Books are immortal sons deifying their sires.

Plato

 
 
 
 
 
Tác giả: Tô Hoài
Thể loại: Truyện Ngắn
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 923 / 8
Cập nhật: 0001-01-01 07:06:40 +0706
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
ạo ấy, phong trào Ái hữu đương bồng bột và tôi đã tham gia phong trào ở làng tôi. Nhưng cuộc vận động Ái hữu thợ dệt ở Vạn Phúc nổi nhất trong tỉnh Hà Đông. Làng Vạn Phúc có cả chủ và thợ vào hội Ái hữu. Chủ và thợ các xóm La, xóm Mỗ đều bảo nhau đóng tiền, đến trụ sở đọc sách báo Mặt trận Dân chủ. Có những ngày chợ Đơ người các nơi về, tận Bùng và Trinh Tiết gần chùa Hương cũng ra. Người ta hỏi về thể lệ lập Ái hữu trong các làng tơ cửi. Điều này chúng tôi đã không làm nổi khi trụ sở Ái hữu thợ dệt Hà Đông còn đặt ở đầu chợ Bưởi ngoài vùng tôi.
Đất Vạn Phúc đã từng sôi sục phong trào đưa yêu sách của chủ và thợ nghề tơ lụa tỉnh Hà Đông cho thanh tra lao động Gô-đa, ở bên Pháp sang. Rầm rộ nhất là cuộc đi đón Ônen, đại biểu Đảng Cộng sản Pháp. Hầu như cả làng kéo đi.
Rồi mấy trăm thanh niên Vạn Phúc trói tay mình ra thị xã chống thuế, đứng trước cửa toà sứ... Tiếng đồn những chuyện như thế ở Vạn Phúc, chúng tôi cứ kể truyền đi. Thế mà làng Tây Mỗ còn rầm rầm phong trào hơn nữa..
Người giỏi như anh Khánh, anh Hiền - anh Hiền mà nói về chủ nghĩa cộng sản và Liên bang Xô-viết thì đêm này qua đêm khác ai cũng còn muốn nghe.
Các làng La, làng Mỗ và Vạn Phúc đã đứng lên chống thuế.
Ở ngoài Bưởi, chúng tôi cũng chống thuế, chống phù thu lạm bổ bắt chước Vạn Phúc. Nhưng không sôi nổi hút vào như vùng trong.
Cái trụ sở lâm thời của hội Ái hữu thợ dệt Hà Đông đã chuyển từ dốc chợ Bưởi vào chợ Mỗ. Tôi và Điều cũng theo vào Cái xe tay bánh sắt lộc cộc chở chiếc bảng gỗ kẻ biển, tôi ngồi ôm cái thành nó.
Nghề cửi dệt thoi tay hồi ấy đã đổi sang dệt máy “dắc-ca”, đương sầm uất. Làng nào cũng đông vui thợ thuyền.
Nhưng ở đâu cũng thế, người thợ dệt vẫn chỉ cái quần mài mòn đít trên đòn ngồi. Phong trào Ái hữu lên, chúng tôi hô hào học chữ, có học chữ mới tiến tới được nghiệp đoàn, mới đấu tranh lên "thế giới đại đồng” được. Anh nào cũng ham học chữ. Tôi được thêm chân dạy học. Như ông đồ ngồi bảo trẻ con trong xóm. Nhờ vào tiền đóng học, tôi có lương ăn. Tôi đã đi và ở vài nơi khác, nhưng đi đâu rồi cũng lại quay về ở Vạn Phúc. Vạn Phúc lúc nào cũng sôi nổi, cho mình thấy hăng hái.
Năm đó, tôi mười bảy tuổi. Từ khi đến Vạn Phúc cũng là thực sự những ngày lang bạt và cảm thấy xa xa cái gia đình u ám của tôi.
Tôi trọ một nhà đầu cầu Am. Nhưng không thật còn nhớ quang cảnh chỗ cầu Am rẽ xuống làng Vạn Phúc ngày ấy như thế nào.
Trong tưởng tượng, mờ mờ có một cây đa sần sùi. Những lết trâu cọ mình làm cho gốc cây mòn vẹt như bị ai buộc cho thót lưng lại. Rồi tiếng những bụi tre phờ phạc nghiến ken két dai dẳng suốt mùa đông, làm cho buổi chiều, xám ngắt trông ra các cánh đồng làng La, làng Mỗ càng buồn bã hơn.
Một câu hát ru con trong vách nhà ai vừa cất lên, như lời đồng dao, cứ ngẩn ngơ và mênh mang ý nghĩa gì không biết.
Con cò mày đậu cành tre
Thằng tây bắn súng cò què một chân...
Những đêm đi vận động lập Ái hữu, từ vùng Vân Đình trong Bùng ra cầu Am, trời rét buốt đến nỗi những mảnh sao sáng trên trời cũng long lanh nhọn hoắt, như cứng hẳn lại.
Để tránh giá và cho người ấm lên đỡ rét, chúng tôi hò nhau đẩy hộ những cái xe bò ngất ngưởng chở nón Chuông, chở nồi niêu Canh Hoạch, như cả cái nhà đi nghênh ngang giữa đường.
Ra tới cầu Am vừa nghe gà gáy. Tiếng gà gáy bạt đi giữa tiếng gió hú, như những chấm đèn đóm vừa nhấp nháy lên.
Hàng tráng bánh cuốn le lói lửa bếp trong vách. Lão hàng bánh này dậy sớm nhất các nhà. Lão thật khác thường. Lão mặc yếm, búi tóc, chít khăn vuông. Người ta gọi lão là "cô".
Những người đàn ông "mình cao số nặng" này không lấy vợ đi hầu cửa đền cửa phủ, làm đồng cô, thường như thế.
Việc đồng bóng là việc của lão, chúng tôi không để ý.
Chúng tôi chui vào vách ngồi sưởi đợi bánh và trêu lão, đánh cuộc xem lão là đàn ông hay đàn bà, đòi lão cho bóp xem có phải là "cô" thật không. Lão ta làm điệu ngoảy đi, rồi vừa múc bột lên cái vải lọc đặt trên miệng chậu, vừa giả bộ dửng dưng và ư ử đọc những câu không đầu không đuôi, như cách nói thơ tiên(1) của những người đồng cô bóng cậu.
Tôi cũng còn nhớ trên cầu Am có mấy ngôi hàng nước một lò may, hàng cắt tóc và những túp lều nối vách đứng dựa vào nhau của những người đi làm thuê ngoài thị xã Hà Đông suốt ngày cài cửa im ỉm, cứ xẩm tối mới thấy dò về lập loè đèn lửa.
Bác chủ nhà tôi trọ làm "cu-ly san"(2) nhà thương tỉnh.
Bác gái ở nhà thổi cơm và có khi có người gọi đi làm mướn những việc tạp trong làng.
Những tối phiên chợ lụa thường đông thợ cửi trong làng ra cho tôi bảo học. Họ dệt cửi băm bổ cả ngày, tối nào cũng lên đèn đầu hôm đến khuya gà gáy sang canh đã lại dậy lao vào khung. Năm hôm quần quật cả đầu hôm gà gáy, chỉ nghỉ mỗi tối ngày phiên. Thế mà tối ngày phiên lại chịu khó ngồi chúi mũi quanh ngọn đèn tù mù học chữ, đọc sách báo.
