Nguyên tác: Những Chiến Dịch Đặc Biệt
Số lần đọc/download: 1895 / 18
Cập nhật: 2016-02-08 22:14:58 +0700
2. Bắt Đầu Chiến Tranh, Triển Khai Công Tác Phá Hoại Trong Hậu Phương Kẻ Thù
N
gay ngày đầu tiên cuộc chiến tranh tôi được giao lãnh đạo toàn bộ công tác tình báo - phá hoại trong hậu phương quân dội Đức của các cơ quan an ninh quốc gia. Để làm điều đó ở NKVD được tổ chức một phân đội đặc biệt - Nhóm đặc biệt trực thuộc bộ trưởng Bộ Nội vụ. Sắc lệnh bổ nhiệm tôi chỉ huy nhóm ký ngày 5- 7- 1941. Các phó của tôi là Eitingon, Melnikov, Kakutsaia. Trở thành chỉ huy các hướng chủ đạo đấu tranh với các lực lượng vũ trang Đức xâm nhập vào vùng Baltic, Beloruxia và Ucraina là Xerebrianxky, Makliarxky, Drozdov, Gudimovich, Orlov, Kixelev, Maxxia, Lebedev, Timaskov, Mordvinov. Các cơ quan và phân đội của NKVD có nghĩa vụ cùng hợp đồng bằng người, kỹ thuật, vũ khí cho Nhóm đặc biệt để triển khai công tác tình báo- phá hoại trong hậu phương của các đạo quân Đức.
Nhiệm vụ chủ yếu của Nhóm đặc biệt là: tiến hành các chiến dịch tình báo chống nước Đức và các nước đồng minh của Đức, tổ chức chiến tranh du kích, xây dựng mạng lưới điệp viên trên các lãnh thổ do Đức kiểm soát, lãnh dạo các trò chơi điện đài đặc biệt tình báo Đức nhằm làm sai lạc tin của địch.
Chúng tôi lập tức thành lập - một binh đoàn mô tô chiến đấu có chức năng đặc biệt mà vào những thời gian khác nhau do Gridnev và Orlov chỉ huy. Theo quyết định của BCHTƯ đảng và Quốc tế cộng sản, tất cả những người tị nạn chính trị đang ở Liên Xô được đề nghị gia nhập binh đoàn này. Binh đoàn được hình thành vào những ngày đầu cuộc chiến tranh trên sân vận động Dinamo. Chúng tôi có hơn 25 nghìn chiến sĩ và sĩ quan, trong số đó có hai nghìn người nước ngoài - Đức, Áo, Tây Ban Nha, Mỹ, Trung Quốc, Việt Nam, Ba Lan, Tiệp, Bungari và Rumani. Trong tay chúng tôi có những vận động viên Xô viết ưu tú nhất, trong đó có các nhà vô địch quyền Anh và các lực sĩ - họ trở thành cơ sở của các phân đội phá hoại được phái ra mặt trận và ném vào hậu phương địch. Tháng 10 - 1941 Nhóm đặc biệt do sự mở rộng khối lượng công việc đã được tổ chức lại thành Cục 2 độc lập của NKVD và trực thuộc Beria như cũ. Tôi vẫn tiếp tục đồng thời là Phó chỉ huy tình báo nước ngoài của NKVD. Chiến tranh thay đổi đột biến thái độ của lãnh đạo Xô viết đối với công việc tình báo và thông tin của nó. Năm 1942 đã tiến hành tổ chức lại cấp tốc các cơ quan tình báo. Trong Bộ Tổng tham mưu người ta thành lập hai cục tình báo: một (đứng đầu là Kuznetsov) – để phục vụ trực tiếp các nhu cầu của các mặt trận và Bộ tổng chỉ huy, và cục khác để phối hợp tình báo nước ngoài ở các nước không bị Đức chiếm đóng, trong đó có cả Mỹ.
Tổng cục 1 (tình báo) NKVD được chia ra Tổng cục 4 (Nhóm đặc biệt cũ), sau đó là Cục 2 do tôi đứng đầu - cho công tác tình báo- phá hoại chống Đức và Nhật, cả trên lãnh thổ nước ta lẫn tại các nước bị chiếm đóng của châu Âu và Cận Đông, và Tổng cục 1 (Fitin) mà môi trường hoạt động phổ biến ở Mỹ, Anh, Mỹ Latinh, Ấn Độ, Úc. Hạm đội hải quân đã để nguyên cục tình báo của mình không có sự thay đổi cơ cấu.
