Nếu bạn chưa từng nếm mùi thất bại, tất bạn chưa gặp thử thách thực sự.

Dr Porsche

 
 
 
 
 
Tác giả: Trung Sĩ
Thể loại: Tiểu Thuyết
Biên tập: Ha Thuy
Upload bìa: Nguyễn Gia Mẫn
Số chương: 20 - chưa đầy đủ
Phí download: 4 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 6072 / 258
Cập nhật: 2018-09-21 16:57:29 +0700
Link download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6   - xem thông tin ebook
 
 
 
 
Chương 16: Dãy Núi Urăng
ận tải sư đoàn chuyển xong kho vũ khí, chúng tôi lại lên đường tiến vào sườn nam dãy Đậu Khấu. Đậu Khấu là tên chính thức trên các giáo khoa thư môn địa lý. Trên bản đồ nó có một ngọn cao nhất, hơn 1500m tên là Aoral. Lính chúng tôi gọi là dãy URăng. Còn anh Quảng (đã lên tham mưu trung đoàn) bảo là dãy “Khô rang”.
Thời tiết càng về cuối mùa khô càng khốc liệt. Rừng dầu, rừng khộp rụng lá, nắng chói chang. Triền rừng bốc hơi nóng, rung rung dưới nắng. Thảm mục và cỏ gianh dưới chân rừng đã cháy hết, liếm cháy cả bên ngoài lớp vỏ những thân cây. Chúng tôi hành quân tìm địch, quệt ngang quệt dọc cành lá một lúc là mặt mũi, quần áo thằng nào thằng nấy lem nha lem nhem, đen sì như hề. Khỏi cần bôi mặt hóa trang như biệt kích Mỹ.
Nhưng đáng sợ nhất là thiếu nước. Mang nặng quá, những thứ khác có thể quăng đi chứ bi đông nước thì dứt khoát là không. Đi rạc rài nửa ngày không có nước mà gặp một lòng suối cạn, lớp cát đáy còn hơi âm ẩm là cả một niềm hạnh phúc bất ngờ. Dùng xẻng bộ binh khoét xuống lòng suối khoảng 1m. Ngồi chờ nước ri rỉ ứa ra, lờ lờ đục. Chúng tôi giải khát luôn bằng thứ nước ấy, tích trữ trong bi đông cũng bằng thứ nước ấy. Ấy thế mà không đứa nào bị tháo dạ mới lạ.
Một lần, cũng trong tình huống khát nước như thế, chúng tôi tìm thấy một hủm nước trong vắt giữa lòng suối cạn. Trên bờ rặng le ngả bóng xanh om. Quả là may mắn! Chúng nó uống và lấy nước chán chê. Vũng nước đã gần cạn. Đến lượt mình, tôi vục mũ đưa lên miệng làm một hơi sảng khoái cho đã. Nước mát lạnh và ngọt đến không ngờ. Khi vục bi đông để lấy nước dự trữ, tôi bỗng thấy cái gì trăng trắng dưới đáy. Định thần nhìn kỹ lại thấy đó là cái đầu lâu người trắng nhờ, đang nhìn tôi bằng hai hốc mắt vô hồn mọc đầy rêu. Hàm răng nhe ra như nhạo báng. Tôi hoảng, hét gọi tụi nó xuống. Mấy thằng chạy ào tới, ngó vào vũng nước lom lom rồi cũng thấy sởn da gà. Hai hốc mắt sâu hoắm của cái sọ người đang hấp háy, bỗng dựng lên một hàng mi dài thượt như nổi giận. Một thằng can đảm nhất bẻ vội cành le khô chọc xuống, hẩy cái sọ lăn đi. Từ trong hốc xương mắt, mấy con cá nhỏ bị quấy rầy vọt ra.
