Số lần đọc/download: 1178 / 7
Cập nhật: 2017-04-18 08:47:09 +0700
Chương 45 - Uss Towers (Ddg-103) Vịnh Bengal Thứ Ba, 2 Tháng 12, 03:17 Giờ Địa Phương
K
atherine Silva đang nằm mơ về thành phố Savannah khi điện thoại reng vang. Những đoạn ký ức về thời thơ ấu dính chằn vào nhau không theo thứ tự nào cả.
Những viên đá lát trên con đường River ẩm ướt và bóng loáng sau cơn mưa đêm. Những ngọn sóng bập bềnh trên con sông đen tối phản chiếu lại ánh đèn từ tiệm ăn và các gian hàng. Ngọn gió mang theo mùi muối mặn chát của đại dương và mùi vị của các thành phố, quốc gia và cả những đại lục đâu đó dưới lằn chân trời.
Khi ấy, Kat 8 tuổi. Bố nàng có dáng người cao lớn ấm áp dưới ánh đèn đường vàng vọt. Cả thế giới đang nằm ở phương xa kia, nàng biết chắc như thế. Nàng đã biết thế ngay từ lần đầu nàng nhìn thấy dòng sông và cửa sông mở rộng ra đại dương chỉ cách nơi nàng đang đứng vài km. Đối với nàng, thế giới không phải là ở nơi này, trên bờ sông này, hay ít nhất là những phần quan trọng nhất của thế giới. Chúng ở phương xa kia, nơi mà bầu trời chạm vào đại dương.
“Con sẽ làm một hải tặc.” Nàng nói bằng một giọng trang trọng.
Bố nàng không hề bật cười. Ông nói. “Bố tưởng con muốn làm thuyền trưởng một tàu đánh tôm mà?”
“Hay là hải tặc cũng được.” Kat nói. “Hay đóng một chiếc tàu cho riêng con và chu du vòng quanh thế giới.”
Nàng dang rộng đôi tay để bao gồm cả con sông lẫn đại dương ở cuối con sông, nói. “Con muốn được ở ngoài kia kìa.”
Bố nàng gật đầu. “Bố biết.” Mà ông quả thật đã biết.
Bây giờ, Kat đang 12 tuổi, đứng trên sàn gập ghềnh của chiếc bè tự chế, tay bám chặt vào cột buồm của chiếc bè chòng chành trên sóng. Được chế từ hai tấm nâng hàng bằng gỗ nối lại với bằng vài tấm ván gỗ phế liệu được đóng đinh lại, chiếc bè được làm nổi bằng ba cái ruột bánh xe tải và sáu bình sửa; tất cả được cột cẩn thận bên dưới hai tấm nâng hàng bằng dây nhợ.
Nàng đặt tên cho chiếc bè là Spray, theo tên chiếc thuyền một cột buồm trứ danh của Joshua Slocum, người đầu tiên lái tàu buồm quanh trái đất một mình.
Đây là chuyến đi đầu tiên của chiếc Spray và Kat chỉ định đi một chuyến ngắn thôi. Chỉ một vòng nhỏ trên sông Wilmington, dùng chiếc buồm làm từ tấm ga trải giường để đi ngược dòng, rồi xuôi theo dòng trở về điểm xuất phát.
Nhưng Kat đã không làm sống thuyền cho chiếc bè, nó là một bộ phận cần thiết hơn là nàng tưởng tượng. Tha hồ cho nàng căng buồm hay bẻ bánh lái được làm từ ván ép, chiếc bè cứ trôi theo dòng sông. Lúc này, nàng đã rời bến được mấy giờ rồi, cố gắng nhích lại gần bờ hơn trong khi chiếc bè tiếp tục trôi dạt xuống hạ lưu.
Nàng biết là nàng đã bị cháy nắng nghiêm trọng rồi và nàng đã uống cạn chai 7-Up từ lâu, mà nó cũng là số lương thực duy nhất được mang theo cho chuyến đi này. Giữa lòng sông, một chiếc du thuyền thon dài sơn xanh lơ đang chạy ngược dòng một cách dễ dàng.