Cục độc lập (Xelivanovxky) phụ trách ném điệp viên và các tổ phá hoại vào hậu phương các lực lượng vũ trang Đức được lập năm 1943 trong cơ quan phản gián quân đội XMERS. Cục tình báo cũng hoạt động cả trong bộ tham mưu Trung tâm của phong trào du kích.
Thế nhưng chủ yếu nó chỉ thực hiện các chức năng phối hợp, khi không đưa điệp viên vào hậu phương quân đội Đức thiếu sự phối hợp với tình báo và phản gián quân đội. Chỉ các thành viên tích cực của đảng và đoàn mà phần lớn là tiến hành công tác tuyên truyền trong hậu phương địch là thể hiện phần nào tính độc lập. Và dẫu sao thì họ vẫn dựa vào, theo nguyên tắc, sự bảo đảm bí mật hoạt động của mình theo hướng tình báo quân đội và NKVD.
Thông tin quan trọng nhận được sẽ báo cáo với Stalin, sự điều phối trực tiếp công tác tình báo thoạt đầu do Molotov, sau đó Golikov, vào cuối chiến tranh là Beria thực hiện. Ngoài ra trong mỗi Tổng cục tình báo được thành lập các phòng xử lý và phân tích các tin quan trọng, điều này giảm nhẹ rất nhiều nhiệm vụ của Bộ tổng chỉ huy trong tiếp nhận quyết định.
Giai đoạn đầu chúng tôi khủng hoảng các cán bộ lành nghề. Tôi và Eitingon đề nghị trả tự do cho các cán bộ tình báo và an ninh cũ đang ở trong tù. Tính trơ tráo của Beria và sự đơn giản trong quyết định số phận con người thể hiện rõ trong phản ứng của ông trước đề nghị của chúng tôi. Beria hoàn toàn không quan tâm những người mà chúng tôi giới thiệu có lỗi hay không có lỗi. Ông hỏi độc mỗi câu duy nhất:
- Các anh tin chắc họ cần cho chúng ta?
- Tuyệt đối tin chắc, - tôi đáp.
- Vậy hãy nối với Kobulov, để anh ta thả ra. Và hãy sử dụng họ ngay.
Tôi nhận được các hồ sơ những người tôi hỏi xin để xem xét. Từ chúng thấy rằng tất cả bị bắt giữ theo sáng kiến và sắc lệnh của lãnh đạo cao nhất - Stalin và Molotov. Đáng tiếc, Spigelglaz, Karin, Maly và những nhà tình báo khác đến lúc ấy đã bị bắn.
Sau khi được giải thoát một số bạn thân của tôi không có nhà ở tại Moskva: gia đình họ đã bị trục xuất khỏi thủ đô. Tất cả họ đến ở trong căn hộ của tôi, trên phố Gorki, trong toà nhà có cửa hàng thể thao Dinamo. Trên tôi một tầng là căn hộ của Merkulov thứ trưởng thứ nhất của Beria, người đôi khi xuống nhà tôi nếu cần bàn bạc gì đó khẩn cấp. Cả hai căn hộ chúng tôi cũng được dùng như điểm gặp các nhà ngoại giao nước ngoài. Từng xảy ra chuyện, Merkulov bấm chuông nhà tôi đúng lúc nhũng người sống nhờ đang ngồi ở phòng khách, và vì ông ta sắp bước vào để nói về những việc không thể trì hoãn, đành phải giấu họ trong buồng ngủ để tránh cuộc gặp của thứ trưởng với những “tội phạm” vừa được tha chưa lâu.
Bốn người sống trong nhà tôi, có một cán bộ rất giàu kinh nghiệm - Kaminxky - anh ở lại nhà tôi cho đến tận khi người ta phái anh đi Jưtomir, vào hậu phương địch. Đeo kính một tròng và mặc áo vét đồng bộ Kaminxky giống một thương gia Pháp điển hình. Khi tiễn anh, vợ tôi đã không thể kìm nước mắt. Chính Kaminxky rạng rỡ niềm lạc quan. Theo lời anh, anh hạnh phúc thật sự rằng anh lại được làm việc. Chen trong những chuyện hài Pháp để phần nào trấn tĩnh vợ tôi, Kaminxky nói rằng đối với anh đó là may mắn lớn, thậm chí nếu anh phải chết. Anh lập tức bị phản bội ngay khi vừa đặt chân tới Jưtomir. Làm điều đó là một cha cố, chỉ điểm của NKVD địa phương, kẻ đến lúc ấy đã cộng tác với Gestapo. Kaminxky cảm thấy ngay có bẫy gài tại điểm hẹn, và đã tự sát. Chúng tôi biết về số phận của anh sau ba hay bốn tháng. Tất cả những người ở cạnh với anh bị bao vây và bị giết trong cuộc đọ súng. Các nhân viên Treka được tha từ nhà tù hoặc bị sa thải trước kia, đều làm việc lại, nhưng bị hạ cấp. Phần lớn họ được cử đứng đầu các tổ đặc biệt vào hậu phương Đức. Một phần họ đã hy sinh, số khác - Medvedev và Prokopiuk - nhận danh hiệu Anh hùng Liên Xô vì những chiến dịch du kích thắng lợi trong lòng địch.