Kinh quá! Hoá ra mấy con cá tụ về nơi nước đọng. Bọn nó làm tổ trong cái sọ rỗng, quậy bên trong làm rêu trong hố mắt toé ra. Ấy thế mà cũng chẳng ai đổ bi đông nước của mình đi. Đằng nào thì cũng đã vào bụng rồi! Dùng thứ nước này còn hơn là uống nước ***. Nói thế bởi vì chúng tôi đã có những lần phải *** ra mà uống. Nắng như thiêu đốt. Hành quân mệt nhọc. Mồ hôi rịn ra giọt nào khô ngay giọt đó, thấm vào quần áo cứng như mo nang. Môi đã nứt nẻ hết cả. Trên bản đồ còn tới 5km nữa mới đến nguồn nước. Thế là tè vào bi đông mà uống để có đủ sức mà lết đi. Mà nước tiểu có nhiều nhặn gì cho cam! Cố mà rặn may chỉ được chục nắp bi đông, đỏ quạch, mặn và nồng không chịu được. Đi mãi, đi mãi chỉ thấy con đường bò bụi trắng, những rừng khô táp lá…
Lại một lần khác, cũng gần như lả đi vì khát nước thì đơn vị phát hiện một con trâu độc. Hai loạt AK vang lên. Con trâu ngã kềnh. Anh em lao vào xẻ thịt, thái những miếng thịt to như bao diêm rồi quăng vào nồi quân dụng. Lửa được nhóm ngay lập tức. Nồi thịt trâu đun khan đã dần xình xịnh nước. Ưu tiên ngay cho những ai yếu nhất. Phần còn lại chia cho mỗi người một vài hụm. Thịt chín kiệt nước thì rục (vứt) ngay ra rừng, để đưa lượt thịt mới vào đun tiếp. Nước thịt trâu lợ lợ và hoi nồng, nhưng còn hơn chết khát. Yên bụng tàm tạm lại khoác súng lên đường thiên lý.
Càng đi tới gần suối hay gần nguồn nước càng phải cảnh giác. Địch hoặc thú dữ cũng hay dựa vào đấy để tồn tại qua mùa khô. Giữa vùng rừng khô khát vàng cháy bỗng xuất hiện một vệt xanh sẫm của rặng le thì đích thị đấy là suối hoặc suối cạn rồi. Triển khai đội hình cẩn thận, thậm chí bắn thăm dò, cử tổ cảnh giới xong xuôi mới có thể yên tâm mà giải khát.
Thời gian này, địch đã bắt đầu tan rã hoặc phân tán nhỏ lực lượng. Để đáp ứng tình hình mới, thay vì tổ chức những trận đánh hiệp đồng quy mô lớn, trung đoàn tôi cũng phân tán từng tiểu đoàn độc lập truy quét địch. Đôi khi các tiểu đoàn có phối hợp với nhau. Bạn bè trang lứa, cùng đoàn cùng lớp nhưng khác đơn vị, khi đánh chiến dịch gặp nhau thường xuyên, nay thưa dần. Mùa mưa chuẩn bị bắt đầu. Tiếng sấm đâu đó đã ì ầm thoảng qua phía chân trời. Rừng dầu, rừng khộp đang thay lá. Từ những thân cây, cành cây vỏ cháy đen trong những trận cháy rừng mùa khô, những mầm non xanh mỡ, cuộn trong đài búp thắm đỏ đã chuẩn bị xoè tay đón nước.