Chúng tôi lúc ấy thích hiểu biết, ham chơi, thật hăng và táo tợn. Những cuộc bàn cãi và đọc sách báo ồn ào suốt đêm những cuộc đi chơi lang thang ngoài đường cũng suốt đêm.
Những việc làm say sưa. Ở Bưởi, chúng tôi chống mê tín tối nào cũng đi trêu những đám lên đồng. Chúng tôi khiêng trộm, bỏ lên đầu chợ những con voi giấy, ngựa giấy hàng mã đầu chợ làm cho các đám làm chay. Lấy chuông, lấy hài, lấy nón trong "rừng ông Cụ" đem treo lung tung các nơi. Thằng Tiếp, thằng Hĩ với tôi, nửa đêm đem cứt trát vào mặt các tượng gỗ vừa đẽo xong ở chùa Ký Bo, ngôi chùa của một nhà giàu. Mạo hiểm, nghịch tinh, thật thích.
Vào Vạn Phúc, đêm đến, cả bọn kéo lũ lên thị xã, đi rình gây sự với đội xếp. Chân tay lúc nào cũng ngứa ngáy muốn đánh đấm ai đây. Trước chưa giác ngộ chẳng mấy phiên tơ mà người Vạn Phúc không ra tỏ vẻ anh chị ngoài chợ Đơ. Có khi trai Vạn Phúc thách đánh nhau giữa chợ, rồi chung tiền thuê hẳn một chuyến xe hàng đi hơn ba chục cây số vào Bùng, đánh nhau với trai làng ấy rồi lại ra ô tô về.
Bây giờ hiểu biết rồi, gặp ai cũng châu đầu lại, bàn chống thuế, vào hội Ái hữu, làm cách mạng, lên thế giới dại đồng!
Những ngày cầu Am sôi nổi, hăng hái của tôi.
o O o
Một hôm, Hồ đưa một anh thợ cửi đến cầu Am.
- Giới thiệu với các đằng ấy, cậu này là cậu Đành muốn học quốc ngữ. Đồng chí Đành cũng giác ngộ giai cấp công nhân như chúng mình.
Có lẽ cái tên là Đành mà trông anh ta đượm vẻ hiu hiu vậy Thợ dệt vùng gần tỉnh như Vạn Phúc, Nghĩa Đô, khác thợ vùng trong. Tuy lắm khi một xu không dính túi, kiết lõ đít, nhưng chúng tôi ăn mặc vẫn bảnh công tử như thường.
Các cô thợ tơ bộ cánh hồ lơ, ác lót phin trắng khoét cổ tròn. Những cô không cổ xẻ thì yếm cổ xây, thắt lưng lụa đào và đội nón kinh. Thanh niên hay thắng sơ mi lụa mỡ gà vạt so le, quần gấp nếp ống sớ, - tuy là gấp đầu giường và mặc áo the dài sáu khuy, đầu chải tóc uốn sừng. Một hồi có mốt đi tối cầm ba toong song và cầm đèn "đe mông” hai, ba pin. Còn cái anh cu Đành này, người thấp lè tè, da mai mái. Tấm áo nâu da bò bạc trắng hai vai mồ hôi dầu. Quần buông cạp lá toạ rộng thùng thình, đúng như kiểu cũng quần thợ cửi mài đòn ngồi, phải đụp hai lần vải gốc dầy kệp như mo nang mà bọn thợ cửi vùng ngoài không ai mặc thế nữa. Anh thật thà, chậm, hỏi cái gì mới nói, không ma mãnh, như mọi người quen đi nếm cơm thiên hạ.
Đành bỏ Bùng ra đây, mới xin được chân dệt trong làng. Anh quen Hợi, Hợi nhờ Hồ đưa đến xin học tôi và đóng tiền vào Ái hữu. Tuy lù đù đụn rạ thế nhưng Đành thích đọc sách báo bao giờ cũng chăm chú nghe bàn cãi về chính trị, ham những chuyện về Liên bang Xô viết, chuyện Mặt trận Dân chủ Đông Dương và Đành quả quyết Ái hữu thợ dệt phải tiến lên nghiệp đoàn thợ dệt Bắc Kỳ gia nhập liên đoàn thợ dệt Đông Dương... Anh đã đọc, viết được, tôi bảo học đỡ khó nhọc.
Mấy cậu thợ cửi ngoài này, tán như khướu, diện ngất, nhưng học buổi đực, buổi cái a, b, c... ra rả như cuốc kêu mà chưa sang được vần trắc. Rồi lại biết Đành đã đi trong đoàn thể thợ dệt Hà Đông ra Hà Nội dự mít tinh 1 tháng,5 ở nhà Đấu Xảo Đành hay đến báo Tin Tức nghe các anh toà báo nói chuyện.
Đành không phải vừa.
Chúng tôi hy vọng Đành sẽ là tay hoạt động. Ái hữu phát triển đang cần người. Như thế, dần dần, trông Đành thấy mất vẻ quê kệch mà đã là người đứng đắn, kín đáo.
Một hôm, Điều sừng sộ đến. Vừa thấy mặt tôi, đã chửi:
- Mẹ cái thằng Đành!
- Gì thế?
- Thằng ma bùn thế mà thằng Hồ dám tha nó ra đây.
- Thế nào?
Điều vẫn dóng một:
- Nó làm phềnh bụng con nhà người ta rồi nó cõng nhau đi.
Tôi hơi hiểu.
- Ồ, mà trông cái thằng đù đờ.
- Mày đù đờ thì có? Nó ôm gái đến ký ngay cạnh nách mà không biết.
Quả thật, tôi cũng để ý có một ả vừa đến ở gian trong ngôi hàng nước sát vách nhà này. Nhưng không ngờ... Chúng tôi đâm ra bực thằng Hợi, thằng Hồ - những đứa đưa Đành đến. Cái thằng Hồ lơ mơ bao giờ cũng đoảng vị.
Tôi biết Hồ cách đây ít lâu. Vùng tôi năm ấy chớm có phong trào thanh niên. Chúng tôi thích tìm bạn, kết bạn. Ở Nghĩa Đô không có cơ sở cách mạng cũ, nhưng khi trào lưu bình dân đưa những tư tưởng mới đến, thanh niên bắt rất nhậy. Chúng tôi thèm nghe những chuyện xa lạ, những lý luận mới, những tin tức thợ thuyền, dân cày hoạt động và tình hình thế giới - tất cả những gì khác cái tẻ nhạt, cái khốn đốn cái ốm mòn thường ngày.
Hồ mặc áo "tanh quát"(3) trắng. Người dong dỏng dáng nghiêng nghiêng, gầy gầy. Chúng tôi thì thầm đoán Hồ là một người chính trị cao và bí mật. Hồ hay nói chủ nghĩa cộng sản. Nhưng cũng lại hay bàn kinh Phật và nói về chùa chiền.