Những vụ thanh trừng năm 1938 - 1939 đã dạy tôi nhiều điều: giờ đây tôi không đến nỗi ngây thơ để ký các tài liệu xin ân xá các bạn mình năm 1941. Thanh danh của tôi đã “nhuốm đẫm mối liên hệ với những người này”, bị giam giữ như kẻ thù của nhân dân. Để cho sự ân xá của họ trông vẻ được khách quan, tôi đề nghị Fitin ký các văn bản. Đó là một bước nhìn xa: năm 1946 và 1953 khi người ta buộc tội tôi trong việc tôi thúc đẩy giải thoát các bạn bè của mình vốn là kẻ thù của nhân dân, tôi có khả năng viện ra chữ ký của Fitin. Trong số phận Xerebrianxky sự trợ giúp của tôi về việc phục hồi đảng năm 1941 đã đóng vai trò định mệnh: năm 1953 ông bị khép tội đã thoát khỏi sự trừng phạt cao nhất chỉ nhờ sự bênh vực của một tên phản bội như tôi. Ông mất trong tù trong cuộc hỏi cung của điều tra viên Tsaregradxky năm 1956.
Ngày 26 - 6 - 1941 tôi nhận thêm một chức trách: đấu tranh với lính nhảy dù Đức. Năm 1942 một phân đội lính dù chọn lọc được trao cho tôi lãnh đạo. Họ được nhận một phi đội máy bay vận tải và máy bay ném bom tầm xa. Trong suốt chiến tranh chúng tôi đã giữ cộng tác chặt chẽ với tư lệnh không quân tầm xa nguyên soái Golovanov, bạn thân của Eitingon trong Học viên quân sự.
Tình hình trên mặt trận, trở nên bi kịch. Sức mạnh các đạo quân xe tăng Đức vượt trội tất cả mọi cứ liệu sơ bộ của chúng ta. Quy mô thất bại của Hồng quân tại vùng Baltic, Beloruxia và Ucraina làm sững sờ. Đến tháng 8 chúng tôi đã tiến hành một số chiến dịch phá hoại để cứu các toán Hồng quân lọt vào vòng vây, thế nhưng các kế hoạch của chúng tôi đã không thành: những đơn vị này bị tản mát và không còn có thể trở thành căn cứ để triển khai chiến tranh du kích.
Sau đó, trong phối hợp hành động với các tổ chức đảng địa phương, chúng tôi bắt đầu phái các đội du kích vào hậu phương Đức, đưa thêm những sĩ quan tình báo kinh nghiệm và điện báo viên. Trong những năm chiến tranh, Nhóm đặc biệt - Tổng cục 4 NKVD và các đạo quân của nó, như các tài liệu chính thức cho thấy, đã thực thi những nhiệm vụ đầy trách nhiệm của Bộ tổng chỉ huy Tối cao (1941 - 1945), Bộ tham mưu phòng thủ Moskva (tháng 10 và 11 - 1941), Tư lệnh Mặt trận phía Tây (1941 - 1943), Tư lệnh phòng thủ vòng đai Kavkaz (1942 - 1943), Tư lệnh Mặt trận Bắc Kavkaz (1942 - 1943), Tư lệnh Mặt trận Ngoại Kavkaz (1942 - 1943) Tư lệnh Mặt trận Trung tâm (1943), Tư lệnh Mặt trận số 1 Beloruxia (1943 - 1944).
Trong những năm chiến tranh binh đoàn của chúng tôi là trung tâm chủ yếu của hoạt động tình báo- phá hoại của các cơ quan an ninh quốc gia trong hậu phương địch. Nó có vai trò quan trọng kích thích và triển khai phong trào du kích rộng rãi trong hậu phương quân đội Đức. Để thực hiện nghị định BCHTƯ ĐCS và chính phủ “về việc tổ chức đấu tranh trong hậu phương quân đội Đức và vào thời kỳ đầu chiến tranh chính trên nền tảng các Cục 4 NKVD”, nảy sinh những toán du kích, và các tổ tiêm kích đầu tiên. Với sự ra đời năm 1942 Bộ tham mưu Trung tâm họ đã chuyển cho phong trào vô số các toán và tổ chiến đấu. Bộ máy của chúng tôi đóng vai trò đặc biệt trong việc đảm bảo bí mật của phong trào du kích rộng khắp ở Beloruxia, vùng Baltic, Ucraina.