Một ngày cuối tháng 3, tiểu đoàn 4 (thiếu đại đội 3), cùng tiểu đoàn 6 tấn công địch trụ trong “Phum Chuối” (gọi như thế vì phum này mọc rất nhiều chuối) sát chân núi Urăng. Trước khi đến phum chuối thì đã cả một ngày khát nước. Khi thấy rừng chuối, cả đơn vị xông vào chặt rầm rầm để lấy lõi nhai cho đỡ khát. Bọn địch phòng ngự trong phum cứ thấy chuối đổ chỗ nào bắn cối 60 vào chỗ đó. Tụi tôi không dám chặt cây lớn nữa, chỉ chặt những cây con, ngồi hít nước chờ bộ binh xung phong. Đến chiều sâm sẩm, 2 đơn vị vào được trong phum. Như thường lệ, không thấy bóng một thằng địch nào, kể cả những cái xác. Chỉ có một số vết máu mới và những thứ linh tinh, rau chuối đang thái dở, quần áo cũ hôi hám… Heo là thứ ông Nhương quan tâm nhất cũng không có nốt. Nhưng lại có gà. Phát hiện thêm vỏ thùng đạn cối 60, giống hệt lô đạn thu được bên kho súng. Thậm chí bọn địch ở đây có lẽ cũng đang lang thang, mới đến tạm trú nhưng bị đánh bật ra vì thấy chúng nó chưa kịp đào hầm. Với ngần ấy thứ địch bỏ lại, tôi không hiểu vì sao ta lại có thể báo rằng đã diệt được X tên địch, làm bị thương Y tên…Chắc chắn bên tác chiến, các anh ấy có nhiều kinh nghiệm về việc phán đoán thiệt hại của địch.
Mới tới cây cầu sắt nhỏ bắc qua dòng suối cạnh phum, gặp lại thằng Hiệp C11 D6 đang đi qua cầu, lui lại sau cùng tiểu đoàn 6. Tại hướng D6 ở rìa suối, sau khi thổi một trái B.41 mà chưa kịp di chuyển, nó bị quả B.41 địch phản, phụt bay sát mặt. Cánh đạn lướt khía vai trái, mặt thì bị thuốc phóng phụt bỏng nhẹ. Quả đạn địch lệch phải 15 cm nữa chắc đơn vị báo mất tích. Nó bị thương nhẹ trận này, đi viện điều trị, và bằng cách nào đó được ra Bắc luôn. Mừng cho nó!
Nhưng việc cần làm nhất lúc đó là cứ để nguyên ba lô, trang bị, nằm úp sấp xuống lòng nước trong mát đang riu ríu chảy làm một hơi dài. Thỏa cơn khát thì đã nghe gà kêu quang quác trong phum. Lâu lắm mới có gà tươi ăn dù ít.
Tiểu đoàn 4 đứng chân tại đây mấy hôm. Đi miết dưới trời nắng dữ dội, không có rau ăn, chỉ toàn cá khô mục nấu nước me nên rất thèm rau. Mà đào đâu ra rau dưới cái bầu trời nắng lửa này? Không biết có ai đó phát minh ra cái món óc dừa thay rau. Óc dừa là cái đọt non của ngọn cây dừa. Mỗi cây chỉ có duy nhất một cái đọt, khi lấy đi tất nhiên cây sẽ chết. Nhưng háo rau quá nên bọn tôi cứ gặp dừa là trèo lấy đọt. Những thằng trèo giỏi, giắt lưng cái búa sắc leo lên cây. Ngồi chắc chắn ở một bẹ cuống, vạt bớt các tàu dừa vướng rồi vung búa khoét vào đọt cây lấy óc non. Lấy xong cuốn khăn cà ma hay thả vào trong bụng áo leo xuống, vì thả lỡ bắt không trúng thì vỡ tan ngay.
Óc dừa ăn sống ngọt như ăn củ đậu. những phần già có vị hơi chát. Bắn được con trâu, lọc thịt bắp xào óc dừa thì cũng khá ngon. Đầu tiên chúng tôi còn trèo. Sau rồi thì cứ ngang thân dừa vung búa đốn. Chính ủy Hai Hữu một lần thị sát khu vực đóng quân, bảo lính rất nhẹ nhàng và hình ảnh rằng cây dừa dân người ta trồng một hai chục năm, đang thu trái. Nay các em khoét óc cây đi. Cái cây chết cứ đứng sừng sững như cái cột tượng đài tố cáo các em, khơi lòng thù hận. Nay cấm tất những em nào trèo lấy đọt, đốn dừa… Nghe thì cũng thấy nhân văn quá đúng! Nhưng khuất mắt trông coi là tụi tôi đốn tất. Trăm sự chỉ tại cái mùa khô chết tiệt!
