ khi thấy trước mộ đang nghi ngút nhang, cùng những chén đĩa bày món ngon và tuần rượu, cỏ cây xung quanh thì được cắt gọn sạch. Bố anh không còn thân thích, mộ quanh năm lạnh. Nếu bạn bè ở xa tìm thăm, cũng ai đến trong Tết?
Có tiếng chân người dẫm lên cỏ cây dại sột soạt đằng sau. Ryan quay ra, ngỡ ngàng nhìn cô gái mình đôi lần thấy trong thang máy, trong hầm xe ở cao ốc công ty. Trông thấy anh, mặt cô cũng chuyển vẻ bất ngờ lớn.
Trên tay Judy cầm bó nhang đã thắp. Cô vốn đang đi cắm lên những ngôi mộ xung quanh, cám ơn họ đã bao năm bầu bạn cùng bố, thì thấy thấp thoáng bóng người nên quay lại. Chàng trai này… Cô nhìn mãi giỏ hoa quả trong tay anh…
Phía Sau Một Cô Gái Phía Sau Một Cô Gái - Trần Lê Ngọc Bích Phía Sau Một Cô Gái