Kat nghĩ đến việc vẫy tay gọi chiếc thuyền ấy lại, nhưng nàng quá kiêu hãnh để xin được cứu. Nàng không hề bị thương và chiếc bè vẫn còn tốt, mặc dù không thể nào bẻ lái được. Nàng phải đưa chiếc Spray về bến. Là thuyền trưởng, đó là phận sự của nàng.
Nàng dùng tay che nắng và quan sát địa hình ven sông. Chẳng bao lâu nữa, nàng sẽ trôi ngang qua bến thuyền đánh tôm ở Thunderbolt và nàng tin rằng nàng sẽ cập đủ gần để có thể bám vào mỏm một bến tàu.
Lúc này, Kat 5 tuổi, đang ngồi khoanh chân dưới một gốc cây sồi phủ rêu gần bờ ao của công viên Daffin. Nửa ổ bánh mì trắng đã cũ đặt nơi chân. Nàng đang chăm chú trong công việc, cẩn thận xé từng lát bánh thành độ một chục miếng nhỏ và ném chúng cho một lũ vịt ân cần.
Bọn vịt bơi thành vòng tròn và vỗ cánh, đầu vọt nhanh để kẹp những mẫu bánh khi chúng rơi xuống nước, đôi khi còn chụp được một miếng đang bay trên không. Chúng kêu quàng quạc, ồn ào và thích thú. Kat cười rộ sung sướng và lại cầm lên lát bánh khác.
Thế rồi điện thoại reo lên và giấc mộng tan biến như một bong bóng xà phòng nổ bụp.
Kat Silva mở một mắt ra và mò mẩm điện thoại cạnh giường. Nàng kéo ống nghe ra khỏi bộ phận kẹp giữ và áp vào tai. “Trung Tá Silva nghe đây.”
Tiếng nói bên kia đường giây nhanh nhẹn và tỉnh táo. “Trung tá, đây là sĩ quan điều hành. Đại tá Bowie đang triệu tập một buổi họp chiến lược với mọi sĩ quan cao cấp trong phòng ăn trong vòng 15 phút tới. Ông ấy hi vọng trung tá có thể tham dự.”
Silva nheo mắt nhìn những con số sáng đèn trên đồng hồ. Nàng nói. “Hiểu rồi. Tôi đến đây.”
Nàng mò mẩm tìm nút đèn, bật đèn lên và lăn xuống giường. Nàng rất muốn leo trở vào chăn và tiếp tục ngủ. Cũng không phải nàng cẩn nghỉ ngơi gì. Nàng đã quen thức dậy vào bất cứ giờ nào, và nàng đã tập được từ lâu làm thế nào để tỉnh táo ngay lập tức và đáp ứng nhu cầu của nhiệm vụ.
Vấn đề là nàng không hề có nhiệm vụ nào cả. Vụ Trung quốc tập kích đã chứng minh điều đó. Bowie đã chỉ huy chiếc tàu chiến này qua suốt vụ chạm trán, tiếp nhận các báo cáo, nhận định tình huống và ban phát mệnh lệnh. Kat chỉ đứng vẩn vơ bên cạnh, với hai tay thọt trong túi mà thôi. Có lẽ nàng đã không thốt ra quá 5-6 chữ suốt thời gian ấy, mà không một chữ nào có chút ích lợi hay sâu sắc gì cả.
Nàng đã tiến lên chiếc Towers để nhận trách nhiệm chỉ huy. Thay vì thế, nàng đang đối diện với thực chiến lần đầu tiên trong đời và nàng chỉ có mặt như một khách qua đường mà thôi.
Cái đó không phải do lỗi của Jim Bowie. Nó chỉ là một trục trặc thời gian mà thôi. Nếu vụ rắc rối giữa Trung quốc và Ấn Độ xảy ra chậm hai tuần thôi, nàng đã là người chỉ huy khi chiếc Towers được triển khai rồi. Đây chỉ là vận mệnh mà thôi, không là cái gì khác hơn.
Jim rõ ràng đã cố gắng để làm mọi thứ dễ chịu hơn cho nàng. Hắn đã thận trọng để nàng tham dự vào mọi vận hành trong nhóm chỉ huy cao nhất và nàng rất hân thưởng điều đó. Nhưng mà tình huống này thật là làm người ta bực bội. Đáng lý mọi việc không thể xảy ra như thế này được.