Chính ủy Hai Hữu người Nam bộ, tóc thưa và gầy nhẳng. Một chuyện đồn không kiểm chứng là có một thằng lính táo tợn khi gặp chính ủy, nó bắt chéo tay trước ngực em chào thủ trưởng ạ! Thủ trưởng cho nó cái bạt tai vì tội hỗn láo, bắt chước hình ảnh của ông, tựa tựa như cái cảnh báo nguy hiểm chết người.
Sau mấy hôm càn quét khu vực không có kết quả, tiểu đoàn 4 rút ra cách đó 6 km, để lại đại đội 1 có tăng cường khẩu đội 12.8 mm của đại 4 chốt lại. Tại vị trí đứng chân của đại đội 1 có một con suối chảy theo hướng Bắc – Nam, ở giữa có cây cầu gỗ nhỏ bắc ngang. Rừng bám vào tận rìa phum. Gần như không còn tổ chức lại được lực lượng, địch thấy ta là chạy. Trận nào hiệu suất lắm cũng chỉ diệt được ba bốn tên là may, nên bắt đầu có tư tưởng chủ quan khinh địch. Có thể vì thế mà anh Khanh khi bố trí đội hình đại đội 1 đã đưa chỉ huy sở đại đội lên đầu nguồn nước, như một B độc lập tại tiền tiêu.
Lại còn giỡn với các trung đội là lần này cho chúng mày ăn …*** văn phòng. Liền kề là khẩu đội cối 60mm. Kế đến khẩu 12.8mm chẹn ngang cái cầu gỗ. Bên kia suối là trung đội 2 và trung đội 3. Trung đội 1 nằm ở cuối nguồn, cách quan sát sở 120m. Tắm suối mùa khô là một cái thú, nhất là sau những ngày đi dài mệt mỏi. Nước mát lạnh, trong văn vắt, cuốn đi bao nhiêu mệt nhọc, bụi đường. Nước mát nâng người lên, bềnh bồng ve vuốt. Những con cá nhỏ rỉa vào chân, vào lưng buồn buồn, nhồn nhột. Bên ngoài đã sạch rồi, làm sạch nốt trong lòng là…ị bậy. Cái sướng này cũng ngang với quận công.
Sáng Chủ nhật, ngày 15/4/1979. Trời xanh trong, nắng đẹp. Như mọi chủ nhật khác, chương trình văn nghệ Chủ nhật dành cho chiến sĩ từ 7h30 đến 8h sáng đang phát đi đoạn nhạc hiệu quen thuộc. Thằng Căn liên lạc với tay vặn to cái radio bán dẫn rồi ôm quần áo ra suối tắm. Có cái gì đó chấn động không gian. Dưới suối, rất đông lính các B đang bì bõm giặt áo quần bỗng nghệt mặt ra nhìn: mái nhà, vách nhà bằng gianh của chỉ huy sở đại đội bỗng bay tung lên trời. Liền luôn đó mới là tiếng B.40 mà tiếng đề pa đầu nòng chập làm một với điểm nổ. Cự ly bắn rất gần. Tiếp một phát B.40 tức ngực nữa giật tung lều cối, may mà không đưá nào bên trong. Đạn trung liên, đạn AK cày tung hai bên bờ suối. Địch rồi! Nó đã làm chủ vị trí chỉ huy sở đại đội và trung đội 3 và đánh chẻ đôi đội hình từ thượng nguồn xuống.