Đồng thời, như theo chỉ lệnh NKVD ngày 13 - 7 - 1942 các bộ tham mưu du kích không được nhận chuyển giao các tổ tình báo- phá hoại đặc nhiệm hoạt động trong lòng địch, mạng điệp viên, những người đưa tin và liên lạc, nhóm trưởng tình báo trong hậu phương Đức, cũng như ghi chép về các đơn vị du kích (bản tin, mật báo, báo cáo, điện báo v.v...). Những kẻ bôi nhọ cuộc đấu tranh anh hùng của các nhà tình báo chúng ta với chủ nghĩa phát xít vẫn khát khao đưa ra dưới dạng bóp méo chính cái công tác chiến đấu khổng lồ này, dựa trên những điều bịa đặt và giả dối hoàn toàn.
Hơn hai nghìn tổ tác chiến với tổng số là mười lăm nghìn người được chuyển vào hậu phương kẻ thù. Hai mươi ba sĩ quan của chúng tôi nhận phần thưởng cao quý nhất của chính phủ - danh hiệu Anh hùng Liên Xô. Hơn tám nghìn người được tặng thưởng huân, huy chương. Các nguyên soái Jukov và Rokoxovxky đề nghị đặc biệt với NKVD giao cho họ các toán từ thành phần Tổng cục 4 NKVD để tiêu huỷ các đầu mối liên lạc của kẻ thù và yểm trợ các chiến dịch tấn công của Hồng quân tại Beloruxia, Ba Lan và Kavkaz. Các phân đội của Tổng cục 4 và binh đoàn đặc nhiệm mô tô chiến đấu đã tiêu diệt 157 nghìn lính và sĩ quan Đức, thủ tiêu 87 quan chức cap cấp Đức, phát giác và vô hiệu hoá 2045 nhóm gián điệp địch. Lãnh đạo tất cả các chiến dịch đó được giao cho tôi và Eitingon. Trong lịch sử NKVD đó có lẽ là chương duy nhất mà những người thừa kế của nó vẫn tiếp tục tự hào. Trong các hoạt động chính thức kỷ niệm trận chiến gần Moskva hay Stalingrad, cũng như ngày giải phóng Beloruxia hàng năm, người ta luôn luôn nhắc đến tên tuổi những du kích và người hoạt động bí mật dưới sự chỉ huy của chúng tôi. Kuznetsov, Medvedev, Vaupsaxov, Karaxev, Mirkovxky, Prudnikov, Sikhov, Kudria, Liagindlia - những người của chúng tôi, những anh hùng kháng chiến chống chủ nghĩa phát xít trong các lãnh thổ bị chiếm đóng.
Từ năm 1942 đến 1993 đã xuất bản khoảng 5 nghìn cuốn sách và bài báo về các chiến dịch chiến đấu của Nhóm đặc biệt và Tổng cục 4 trong Cuộc chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Những năm ấy tôi đang tại nhiệm, sau đó bị bắt, bị giam, cuối cùng, được thả và được minh oan. Và không có cuốn sách nào tên tôi. Nơi nào trên tài liệu có chữ ký của tôi, xuất hiện những dấu chấm lửng. Thoạt đầu người ta không nhắc đến tên tôi vì lý do bí mật, còn muộn hơn tên tôi bị xoá đi bởi tôi là tội phạm bị phán xử và là chứng nhân không mong muốn.
Tôi sẽ không dừng lại một cách tỉ mỉ ở những chiến công nổi tiếng của chiến sĩ và sĩ quan đã chiến đấu cùng tôi trong những năm chiến tranh. Trong các tuyển tập do tôi biên tập in những năm 1970 - 1992, hơn ba nghìn anh hùng trong binh đoàn đặc nhiệm mô tô chiến đấu đã được nêu tên. Còn ở đây tôi muốn dừng lại ở những chiến dịch quan trọng nhất của tình báo Xô viết, kể về những anh hùng của cuộc chiến bí mật mà mọi người ít biết đến, nhưng đóng vai trò đáng kể trong các sự kiện chính trị - quân sự thời ấy.