Náng với tay lấy một bộ quần áo mới ủi. Nàng còn đủ thời gian để rửa mặt và chải sơ mái tóc trước khi tiến vào buổi họp.
Silva bước vào phòng ăn khoảng năm giây trước viên sĩ quan điều hành, Thiếu Tá Brian Matthews. Trong khi Silva ngồi xuống một cái ghế, viên sĩ quan điều hành liếc mắt điểm danh số sĩ quan đang ngồi quanh bàn. Sĩ quan cầm đầu mọi ban ngành trên tàu đều đã có mặt. Viên sĩ quan hành quân, Đại Úy Sue Meyer, đang ngồi trong ghế quen thuộc của cô ta đối diện với cửa ra vào. Bên trái cô là viên sĩ quan Hệ Thống Tác Chiến, Đại Úy Ben Lambert; bên phải là Kỹ Sư Trưởng, Thiếu Tá Chris Bronson và sĩ quan Quân Nhu, Đại Úy Pat Connelly.
Viên sĩ quan điều hành nhấc điện thoại và bấm ba số. “Chúng tôi đã sẵn sàng rồi, thưa Đại tá.”
Đại tá Bowie bước vào khoảng bốn phút sau. Hắn gật đầu chào toàn thể các sĩ quan và tự rót cho mình một tách cà-phê trước khi ngồi vào ghế ở đầu bàn.
“Tôi xin lỗi vì giờ giấc trễ thế này và vì khẩn cấp triệu tập mọi người.” Hắn nói. “Tôi biết là nhiều người trong quý vị chưa được ngủ bao nhiêu.”
Đại Úy Meyer suýt đáp lại theo phản ứng tự nhiên, nhưng dừng lại vừa kịp lúc. Cô ta là một người hăng hái, không cho phép mình ngủ nghỉ bao nhiêu. Nhận xét đắc ý nhất của cô về vấn đề ngủ nghe rất thô lỗ, không hợp thời và còn có tính cách khiêu khích tình dục nữa. “Ngủ chỉ để dành cho pussies (ND: pussy = tiếng lóng chỉ phụ nữ, nhưng cũng có nghĩa là âm hộ).” Tuy nhiên lúc này là hạm trưởng đang nói, cô đành quyết định im miệng vậy.
Bowie nói tiếp. “Tình hình chiến thuật của chúng ta đã thay đổi rồi và chúng ta cần phải làm vài quyết định. Xét đến những hư hại do cuộc tập kích hồi chiều qua, đô đốc Zimmerman đã quyết định đưa chiếc Midway ra khỏi vịnh Bengal.”
Viên sĩ quan điều hành có vẻ kinh ngạc. “Chúng ta rút lui ra khỏi khu vực hành quân sao?”
Bowie mỉm cười. “Cái đó còn tùy anh định nghĩa từ ‘chúng ta’ như thế nào đã. Chiếc tàu sân bay khẳng định là rút đi rồi, nhưng đô đốc đang định tách hai chiếc khu trục ra để hoạt động độc lập. Vì vậy mà tôi triệu tập buổi họp vào cái giờ giữa đêm này. Đô đốc đã ra lệnh cho chúng ta lập một kế hoạch để tiêu diệt các tàu hộ vệ cho chiếc tàu sân bay Trung quốc. Ông ấy muốn ít nhất là một phương sách sơ khởi lúc sáu giờ sáng.”
Đại tá Bowie nhìn đồng hồ. “Điều đó cho chúng ta được khoảng hai giờ rưỡi để lập ra một kế hoạch sơ khởi cho một cuộc tấn công.”
Đại úy Meyer chu môi. “Tại sao lại suy tính đến mấy chiếc tàu hộ vệ ấy chứ? Mối nguy lớn nhất là phi đoàn Trung quốc. Chúng ta nên tấn công vào chiếc hàng không mẫu hạm thì hay hơn.”
“Đô đốc Zimmerman đã có kế hoạch cho chuyện ấy rồi.” Bowie nói. “Ông ấy sẽ dùng lực lượng không quân của chiếc Midway để đánh gục chiếc Liêu Ninh. Phận sự của chúng ta là làm suy yếu biên đội Trung quốc để chuẩn bị cho cuộc tấn công chính.”