Anh Tảo người Hà Bắc - Trung đội trưởng 12.8mm đang tắm cứ cởi trần nồng nỗng, nhảy lên khẩu 12.8 cạnh cầu, hất tung tấm tôn che súng bắn cản địch. Lính ta quần đùi áo may ô ướt, trong tay không vũ khí chạy trắng lòng suối về hướng trung đội 1. Hoả lực, đạn nhọn của địch tập trung vào diệt khẩu 12.8mm. Đạn nổ rát, xung quanh chẳng còn mống nào hỗ trợ. Anh Tảo bắn thêm được mấy loạt ngắn nữa, thấy địch vào quá gần cũng bỏ súng chạy nốt. Thằng Tư trung đội 3 lớ ngớ tưởng còn chỉ huy sở, lại thấy 12.8mm vừa giòn giã liền chạy về qua cầu. Bị đạn nhọn xỉa rớt bịch xuống suối chết ngay.
Anh Lượng (người Hải Hưng, biệt danh Lượng khỉ) mới về nhận chức đại đội phó ngày hôm trước chỉ kịp vơ khẩu AR.15 không biết của ai và một băng đạn khi chạy qua một cái lều trống, kéo thằng Căn nhảy đại xuống một cái hầm sát bờ, cứ thấy bóng áo đen là điểm xạ. Dưới lòng suối, hai cái đầu đen thò lên cách hầm có 7m. Cò lại xiết nổ được vài phát thì hộp đạn rỗng không. Anh ấy nhanh trí giương súng quát to lớc đay lơn! (giơ tay lên). Hai thằng địch thụt đầu xuống suối. Hai thầy trò kéo tay nhau vọt lên miệng hầm chạy gấp.
Khẩu 12.8mm địch đã chiếm được quay nòng bắn theo mục tiêu vừa phát hiện. Đạn cày tung dưới chân, xuyên qua dãy thùng phuy làm dầu bốc cháy ngùn ngụt. Thật là còn may! Khói dầu đã cản tầm quan sát của địch. Trên trận địa chỉ còn khẩu đại liên của thằng Lễ là còn lên tiếng, khằng khặc thêm một thùng đạn rồi cũng tháo súng quăng xuống suối, tuỳ nghi di tản. Cha con anh em đại đội gom dìu nhau ở trung đội 1, theo con suối, thất thểu chạy về tiểu đoàn. Anh Quang râu, chính trị viên phó cũng bị một phát AR.15 xuyên bắp chân, lỗ xuyên nhỏ xíu không chảy máu nhiều. Vẫn đi tập tễnh được.
Thằng Tường lé, thằng Ban trố mất máy PRC.25, đôi mắt thất thần. Lính tráng non nửa là quần đùi áo lót, đi tay không, súng ống, ba lô mất sạch. Khẩu cối 60mm cũng rơi vào tay địch. Thấy thằng Gia “cà bây” vẫn còn gánh 6 quả cối trên đòn, thằng Trung B1 bảo sao không vất mẹ nó nốt đi rồi trang bị mới luôn thể. Thằng này cáu bảo vất đạn lại để nó giã cho vỡ đầu ông vải nhà mày ra à? Hục hặc như thế nhưng cũng chẳng còn lòng dạ súng đạn đâu mà đánh nhau nữa. Kiểm điểm lại, đại đội 1 trong sáng hôm ấy mất một khẩu 12.8mm; một khẩu cối 60mm; một máy PRC.25; gần chục AK và RPD; hy sinh 5; bị thương 3. Tử sỹ không mang đi được. Đến trưa thì về đến đội hình tiểu đoàn. Gương mặt ai nấy bơ thờ.