Hồ hay ngâm bài thơ Trường tình của Tchya, giọng buồn não nùng... Gặp em đêm ấy em xinh thắm. Em mỉm cười duyên với thế gian. Cảnh đổi nước trôi em vẫn trẻ. Cái già như sợ cái hồng nhan... Ngày nào anh cũng đi, nhưng đi đâu, đến đâu không ai biết. Mỗi lần gặp anh lại thấy một cái lạ mình chưa hiểu. Và anh cũng khéo giữ lâu với mọi người cái vẻ khác thường ấy. Lúc đầu chúng tôi rất phục. Rồi tôi cũng được vài lần đi lông bông với anh. Những cuộc đi kỳ quặc, tôi theo anh, lòng hồi hộp, kính cẩn "tầm sư học đạo”. Khi đã đi với anh mấy chuyến, mới nhận ra rằng dù đi đâu, xa tận tỉnh khác, Sơn Tây hay Bắc Ninh, lần nào chúng tôi cũng tìm đến chui vào nhà người mõ đầu làng.
Những nhà mõ tiếp đãi chúng tôi rất quý, có khi thịt gà cơm rượu cẩn thận, ở nhà mõ này vài bữa, chúng tôi lại sang nhà người mõ khác, làng khác, vùng khác.
Tôi biết Hồ là người quê Đốc Tín - làng Đốc Tín gần chùa Hương, có tiếng là làng nhiều người thường bỏ quê đi thiên hạ làm mõ kiếm ăn. Người ta lại bảo rằng đất Đốc Tín có cái hèm, chi họ nào cũng phải có người đi ăn mày, đi làm mõ thì trong họ mới khấm khá được. Chẳng biết có phải thế không chỉ thấy có người đi làm mõ, rồi kiếm ăn được, lại buôn bán ngoài Kẻ Chợ giàu có, đem tiền về tậu ruộng, làm nhà ở quê.
Như các cụ nhà bà Niêm Mõ được gọi là hiệu buôn Tín Mỹ (Đốc Tín Mỹ Đức) người thiên hạ đến làm mõ rồi sinh cơ lập nghiệp ở vùng tôi.
Người mõ trong làng vốn bị khinh thường nhất mà nhà mõ lại có khách, có "cậu Hồ" mặc áo "tanh quát" vai vuông long đình đến chơi thì nhất định là gà qué phải lăn ra rồi.
Cũng dần dần, tôi nhận ra Hồ có nhiều cái trái ngược, vẫn khó hiểu. Hồ hay nói về xã hội và thế giới. Anh cắt nghĩa cho chúng tôi nghe Ái hữu khác nghiệp đoàn thế nào. Nhưng anh không hoạt động Ái hữu. Anh giải thích về ngày quốc tế lao động mà anh lại không ra Hà Nội biểu tình ngày 1 tháng 5 ở Đấu Xảo. Anh bảo anh viết sách chính trị. Tôi chưa thấy đâu chỉ biết anh viết cho chùa Hương quyển Trỏ nẻo chùa Hương quảng cáo, giới thiệu cảnh đẹp với khách chơi chùa. Không rõ có phải anh viết thuê cho nhà chùa không. Anh hùng hồn đọc thơ của Hồ Xanh đăng trên báo Tin Tức, nhưng anh cũng thuộc bài Trường tình lâm ly. Hồi ấy, chúng tôi cũng thường gặp có những anh chàng bí hiểm và phất phơ "rũ áo phong sương" như Loan Dũng trong tiểu thuyết Nhất Linh và những thằng cha xưng là đệ tứ quốc tế cứ hùng hục, cứ hung hăng, mặt đỏ đòng đọc, cái gì cũng chửi tuốt.
Những thanh niên thích hành động đương háo hức như chúng tôi dần dần nhìn Hồ một cách chế diễu. Chúng tôi đã hạ xuống gọi anh là "thằng Hồ". Tuy vẫn quý, nhưng anh đã hết thiêng.
Lại lần này. Nhưng giá thằng Điều có bực lên mà chửi đánh Hồ thì cũng thế vậy. Cái khó là phải lo thế nào việc thằng Đành đây. Bởi đối với Đành, lại khác. Chúng tôi đã quen, bắt đầu mến. Đành là thợ cửi giỏi, rất tốt, chắc chắn hiểu biết, chăm học, chịu khó. Đành là một người tin cậy được Chúng tôi thương Đành. Nhưng việc này rồi thì rầy rà.
Chúng tôi thường bàn nhau phải giữ cho đoàn thể Ái hữu trong sạch, không tai tiếng, cả làng cả vùng phải phục, có thế mới dúng tinh thần giai cấp công nhân như các anh ở toà báo Tin Tức thường nói. Thế mà xảy ra việc này? Chưa biết sao nhưng ai nấy đều tưởng rồi sẽ lôi thôi, những lôi thôi khác sự doạ nạt của lão Nguyễn Hữu Trí, tri phủ Hoài Đức hôm chúng tôi vào xin phép lập hội Ái hữu. Chúng tôi lo...
Vào những chiều tối, cả xóm cầu Am bao phủ cái rét xám ngăn ngắt. Trong nhà bên, đi ra một người con gái, đầu tùm hụp chiếc khăn vuông lấp xuống gần kín mặt. Thế mà cơ hồ chưa yên tâm, sợ người ta có thể giằng ra xem mặt, người ấy còn đưa một bàn tay xanh rớt lên giữ cổ áo. Tôi đoán đấy là ả người yêu của Đành. Ả đi rờn rợn như ma đi trong câu hú của trẻ gọi ma, khi mặt trời đã lặn: Mặt trời đã lặn, chó cắn đã khuya... Ả đi đâu, ả tìm Đành hay ả đi ra bờ ao nào, ngồi than khóc. Đến lúc ả về, trời đã tối hẳn, tôi phải nhận mãi mới ra cái bóng đen lủi thủi nhoà vào bóng tối.
Nhưng sao trông bụng cô ta không khác. Ả chửa hoang cơ mà. Có lẽ vì cô mặc tấm áo dài vải đồng lầm, thắt vạt quả găng, lại thêm cái chiếc áo bông lửng, thêm nữa, mớ thắt lưng nhiễu mộc chuội hoa cau loè xoè ngoài cùng. Tuy nhiên, cái dáng len lét vội vã đi như phải đội xếp đuổi, và nước da xanh nhợt sắp đem nhuộm nghệ được kia đã phơi bầy sự thể thế nào rồi. Lại có lúc tôi cho là chúng nó đoán mò. Sao người chửa mà bụng không to?
Thế rồi, những việc rắc rối cứ dần dần xảy tới. Ngày kia tôi thấy ở nhà bên có thêm một bà, trông dáng dấp và váy áo như mấy bà trong Bùng vẫn đeo tay nải lụa ra chợ Đơ. Tấm áo sồi nâu với hai vạt túi cứng cành cành bên cái hầu bao đũi tơ sống xùm xoè trên tấm váy nái rườm rà đủ mười vuông vững chãi. Dầu cho đấy là người có năm khung cửi mười mẫu ruộng, ra chợ chưa bán hàng mà tiền giắt theo đã chặt hầu bao thì cũng quê kệch cục mịch khác người nghề tơ cửi tỉnh thành ngoài này.