“Tôi tưởng đâu chiếc Midway đã bị loại khỏi vòng chiến rồi mà.” Viên sĩ quan điều hành nói. “Làm cách nào nó có thể phóng máy bay được?”
“Người ta đã bảo là không cần phải lo về việc đó.” Bowie nói. “Đô đốc Zimmerman đã có kế hoạch rồi. Chúng ta chỉ cần tập trung vào việc xóa sạch đám tàu hộ vệ thôi.”
Viên sĩ quan phụ trách Hệ Thống Tác Chiến nhướng một bên lông mày. “Xóa sạch chúng à?”
“Phải.” Bowie đáp. “Chúng ta không phải chỉ loại chúng ra khỏi vòng chiến. Mệnh lệnh của chúng ta là đánh chìm chúng. Tất cả tàu hộ vệ trong biên đội Trung quốc.”
Đại tá Bowie dừng lại để nhóm sĩ quan hấp thu lời của mình. Không phải đánh thương tàu Trung quốc. Không phải đánh bại chúng. Mà là đánh chìm chúng. Hủy diệt chúng hoàn toàn.
Sau nhiều giây im lặng, Trung tá Silva lên tiếng. “Còn các chiếc tàu ngầm Trung quốc thì sao? Chúng ta có tấn công chúng không? Hay chúng ta tìm cách tránh né chúng?”
“Chiếc USS California được lệnh chăm sóc tàu ngầm địch.” Bowie nói. “Nếu lỡ chúng ta đụng phải một chiếc, chúng ta được phép tấn công nó. Nhưng chúng ta không thể chủ động tìm cách săn tàu ngầm.”
Viên sĩ quan Hệ Thống Tác Chiến giơ một ngón tay lên. “Tôi đoán là chúng ta sẽ hành động chung với chiếc Donald Gerrard…”
“Đúng rồi.” Bowie nói. “Chiếc Fenno đã phóng mất 80 quả tên lửa rồi, cũng chính là phần lớn đạn dược của nó. Do đó, nó sẽ đi theo chiếc Midway để phòng vệ. Như vậy, chỉ còn hai chiếc Towers và Gerrard để làm công việc bẩn thỉu này thôi.”
Hắn uống một ngụm cà-phê và đặt tách xuống bàn. “Đó là tất cả thông số cho công tác này. Bây giờ, chúng ta chỉ cần có một kế hoạch để thi hành tốt mà thôi.”
Không ai nói năng gì suốt nhiều phút, trong khi mọi người đều nghiềm ngẫm vấn đề và suy nghĩ một phương án chiến thuật khả thi.
Lần nữa, lại là Trung Tá Silva phá tan im lặng. Nàng nói. “Tôi nghĩ chúng ta nên cuốn gói chạy cho nhanh. Chiếc Midway đã rút đi rồi và chúng ta cũng nên làm thế. Rút lui toàn bộ. Hãy nhìn nhận là chúng ta đã bị đá vào mông một phát thật đau và chạy về nhà đi thôi.”
Ba-bốn người định đáp lại, nhưng Bowie giơ một tay lên. “Nói tiếp đi…”
Silva nhìn qua các gương mặt chấn động và bàng hoàng quanh bàn. Nàng không nói ngay, hả hê vì khoảng thời gian khó tin ấy.
Cuối cùng nàng nói. “Tôi đang nghĩ đến Tôn Tử. Cái đoạn trứ danh trong Tôn Tử Binh Pháp mà ông ta nói là mọi sự trong chiến tranh đều dựa vào trá ngụy… Tấn công khi bạn có vẻ như không có sức và cho địch tưởng là bạn ở nơi xa khi bạn đang ở gần bên. Tôi chưa bao giờ cố ý ghi nhớ đoạn văn ấy, nhưng mà khái niệm ấy có thể áp dụng vào hiện trạng của chúng ta rất tốt.”