Cả tiểu đoàn 4 xôn xao. Đau quá! Anh Sơn lệnh ngay phần còn lại của đại đội 1, toàn bộ đại đội 2 và một khẩu đội cối 82 đại đội 4 do anh Thào - tiểu đoàn phó chỉ huy, quay ngay lại đánh địch. Vào đến nơi thì địch đã rút đi từ bao giờ. Tại chỉ huy sở đại đội 1, cái máy 2W nằm móp méo, lăn long lóc. Tử sỹ bị chúng nó dùng xẻng bộ binh băm nát mặt. Ba lô quần áo cũ cũng bị rạch nát tứ tung. Tiền phụ cấp chúng tôi vừa mới lĩnh (toàn tiền mới) bay như bươm bướm trên mặt đất. Trong một bụi cây gần chỗ bố trí khẩu đại liên cũ, anh Thào lấy gậy chọc chọc, lôi ra một thùng đạn đầy nguyên rồi gọi toáng lên: “Lễ! Lễ lại đây! Mẹ mày! Bảo bắn hết đạn rồi mới chạy thế thùng đạn nào đây?”. “Đạn địch đấy anh ơi!”. “Mẹ! Cờ đỏ sao vàng lè lè ra thế này mà mày dám bảo là đạn địch à?”. Thế là cứ cái gậy sẵn đấy, ông ấy quất vun vút. Thằng Lễ đại liên chân dài, ôm vội thùng đạn rồi bỏ chạy sau khi ăn mấy chưởng gậy vào lưng. Khẩu đội đại liên mò sục, móc được súng dưới lòng suối lên.
Thu dọn chiến trường xong xuôi, về đến đội hình tiểu đoàn thì trời đã tối. Thật là một đêm nặng nề! Nửa đêm về sáng, có hai phát pháo hiệu xanh vọt lên trên đỉnh rừng, cách chúng tôi khoảng 3 km. Điện về trung đoàn hỏi thì được thông tin là không có đơn vị nào đứng chân hay làm nhiệm vụ ở vị trí đó. Xác định rõ là địch với lực lượng cấp tiểu đoàn, đang bâu bám đơn vị. Hôm đó bọn Pốt gan thêm một chút, áp dụng bài đánh điểm, phục kích diệt viện nữa thì tiểu đoàn 4 còn thiệt hại nữa.
Sáng hôm sau, chỉ huy tiểu đoàn triệu tập toàn bộ các đại đội và trung đội trưởng về họp rút kinh nghiệm. Căn cứ lực lượng địch trong trận đại đội 1 mất chốt và các dấu hiệu đêm qua, dự đoán địch sẽ có thể đánh vào đội hình tiểu đoàn nay mai. Các đơn vị củng cố hầm hào sẵn sàng đánh địch. Cử các tổ thám sát vòng ngoài phát hiện dấu vết, tránh bị bất ngờ. Cuộc họp ngắn vừa tan thì xe tải trung đoàn có một trung đội của đại đội công binh 19 hộ tống vào đến nơi. Bổ sung súng đạn xong xuôi, tử sỹ thương binh được chuyển lên là xe vội biến ngay vì sợ bị phục kích. Tiểu đoàn trưởng trực tiếp bố trí lại đội hình.
Cái phum đơn vị tôi đang đứng chân lính gọi là phum “dừa cụt” hoặc “phum 19”. Trước đây một thời gian, đại đội 19 công binh trực thuộc trung đoàn đóng quân ở đây, và cũng đốn dừa ăn đọt nên nhiều cây cụt mới đặt tên như thế. Địa hình dốc thoai thoải từ cái chùa cũ đã bị phá huỷ, qua một trảng trống có một khẩu pháo 155mm xẹp lốp (địch bỏ lại, đã rút mất kim hoả) là đến con suối cạn hình cánh cung, ôm lấy rìa phum. Đại đội 2, xác định là hướng chủ yếu, bám rìa con suối cạn cắt ngang con đường. Khống chế trảng trống sườn phải ban chỉ huy tiểu đoàn là trung đội vận tải và khẩu đại liên 30 Mỹ do thằng Luân – liên lạc tiểu đoàn lấy được ở kho súng tháng trước (ba cán bộ tiểu đoàn mỗi người một liên lạc).