Thằng Hợi đã dệt cửi ở Bùng, nó biết bà ấy là mẹ lão lý đương, nhà giàu nứt đố đổ vách. A, mẹ lý đương. Hay là mẹ đi tìm con. Ả kia là em gái lý trưởng làng Bùng. Chẳng lẽ thế ư? Nếu không thế, bà lão ra đây làm gì?
Không biết bà ấy đến từ hôm nào. Có một hôm, tôi tình cờ ra sau nhà, mảnh sân sau vừa bằng sải chân, che phên kín trên vừa bếp vừa làm cầu rửa, tối mò một đường cống tháo xuống ao thông luôn suốt mấy gian. Tôi nghe bên sân nhà hàng nước có tiếng thút thít khóc.
Người con gái đương ngồi trước mặt bà lão. Ở trong nhà người con gái ấy chít khăn vuông. Trông mờ mờ khuôn mặt trắng trẻo, rõ ra gái nghề canh cửi, quanh năm không bắt mưa bắt nắng. Con gái các làng dệt, nức tiếng tay chân trắng như ngó sen. Bởi các cô chỉ ở trong nhà tối ngày quay tơ, đánh suốt, mắc cửi, đến phiên chợ lụa đeo đẫy hàng đi chợ. Gái nghề nông chân lấm tay bùn bao giờ cũng thèm, cũng ghen với cái nhàn hạ tưởng tượng của các cô làng tơ cửi.
Một hôm khác, tôi lại trông thấy người mẹ ngồi trước mặt con. Hai tay người con gái bưng cái gì tựa cái chậu - đúng, cái lon da lươn, như lon cho vịt. Hai mẹ con ngồi trong bóng tối nhạt nhẽo âm sâm từ bao giờ, tôi không biết lúc ấy người con gái cúi mặt, khuôn mặt trắng xanh, bợt như giấy và cả hai mảng tóc rẽ đường ngôi cũng xoã ra che kín cái lon. Người con gái vục mặt như thế một lúc thật lâu, cho đến khi buông cái lon, ngẩng lên, hầu như hai tay cùng quăng rũ xuống đất còn người thì lờ đờ ngất ra, ngã vào vách. Người mẹ vẫn yên lặng, mặt nghiêm như đá.
Hôm sau tôi rón rén nhòm sang, chứng kiến lại nguyên cái cảnh ấy.
Có hôm, đã tối, vẫn còn thấy người con gái bưng cái lon rồi vục mặt xuống. Người con gái cứ uống ừng ực hàng lon nước như thế uống hàng lon như thế, không biết ngày mấy lần. Mà lần nào người mẹ cũng ngồi trước mặt trông cho con uống, lạnh ngắt, như tượng, như người ngây.
Có một lúc, người mẹ cúi cúi, loay hoay cởi thắt lưng con cởi hết lần ngoài, cả hầu bao, và bên trong vẫn quấn bao nhiêu lần gì nữa. Rỡ ra, đầy một đống dây dợ, lùm lùm trước mặt. Người mẹ sờ hai tay vào nắn bụng con gái. Một lúc, bà lại buộc bụng lại cho con. Bà ném gá một đầu thắt lưng vào cột, rồi bà đứng vổng lên, đè ấn cả người xuống như néo cửi làm cho cái lằn thắt lưng người con gái thít lại, thít chặt ngang bụng. Lúc ấy, người con gái cứ dưới lên, có lúc tay cũng nén ấn vào bụng, có lúc đau quá, quờ quạng quào quào vào vách phên nứa, tiếng nức nghẹn trong cổ. Người mẹ vẫn lẳng lặng thít qua thít lại, buộc cẩn thận mấy chục vòng quanh bụng con, cuối cùng mới nhẹ nhàng thắt đến cái giải yếm, cái hầu bao cái thắt lưng nhiễu loè xoè ngoài cùng.
Mỗi ngày, ngày nào mẹ cũng rỡ thắt lưng ra nắn bụng nén bụng con gái như thế. Và hàng ngày người con gái uống hàng chậu, hàng chậu nước cho ra thai như thế.
Thằng Điều nóng tính hăng hái, cái gì cũng muốn tức khắc. Anh em hay chế nó tính hăng máu vịt tờ rốt kít. Nó sốt ruột, kêu: "Cứ ngồi bàn bạc với tiểu thương, tiểu chủ thế này thì đời nào lên được thế giới đại đồng. Nếu đứa nào nói: "Mày là thằng tờ rốt kít", nó tống quai hàm ngay. Nó bảo nó cũng ghét bọn tờ rốt kít hay nói phét.
Trong việc này, Điều lại sôi nổi:
- Chờ anh Hiền về thì lâu quá.
Nhưng nếu không chờ anh Hiền, cũng không biết làm thế nào?
Từ hôm người mẹ trong Bùng ra tìm được đến tận nơi, thằng Đành không dám dàn mặt bà lão, cứ chặp tối nó ở trong làng ra đón đường gặp ả nọ ở đầu xóm.
Rồi Đành đến khóc với chúng tôi. Chúng tôi bối rối thương bạn. Làm thế nào nghĩ được cách giúp cho Đành dứt người con gái ra khỏi tay mẹ rồi cõng nhau trốn biệt đi. Hay thuyết phục thế nào để bà lão nhà giàu gả con gái cho Đành.
Biết trước là không ăn thua, ai cũng ngại. Còn trốn đi ư, cái khó bó cái khôn, không đứa nào trong túi có nổi một xu. Tôi cũng chỉ hơn anh em một dúm chữ, chứ tôi còn kiết hơn tất cả.
Cứ bàn rồi lại thôi, chẳng xoay chuyển gì được.
Điều nói:
- Tao nghĩ phải vào việc mới xong.
- Vào việc thế nào?
- Vào việc mẹ con nhà ấy.
Chưa ai hiểu.
- Chúng ta sẽ thuyết phục cho mụ già trọc phú này hiểu được tình hình thế giới, phải biết rằng thời buổi này chủ nhà gả con gái cho thợ dệt là một việc cách mạng, không có gì xấu.
- Nghe được đấy.
- À, thế là ăn thua, có phải không? Rồi chúng ta sẽ làm nhà trai, đứng ra xin cưới cho thằng Đành. Đám cưới không mất một đồng gẫy. Một đám cưới hoàn toàn mới.
- Hay đấy!
Thật tình cũng chưa ai hiểu cái hay cái dở trong mưu kế của Điều. Nhưng cứ thấy nói sẽ đi thuyết lý, đi giảng giải, thế là đứa nào cũng hăng hái. Chúng tôi thích tranh luận, thích cãi cọ thích thuyết lý. Ở đâu có như thế, tìm đến ngay. Người nào cũng háo hức mong mỏi một sự giải quyết gì ngoài cuộc sống này, tâm lý chung của chúng tôi.
- Sang luôn bây giờ nhé. Tao với mày thôi à?
- Tao với mày thôi. Cú đầu thế đã, rồi còn nghe, mới kế hoạch tiếp tục. Ta cứ làm tự nhiên, đừng nói cho Đành biết vội.