Không ai đáp lại, vì vậy nàng nói tiếp. “Bọn Trung quốc đánh chiếc INS Vikrant te tua. Hải quân Ấn Độ phản ứng lại bằng cách rút cả biên đội tàu sân bay lên tận vùng cực bắc của vịnh, nơi mà họ có thể dựa vào các lực lượng phòng thủ trên bờ và sự yểm hộ của không quân đóng trên đất liền. Cái đó cũng là một giải pháp hợp lý lắm chứ. Khi bạn bị phỏng ngón tay, thì bạn rút tay ra khỏi ngọn lửa mà… Thế thì… Bọn Trung quốc cũng đã đánh te tua chiếc tàu sân bay của chúng ta vậy, và chúng cũng biết là chúng ta chưa từng mất một chiếc tàu sân bay nào trong lúc chiến đấu, từ thời Thế Chiến Thứ Nhì đến nay. Chúng cũng biết tàu sân bay quan trọng ra sao cho sự bảo an quốc gia của chúng ta. Nếu chúng ta co cụm lại và hộ tống chiếc tàu sân bay ra khỏi khu vực nguy hiểm, tôi dám cá là họ sẽ cho rằng việc đó cũng là một giải pháp hợp lý vậy.”
Bowie gật đầu. “Tiếp đi…”
“Như vậy,” Trung tá Silva nói, “chúng ta cứ duy trì vị trí của mình trong vòng đai phòng thủ và hộ tống chiếc Midway rút lui khỏi vịnh Bengal, cho đến khi…”
Viên sĩ quan điều hành đập mạnh bàn tay vào mặt bàn. “Cho đến khi chúng ta tiến đến lối vào giữa quần đảo Nicobar. Rồi chiếc Midway cứ tiếp tục đi xuyên qua đến biển Andaman, trong khi chúng ta tách ra và chạy nước rút dọc theo bờ biển, lợi dụng lưu thông trên biển và hình ảnh ra-đa phản chiếu rối reng bởi quần đảo để che đậy cho chúng ta chạy nhanh về phía nam.”
Silva mỉm cười. “Anh hiểu nhanh đấy, Brian.”
Các viên sĩ quan còn lại bắt đầu trao đổi những ánh mắt hứng khởi.
Bowie gật đầu tán thưởng. “Chúng ta có thể tiếp cận đoạn sau cùng sau khi mặt trời lặn chiều tối ngày mai. Tiến đến trong tối tăm và yên lặng, hoàn toàn EMCON (*) và hoàn toàn trong trạng thái tàng hình.”
(* EMCON: Emission hay Emanation Control, tình trạng kiểm soát chặt chẻ mọi bức xạ. Ra-đa và mọi hệ thống phát tín hiệu khác như truyền tin, sonar, đèn đóm, âm thanh, v.v…. đều bị tắt hay giảm tối đa, để tránh bị địch phát hiện)
“Chính thế.” Silva nói. “Nếu chúng ta làm đúng đắn, chúng ta có thể chui lọt vào bên trong vòng đai phòng thủ của chúng. Thế rồi, chúng ta nổ súng và tông sập cửa nhà chúng.”
Đại úy Meyer nhe răng cười. “Tôi rất khoái cách cô suy nghĩ, thưa cô. Cô thật âm hiểm.”
Viên sĩ quan điều hành trừng mắt nhìn cô ta. “Này, đại úy…”
Viên sĩ quan hành quân giơ hai tay lên ra dấu đầu hàng. “Xin lỗi, nhưng mà tôi không tìm được từ nào khác để nói cả…”
Viên sĩ quan điều hành đập mạnh lên bàn. “Thôi đủ rồi, Đại úy!”
Viên sĩ quan hành quân nhăn mặt. “Xin lỗi, tôi không để nó xảy ra nữa đâu.” Cô quay sang Trung tá Silva. “Không phải thất kính đâu, thưa cô.”
Viên sĩ quan điều hành dường như muốn nói thêm gì đó, nhưng Đại tá Bowie đã lên tiếng. “Tôi nghĩ đây là một kế hoạch xuất sắc, Trung tá Silva. Chúng ta hãy bàn luận thêm chi tiết đi, rồi tôi sẽ chuyển lên cho đô đốc.”
Cuộc bàn thảo chiến thuật lập tức bắt đầu đầy hăng hái.
Khoảng 10 phút sau khi bắt đầu, lời Đại Úy Meyer lại hiện lên trong óc Silva và nàng phải nén cười. Âm hiểm sao?… Nàng thích.