Tôi nhớ thằng Luân người Thanh Hoá, người nó to vật vã. Cái ba lô trên lưng nó cõng đồ cho cả hai người, cả nó cả chỉ huy mà vẫn lọt thỏm trên tấm lưng bè bè như cái phản. Ngoài khẩu AK treo bụng, nó còn vác thêm trên vai khẩu đại liên Mỹ này. Băng đạn quấn ngang quấn chéo đầy mình, cứ đụng địch lại hạ càng bắn rèn rẹt. Phần cao nhất địa hình là cái chùa đổ ở chếch phía sau bố trí đại đội 4 với khẩu 12.8mm còn lại và 2 khẩu cối 82mm. Đại đội 1, có tăng cường khẩu DK.82, giữ sườn trái tiểu đoàn.
Vị trí đại 1 nằm trong một chòm cây rậm sát bìa rừng thưa, cách tiểu đoàn bộ khoảng 120m bằng một khoảng rẫy khô trắng, địch mới trồng mì. Chỉ huy đại đội bây giờ là anh Tuy voi Hà Bắc, thay cho anh Khanh. Anh Lược, dân Hải Phòng làm chính trị viên phó thay cho anh Quang râu bị thương hôm trước. Như là duyên nợ, tôi và anh Ky lại được điều động xuống đại đội 1. Chúng tôi khiêng các súc gỗ dầu địch đã xẻ vuông vức, chồng lên nhau quây thành một cái công sự nổi của BCH đại đội. Bên trên không biết tụi liên lạc kiếm đâu được mấy tấm tôn trắng lợp làm mái. Cái mái trắng bóc nên anh Tuy bắt tụi tôi bẻ lá che lên. Vừa đỡ lộ, vừa cản nắng nóng ban trưa.
Ngày 17/4/1979, buổi sáng, anh Sơn tiểu đoàn trưởng kéo theo thằng Điệp xách khẩu M.16 xuống đại đội 2. Hai thầy trò dò dẫm ngược lòng suối cạn bên tay trái xem xét tình hình. Việc này đáng nhẽ của trinh sát tiểu đoàn, nhưng không hiểu sao hôm đó anh ấy muốn trực tiếp thị sát. Vừa qua khỏi đội hình đại đội 2 hơn 50m thì đụng 2 thằng trinh sát địch. Thằng đi đầu đứng trên bờ suối mọc đầy le, há hốc mồm vì bất ngờ nhưng cũng kịp bóp cò khẩu M.79. Quả đạn bay thẳng vào đùi anh Sơn, rơi bịch xuống nhưng không nổ vì cự ly quá gần, không đủ vòng xoay. Thằng Điệp (người Huế- học sinh trường Quốc học hẳn hoi) cũng bị giật mình, chĩa khẩu M.16 kéo một loạt lên trời. Hai thằng trinh sát địch chúi xuống bỏ chạy.
Thầy trò anh Sơn cũng tập tễnh dìu nhau tới đại đội 2 rồi về tiểu đoàn, lệnh cho các đại đội chuẩn bị đánh địch. Trung đội thông tin đang họp trong cái nhà sàn con con, nghe tiếng “Póc!” của M.79 và tiếng tiểu liên hướng lòng suối cạn, xớn xác ngó ra ngoài. Anh Nhương lao về hét thông báo địch vào rồi xua chúng tôi xuống các đại đội ngay. Tôi và anh Ky vừa lao xuống cầu thang thì khắp các đại đội, tiếng súng đã rộ lên. Hai thằng cắm cổ chạy vượt qua khoảng trống địch mới trồng mì, mọc ngang đến đầu gối về đại đội 1.