Chúng tôi sang ngay. Ngôi nhà hàng nước hàng xóm, lèo tèo trên mặt chõng dăm nải chuối trứng cuốc, một xâu bánh gai, nồi nước chè tươi ủ trong cái khố tải, sau lưng bờ đất thấp, đặt ngang mảnh vầu làm ghế khách ngồi.
Bác hàng nước ấy với mẹ con bà trong Bùng kia vốn chẳng phải họ hàng bàng sang với nhau. Vợ chồng bác hàng nước chỉ "cứu nhân độ thế” mà chứa "cái của nợ" ấy. Nhưng cũng phải tốn kém đấm mõm nhiều mới được, chắc vậy.
Chúng tôi vào thẳng ổ rơm trong bếp. Bác hàng nước mau miệng, đon đả:
- Các anh ấy sang chơi, bà ạ.
Người mẹ quay mặt, vái ra:
- Con lạy chư ông...
Điều nói luôn:
- Chúng tôi sang thưa với bà về việc anh Đành.
Rồi Điều trổ một thôi những lý nhẽ dông dài mà cứ trông cái cung cách hai người chịu chuyện cũng biết chẳng ai hiểu gì cả Người con gái ngồi tựa vách nứa, không ngẩng mặt.
Trông bóng gian nhà âm thầm, thấy lù lù biết chỗ ấy có người mà thôi. Còn bà già cứ như người dở điên, dở dại, vừa chắp tay lạy, vừa mếu:
- Thằng Đành nào kia ạ? A thằng Đành ăn cháo đái bát ấy à? Thằng Đành nó giết cả nhà chúng con. Thằng Đành rồi thì tù mọt gông. Cắn rơm cắn cỏ lạy chư ông, chư ông tha cho mẹ con nhà con.
Câu van xin ấy đay đi đay lại, giọng cầu khẩn mê muội ngẩn ngơ như lên đồng, mà cái ý nghĩa thật của câu nói là một lời rủa ráy đau đớn độc địa đến thối xương.
- Thằng Đành giết cả nhà chúng con.
- Thưa bà, thời thế ngày nay, xã hội đấu tranh giai cấp.
Bà lão lại nhắm mắt:
- Con cắn rơm cắn cỏ lạy chư ông.
Như bà lão dương van lạy bọn cướp đã lọt vào nhà. Sợ hãi cay đắng lẫn lộn với sự thù hằn quyết liệt khiến bà lão u mê sắp phát rồ. Bà lão cứ vừa van nài vừa rủa xả liên liền như thế, chúng tôi không chen được hết một câu. Sau cùng, sốt ruột, bực bội, không nhẽ cứ ngồi trơ ra đấy, hai đứa lẳng lặng ra.
Mọi dự định đều tắc tỵ. Người con gái nọ vẫn hàng ngày uống ừng ực hàng lon lá lẩu gì đó cho ra thai. Lại càng uống nhiều, uống gấp hơn trước. Bà lão cởi thắt lưng nắn bụng con rồi lại gò người lên, thít bụng con lại. Không dám kêu, người con gái quằn quại, chới với, tay quơ lên vách.
Bác chủ trọ nhà tôi và bác hàng nước chốc chốc lại sang thì thào với nhau. Họ không nói với bọn tôi. Nhưng những con mắt phân vân nhìn cũng như thông cảm sao đó với tình bạn và nỗi khó khăn của chúng tôi.
Câu chuyện kín đã bắt đầu hở. Người ở cầu Am và người trong làng ra, ai đi qua cũng có ý ghé nghiêng hoặc tạt vào vờ mua bát nước. Lão đồng cô tráng bánh lân la sang ngồi bỏm bẻm nhai trầu. Cả cái xã hội con con ở đây tò mò như muốn rỉa rót bươi câu chuyện xấu ra.
Tôi giữ ý không nói với Đành. Nhưng Điều bộp chộp đã kể lại tất cả. Đành chỉ khóc. Điều lại càng cáu. Không làm gì được ai, trông thấy Hợi, nó quát: “Mày phải đem thằng Đành đến tận mặt con mẹ ấy mà tế cho nó một mẻ! Cười trừ à? Đồ hèn! Phải rủ cả thằng Hồ đến tranh đấu nữa!”
Giữa lúc ấy, Hồ nghiêng nghiêng vai áo "tanh quát", bước vào, Điều hét lên:
- Mày tha thằng Đành đến đây, mày phải ở đây cùng chúng ông tranh đấu cho nó.
- Gì mà rối lên. Phải có phương pháp...
- Phương pháp của tao là hô hào anh em Ái hữu thợ dệt làm mít tinh chống hủ tục, vạch mặt mẹ giết con. Thuyết không được thì phải tranh đấu. Mày lại sắp bàn ngang chứ gì?
Hồ lúng túng:
- Được rồi, phương pháp...
- Phải mít tinh, phải lên đả đảo.
Tôi nói:
- Việc vận động anh chị em thợ ta phải đợi anh Hiền về không được nóng nảy.
Tôi đã gạt đi như thế. Tôi nghĩ, không thể bạ gì cũng mít tinh được.
- Bàn với anh Hiền đã.
Điều có dịu. Còn Hồ bám lấy lối thoát thân quen thuộc khen tôi nói phải. Tuy Hồ vào hùa với tôi, nhưng tôi lại khó chịu vì cái ý trốn tránh của Hồ mà ai cũng thừa biết. Tôi mát ruột nghe Điều quay ra văng tục, chửi Hồ. Tưởng Hồ giận nhưng Hồ chỉ cúi xuống lấy cái điếu cày. Và trong lúc ngửa mặt lên thở khà khói thuốc lào. Hồ cất tiếng rên rỉ câu thơ mà anh hay ngâm:
Lệ non tưới mãi bể tình
Mắt xanh khóc mãi ngày xanh cũng mờ.
Rồi vừa ư ử thế, Hồ đã xốc vạt áo "tanh quát", đứng lên đi thẳng.
Chúng tôi nóng ruột đợi anh Hiền về. Không phải chỉ bàn chuyện Đành. Hồi ấy, những ngày 1938 sôi nổi đã qua. Chiến tranh thế giới chống phát xít đã nổ ra rồi - dù rằng đến phút cuối cùng, sứ thần Nhật Bản mang cờ hoà bình giả, giở đòn bịp đi ngang Sibêri sang châu Âu thuyết khách, lừa cho thế giới tưởng phát xít cũng chỉ muốn yên ổn hoà bình.
Ngày đêm bàn bạc chính trị mà chúng tôi không biết Đức nổ súng tiến vào Ba Lan lúc mấy giờ, ngày nào. Nhưng chiến tranh châu Âu đã nhanh chóng phả hơi độc sang đây và cứ liếm dần vào đời sống con người Đông Dương - thật đen tối thật khốn khổ. Tơ lụa Hà Đông trước kia, nơi tiêu thụ chính là ở Nam Kỳ. Bây giờ tàu hoả vào Sài Gòn nghẽn, rồi tắc. Nhà binh Pháp, nhà binh Nhật sung công hết tàu hoả. Tơ Tàu bên Quảng Đông cũng không sang được. Những ngày chợ tơ đông vui đã tàn. Các nhà giàu Hàng Ngang, Hàng Đào Hàng Gai buôn lụa, buôn tơ bấy lâu nắm cái sống của các làng tơ cửi, bây giờ chuyển vốn sang buôn gạo, buôn xi măng và dây thép gai bán qua biên giới phía bắc cho Tưởng Giới Thạch trên Trùng Khánh. Phiên chợ Đơ, người đeo đẫy vào chợ, dù cho lụa tốt mấy, lái buôn cũng cứ đo nát hàng ra rồi trả lại. Vài ba phiên hàng ế, thế là những nhà một hai khung cửi vỡ nợ, trắng tay.
Khắp các làng, từ Bùng ra Mỗ, La, Vạn Phúc tới vùng Bưởi Cầu Giấy, công việc cạn như ao mùa đông kiệt nước. Thợ cửi thợ tơ chạy nháo đèn cù đi moi việc, dào việc, càng khan việc.
Đám anh em thợ cửi đói việc bỏ đi vãn trông thấy. Cái bảng Ái hữu treo trong chợ Mỗ tự dưng bị đội xếp thị xã vào vác đi mất. Giá bây giờ là năm trước, chắc đã đánh nhau.
Nhưng tình thế đã khác. Bây giờ lính Tây ở thị xã đeo súng lắp lưỡi lê đi tuần đêm thay đội xếp ta. Toà báo Tin Tức ngoài Hà Nội bị đóng cửa đã lâu rồi. Không còn chỗ đi lại, hỏi han nữa. Ai cũng ngơ ngác.
Thằng Điều đã nói đến chuyện bỏ đi đâu đi đâu. Anh đồ Địch trong Vạn Phúc, nhà Điều dệt cửi, chỉ còn vốn mắc cửi ngắn, dệt ba ngày đã vét cuốn cửi. Rồi Điều xuống Hải Phòng vào sở mộ phu đi Nam Kỳ. Còn Hợi, tự nhiên thấy ăn tiêu ung dung hơn mọi khi, không hiểu tại sao. Có bận, tôi chưa đưa được tiền ăn đầu phiên chợ cho bác "cu-li san" chủ nhà Hợi mở cái ví da rắn vằn vằn mới sắm, rút một tệ bạc, lấy hai đồng cho tôi. Một lần khác. Hợi cho tôi hẳn tờ con công(4) mới.
Hợi dặn:
- Đem ra chợ Đơ mà đổi. Nhớ đổi ở chỗ đông.
Tôi nhìn lại tờ bạc rồi hỏi khẽ:
- Giấy giả phải không?
- Không phải.
Nói xong, Hợi lấy tay ấp vào miệng tôi.
Sự thể gay go đến nơi rồi. Cuộc sống xung quanh đều trở nên hốt hoảng, không cứ gì việc thằng Đành.
Chờ anh Hiền về xem nào.
Anh Hiền đã trở nên một mong mỏi và chờ đợi của mọi người. Anh Hiền không có chân trong ban “lâm thời Ái hữu”.
Nhưng chúng tôi tin một cách tự nhiên và nghiễm nhiên coi anh là người chỉ bảo cho chúng tôi. Bởi vì anh Hiền là chính trị phạm. Những người chính trị phạm ở các nhà tù được tha về thời kỳ ấy, trong con mắt háo hức của những thanh niên mới lớn ham hiểu biết là một hình ảnh thiêng liêng. Chúng tôi hay đọc đi đọc lại những câu thơ không biết thơ của ai nhưng thật đã tỏ nỗi lòng và mơ ước mênh mông của mình:
Từ thuở quăng thân vào gió bụi...(5)
Quang thân vào gió bụi...
Gian nan cách mạng gió bụi đường đời!
Anh Hiền vẫn chưa về. Chúng tôi biết anh đương đi làm công việc bí mật. Từ khi có chiến tranh châu Âu, anh thường hay đi vắng lâu.
Xẩm tối, bác hàng nước bên cạnh sang, thì thào bảo tôi:
- Bà ấy nhắn cậu sang chơi.
- Tôi à?
- Phải.
- Liệu bà lão có xiêu không?
- Biết được - Thế bác có vun vào hộ thằng Đành không?
- Nhưng mà...
- Sao?
- Thôi cậu cứ sang thì biết, sang ngay nhé.
Tôi sốt sắng sang luôn, ờ, sao những chuyện buồn khổ đời người lại hay xảy ra vào lúc chiều chiều thế này. Bóng tối mờ, cái xó bếp có người ở mà cứ lạnh như không. Tôi lại thấy người con gái ngồi một kiểu như từ mấy hôm trước vẫn ngồi nguyên thế, ở trong xó, mặt gục xuống đầu gối.
Người mẹ cất tiếng hỏi tôi:
- Anh đã sang à?
Giọng bà khác hẳn. Cũng một tiếng nói của bà già hôm trước, một người cố chấp đến ghê người, bây giờ vẫn bà già ấy, mà khác hẳn, dịu dàng, mềm mỏng, yếu ớt...
Bà vờn vỡ tôi:
- Anh ngồi xuống. Tôi hỏi thăm các bác ở đây, tôi cũng biết gia cảnh anh rồi. Bây giờ, nói gần nói xa, chẳng qua nói thật, tôi cho anh con Bảy đấy.
Tôi chưa kịp đôi hồi thế nào, bà lão cứ lặng lẽ, đều đều nói tiếp:
- Nó là cái út nhà tôi. Nói để anh biết, anh em nó đều làm vô làm việc, nên ông nên bà cả. Rồi vợ chồng anh muốn làm ruộng, tôi lo cho ruộng, hay muốn bay nhảy chợ búa tỉnh thành tôi bắc cho một khung, hai khung cửi. Anh thích trông nom nhà cửa hay muốn ngồi bảo học ở ngay làng nhà. Anh lý đương nó bảo ban thu xếp cho. Anh muốn thế nào cũng được.
Tôi thật sự lúng túng về những lời mặc cả rành rõ, đầy đủ, thật khêu gợi, và đột ngột. Bà lão mỗi lúc một rì rầm khẩn khoản:
- Anh ơi, anh rửa mặt cho chúng tôi. Tôi nói có quỷ thần hai vai, cứu nhất nhân đắc vạn phúc, anh thương mẹ con tôi anh thu xếp đi. Ngày mai vào chợ tỉnh mua bán sắm sửa đến chiều ta ra xe ô tô hàng về, anh ạ.
Người con gái vẫn ngồi nguyên như thế giữa cuộc đặt giá.
Tôi nghĩ làm thế nào bây giờ? Tôi choáng cả người. Trong cái xã hội mà nén bạc đâm toạc tờ giấy, nhà giàu và đồng tiền lúc nào cũng trói người ta, từ trong cách đối xử với nhau hàng ngày tới mọi thói quen, thì một con người đương bơ vơ vơ vẩn như tôi, bỗng dưng đương thằng nên ông, có nhà ngói cây mít có của ăn của để, có ngôi thứ, và cái chuyện lấy vợ chửa sẵn thì cuối cùng chỉ đem tiền ra bôi son đánh phấn là xoá đi được tất cả, êm đẹp tất cả. Cái hoàn cảnh vừa hiếm lại vừa dễ mà biết bao người rỗng túi thèm nhạt bỗng bắt được của rơi.
Có thể tắc lưỡi được.
Còn như cái lý tưởng mà tôi đang mơ ước, thật sôi nổi mà cũng thật mênh mang góc biển chân trời trong khi hàng ngày chỉ kiếm sống trợ thời này thì sao. Nghe miên man lắm. Bác gái "cu-ly san" thổi cơm cho tôi, mà việc Ái hữu bác ấy thường cho là chuyện đàn đúm trai gái và chuyện thiên đường âm phủ đâu đâu. Thường ngày, bác khuyên nhủ, như rỉa rói tôi:
- Cậu mà cứ ngồi a, b, c giắt dê đi ỉa giống ông đồ vườn thế này thì dài lưng tốn vải thật, cậu ạ. Cậu phải đi dệt cửi hay cậu có dăm ba chữ như thế, dại gì mà chúi xó ở đây.
Ngày nào bác cũng nói đi nói lại như thế.
Tôi ở trọ đây với Điều. Thằng Điều dệt cửi trong nhà anh đồ Địch. Anh đồ Địch vừa thích cách mạng cũng vừa hay thơ. Thỉnh thoảng, cứ gà gáy nhà hàng đầu cầu Am giết lợn đi chợ, anh ra mua lòng tiết canh về dựng chúng tôi dậy đánh chén, gật gù ngâm thơ "thời thế". Tuy vậy, ăn cơm chân liền ở đấy thì không tiện, Điều ra trọ với tôi ở nhà bác "cu-ly san".
Điều phục phịch, tôi thì mảnh khảnh. Lúc đầu, bác chủ nhà khen tôi tướng học trò. Sau thấy tôi lẻo khoẻo mà lại ăn nhanh ăn khoẻ, bác đặt tên tôi là cậu "gầy thầy cơm". Bác trai làm cu-ly nhà thương mỗi bữa xoáy về một miếng xà phòng giặt dở. "Nếu cậu được chân thầy ký hay loong toong thì lấy được nhiều thứ của Tây chứ không phải chỉ miếng xà phòng đen thế này đâu” - Bác gái bảo thế. Tính bác gái vừa vui vừa lắm nhời.
Mỗi phiên chúng tôi đưa tiền ăn, mọi việc vẫn như thường. Duy cái điều bác hàng ngày vừa khuyên bảo vừa diếc móc kia gây cho tôi những day dứt và tôi càng đo được đồng tiền phân bạc cùng cuộc sống bấp bênh còn so le bao nhiêu với những hy vọng của tuổi trẻ mà chúng tôi mong mỏi.
Những ý nghĩ buồn bã chỉ thoáng qua. Bởi vì lòng tôi chứa chan tình bạn đối với Đành. Lý tưởng và những mơ ước của tuổi mười tám đương rạo rực thật cao, thật xa, những rắc rối, quanh quẩn lèo nhèo thế này không thể đem so sánh được.
Tôi đứng dậy bước ra.
Tôi không nói lại chuyện ấy với Đành. Tôi sợ Đành tủi.
Hôm sau, Đành đến, nước mắt ràn rụa:
- Nó đau bụng lắm, chết mất, anh ơi!
Tôi nói cho Đành yên lòng. Tôi bỗng xót xa, thương yêu Đành hơn hẳn mọi ngày. Tôi nói: "Yêu nhau thì phải lấy được nhau. Người thanh niên có tư tưởng không chịu để phong kiến bóp cổ”. Tôi nói cứng thế, nhưng trong lòng cũng dường như còn cái gì khó nói, cái gì phải chống trả chứ không mỗi chốc đã khước từ, đã bỏ qua ngay được. Những điều ấy đương dày vò cả chính mình.
Câu chuyện tự dưng dính tôi vào đấy lại trở thành xích mích giữa hai người hàng xóm. Bác hàng nước thậm thọt sang thì thào với tôi, bác "cu-ly san" ghét lắm. Về việc này mỗi bác một ý.
Bác "cu-ly san" bảo:
- Có chữ, có mẽ như cậu, quơ đâu chẳng được vợ, dại gì phải ăn thừa lại mang tiếng cướp vợ người ta. Này cậu bảo thật, cái giống chửa hoang này nó cũng như đứa ăn vụng ăn một lần rồi quen thân ăn mãi, chết cũng không chừa đâu.
Bác hàng nước thì nói:
- Tôi tính chẳng mất đi đâu, cậu ạ. Danh giá có, tiền của sẵn, ta như người đi đường nghỉ chân, hãy cốt lấy chỗ dựa đã. Phấn xoa mặt rồi phấn xoa chân cũng thế. Sau này có tý toáy món của chua vợ lẽ thì có quyền, chẳng ai nói vào đâu được.
Bác "cu-ly san" cười mũi nói chua:
- Người ta thu xếp khéo nhỉ!
Bác hàng nước như không để ý, vẫn tính toán trước mặt tôi.
Về trong ấy, cưới xin xong lại cho nhà nó ra đây. Trơn lông đỏ da rồi mới về hẳn, còn đứa hài nhi để tôi nuôi làm phúc cho.
Bác "cu-ly san" hỏi kháy:
- Cậu để người ta thu xếp cho thế có được không?
Tôi gai người nghe những tranh cãi, tính toán, sắp đặt số phận con người thành từng đồng bạc, từng việc. Tôi đâm ngại cả mỗi lúc bác hàng nước sang, cũng như khi nghe bác "cu-ly san" mát mẻ người láng giềng. Tôi càng sợ cứ đôi chốc, phía phên vách lại vẳng nghe đến rợn gáy tiếng người ỳ ọp vừa thở vừa uống những lon thuốc, trong khi tôi tưởng cũng đương nhúng tay vào tội ác ghê gớm này. Tôi không dám nhìn sang, nhưng không thể nào ngơ đi. Có nhắm mắt, có bơ đi thì trong óc tôi cũng thấy hiện lên cái người mẹ tai ác cởi thắt lưng bụng con, rồi một đầu buộc ghé thắt lưng vào cột, bà đè cả người xuống để thít thật thẳng bụng con lại và người con gái đau quá, cứ dưới lên, hai tay chơi vơi quào vào vách.. Mà ngoài kia là cả một trời đất bao la âm u, những con người “có tội” ấy không biết chạy trốn vào đâu được.
Giữa lúc ấy, có người của anh Hiền mang về một bó truyền đơn in thạch. Từ hôm đội xếp vào rỡ cái bảng Ái hữu ở chợ Mỗ, anh Hiền đi chưa về. Chúng tôi mang máng cảm, thấy một tình hình mới, vừa sốt ruột chờ đợi, vừa hoang mang và đến hôm nay, trông thấy tờ truyền đơn của Mặt trận dân tộc phản đế, bé bằng bàn tay. Truyền đơn phân tích thực dân Pháp ở Đông Dương, ngoài mặt làm bộ cứng, nhưng bên trong nó hèn hạ, đã xẻo đất Cao Miên cho quân phiệt Xiêm và nó lại đương sửa soạn quỳ gối dâng Đông Dương cho phát xít Nhật... Nhân dân ta phải chịu hai tầng đè nén... Mặt trận dân tộc phản đế ra đời.
Đọc truyền đơn xong, trông ra đâu đó chỗ nào cũng thấy cách mạng. Tờ truyền đơn len lỏi trên đồng lúa, trong xó nhà giữa chợ, khắp nơi, cả thế giới... Khí thế cách mạng, với sức tưởng tượng của chúng tôi làm cho cảm thấy cách mạng không tan vỡ mà thật sự to lớn.
Chúng tôi nhìn nhau.
- Đây là công tác bí mật!
Công tác bí mật? Người của anh Hiền mang truyền đơn về bảo cách dán. Chúng tôi náo nức nghe anh nói. Mẩu chuối xanh phết lên mặt tường, ập tờ truyền đơn vào, nhựa chuối xanh dính chặt hơn hồ nếp.
Ngay đêm sau, chúng tôi chia nhau đi rải truyền đơn.
Bọn ra thị xã Hà Đông, bọn đi La, Mỗ. Tôi và Điều đem truyền đơn về Bưởi. Nhưng Điều không thể bỏ được buổi làm.
Bây giờ một mình Điều đóng xuất ăn cho cả tôi. Anh em ra học loạc choạc, không đủ tiền cơm cho tôi.
Rồi chỉ mình tôi đem truyền đơn về. Tôi buộc bó truyền đơn vào trong lưng, cuốc bộ ra tỉnh, rồi tắt đường Thanh Xuân, qua quán Bún chợ Mọc. Không có động tĩnh gì khiến phải tránh đường lớn, nhưng theo phương án giữ bí mật mới học được, tôi làm thế. Tôi không ra Cầu Giấy, mà men ben này bờ sông Tô Lịch, về làng. Truyền đơn được phân phối cho các cậu Miễn, cậu Hợp, hai anh em ấy và cả Hộ nữa.
Qua một đêm rải truyền đơn khắp nơi, ném vào tận trong Võng, Cả vùng biết có Mặt trận dân tộc phản đế rồi. Có anh còn lấy truyền đơn bọc vào hòn sỏi, "cả cái" như đánh đáo lỗ xuống chân người lính khố xanh gác cổng đồn Bưởi. Lính khố xanh cũng phải biết Mặt trận dân tộc phản đế của nhân dân Đông Dương đã ra đời.
Tôi làm một cuộc mít tinh bí mật lúc chập tối trên dốc Luỹ, đầu làng Bái, tuyên truyền Mặt trận dân tộc phản đế.
Cũng làm đúng cách thức tổ chức mới biết. Một anh chàng khênh tôi lên nói. Ba Hĩ và anh nữa cầm gậy tự vệ hai bên.
Một anh ra gác tận đầu tường đồn, lúc ấy, vừa cơm chiều người ra đường, thợ chưa vào khung cửi dệt tối. Xóm Luỹ xóm Cầu Sau bên Yên Thái cũng đổ ra, xúm đông lại ngay.
Mấy hôm sau, tôi trở lại cầu Am. Bao nhiêu chuyện hoạt động tưng bừng kể lại.
Bác hàng nước vẫy ngay vào:
- Cậu ơi, cái nhà cô Bảy đi trẫm mình rồi.
Đêm trước, người con gái nọ đã lẻn ra nhảy xuống cái ao sau nhà thương tỉnh. Người ta kể, nghe tiếng cô ấy ngồi khóc trên bờ ao làng đến gần sáng, cứ ngỡ dế kêu. Hôm sau, chỗ cỏ cô ngồi, còn hằn rõ vết chân.
Cả xóm thì thào ao này có ma, trẻ con không đứa nào dám chơi gần sợ ma rút chân, bởi vì lâu lâu lại có người đến trẫm mình.
Nhớ lại những ngày ở cầu Am, tôi chỉ nhớ phảng phất nhưng những nét xoáy vào kỷ niệm cứ như những nhát khía.
Tiếng bụi tre nghiến răng. Cái gốc đa xù xì, con trâu cọ lưng.
Câu hát ngẩn ngơ... Thằng Tây bắn súng... cò què... Người con gái tùm hụp chiếc khăn vuông, bàn tay trắng xanh chỉ trông thấy hiện ra vào lúc sẩm tối. Lão đồng cô bán bánh cuốn, bác hàng nước. Mọi người đều tốt bụng đều khổ và có người khổ đến phải đi trẫm mình vào cái ao có ma đằng sau nhà thương tỉnh. Nhà bác hàng nước vẫn cãi nhau với vợ bác "cu-ly san", nhưng đôi lúc lại rơm rớm nước mắt. Lão đồng cô mua vàng hương đem ra bờ ao cúng, làm cái thang bằng bẹ chuối thả xuống nước, bắc cầu giải oan cho người chết trèo lên...
Anh Hiền(6) về nghe chúng tôi kể lại chuyện ấy. Anh nói:
- Chúng ta phải làm cho sau này không có người chết uất ức thế nữa.
Đành nghe anh Hiền nói rồi Đành ra nhà bác hàng nước vào cái ổ rơm bên cạnh vách nứa mọi khi người con gái nằm.
Đành ở một đêm rồi hôm sau, theo anh Hiền đi mất. Không bao giờ tôi gặp Đành nữa.
Được ít lâu, mật thám Hà Nội về vây làng Vạn Phúc. Đồ Địch bị bắt, phải án đày đi Côn Lôn. Cơ quan bí mật ở Ngọc Trục bị lộ. Ô tô mật thám bắt người, mang ra được hai mảnh in đất, những lọ mực đầu đen, một bó giấy - Kiêm cũng bị bắt lần ấy.
Chúng tôi mỗi đứa tan tác mỗi nơi và thời gian cứ qua.
Điều xuống Hải Phòng, vào sở mộ phu cao su Dầu Tiếng. Hợi bị Tây tóm ở chợ Đơ, về tội tiêu tờ giấy bạc giả. Anh Hiền bị bắt ở thị xã Hà Đông. Mật thám Tây lai Luýt tra điện anh suốt đêm. Một lúc, điếu thuốc lá đương hút nó dí vào mặt anh. Không thấy anh nhúc nhích. Anh đã chết trong xà lim sở Liêm phóng Hà Nội, - sau này, Xuân Thuỷ đã kể cho tôi biết như thế.
Chú thích:
(1) Ngày trước có lối "bói thơ tiên". Thầy bói thắp hương rồi nói thành thơ để đoán số.
(2) Người làm việc quét dọn trong bệnh viện.
(3) Một kiểu áo khoác ngoài, thường bằng vải ka-ki trắng nhạt, thời ấy thịnh hành.
(4) Giấy bạc năm đồng, thời thuộc Pháp, có vẽ hình con công.
(5) Câu đầu bài thơ Trăng trối (1940) của Tố Hữu. Nguyên văn: Từ thuở ấy quăng thân vào gió bụi.
(6) Anh Hiền tên thật là Nguyễn Hữu Hưng, người làng Tây Mỗ.
Những Nhười Thợ Cửi Những Nhười Thợ Cửi - Tô Hoài