Không thể nói đạn bay chiu chíu hay cắc bụp bên tai nữa, vì lúc này đã ào lên như một nồi cơm sôi rền từ khắp các hướng. Cũng chỉ thấy toàn đạn nhọn địch chứ không có hỏa lực. Sau mấy lần ngã chúi vì vấp, hai thằng cũng chạy về tới ban chỉ huy đại đội 1 an toàn. Địch đã bám được vào lòng suối cạn trước mặt đội hình đại đội. Cứ nhô lên thằng nào là trung đội 1 xỉa ngay thằng đó. Biết không thể lên theo hướng này, nó để lại bộ phận bắn kiềm chế rồi quay sang bìa rừng đánh vào hướng trung đội 2, trung đội 3. Khẩu DK.82 nằm kẹp giữa hai trung đội làm liền mấy trái. Tiếng nổ làm tai ù đặc.
Lính trung đội 2 hô ầm ầm: “Cối bắn trước đội hình 40m!”. Thằng Dung tiểu đội trưởng cối 60 do ù tai, lại đang cuống cả lên liền lấy cự ly 40m thả đạn. Quả đạn cối rơi sát ngay khẩu đội DK.82. Thằng Hạnh, xạ thủ số 1 dính ngay một mảnh vào đầu nằm quay táng ra. Một chú nữa dính mảnh vào đùi. Thằng Mận - tiểu đội trưởng DK phát khùng, cõng thằng Hạnh về đặt nằm trong quan sát sở rồi xách AK chạy xồng xộc về khẩu đội cối tính ăn thua đủ. Dung “kỳ đà” mặt xanh như tàu lá. Anh Tuy chửi ầm ĩ, can chúng nó ra.
Bên hướng tiểu đoàn bộ, địch cũng bị trung đội vận tải với khẩu đại liên của thằng Luân ghìm chân không vượt qua trảng được. Cối 82 đại 4 cứ thì thụp giã vào bìa suối theo yêu cầu của đại 2. Thằng Cường vận tải thấy thưa đạn, bò lên định gí quả H.12 giá cạnh khẩu pháo 155mm thì bị chúng nó tỉa. Viên đạn có mắt đi qua trán nó. Anh Sơn bị thương vì quả M.79 hồi sáng, không đi lại được, nằm trong hầm quay điện thoại hỏi hết đại đội này đến đại đội khác rồi quay xuống đại 1. Cán bộ đại đội chạy hết xuống các B nên tôi báo cáo như người lớn: Đại đội 1 vẫn vững! Anh yên tâm! Ờ! Ngon nghe thằng em!
Đúng lúc đó, ngay sau chỉ huy sở đại đội sát mép trảng, đằng sau ụ mối lớn thấp thoáng mấy thằng địch áo đen. Thằng Đồng phát hiện địch trước, nổ mấy loạt AK. Tiếng AK địch toang toác đáp trả ngay sau lưng. Những thằng địch đi đầu dồn cả vào sau ụ mối vì chỗ rừng đó khá thưa và cây nhỏ. Đạn xuyên qua nóc lều lợp tạm bằng mấy mảnh tôn rách, thủng lỗ chỗ.
Thằng Căn, thằng Đồng liên lạc nhảy ra núp sau góc lều, bắn cản địch. Sợ mất máy, tôi lăn vào lều, đè cả lên người thằng Hạnh đang khò khè, giật vội cái máy điện thoại rồi nhào ra. Thấy thằng Thư y tá đang nhớn nhác sau một ụ mối, tôi bảo nó trong lều còn thằng Hạnh đang bị thương nằm đấy, vào kéo nốt nó ra đi không mất thương binh là mày chết! Bọn địch đánh bọc ***, định cắt đội hình C1 khỏi tiểu đoàn. Nó mà chiếm được vị trí chỉ huy sở C1 thì cả đại đội bung hết!
Anh Tuy thấy địch bám đánh rát phía sau, thét bê khẩu đại liên quay lại, giá súng ngay cạnh lều chỉ huy bắn dữ dội. Lúc này chẳng thấy tiểu đội trưởng Quyến khợp đâu nữa, đại liên chỉ còn thằng Nhạ tân binh, người Thái Bình và thằng Lễ. Thằng Nhạ cứ ngồi xổm chồm chỗm trên mặt đất không công sự mà đẩy cò. Hai thằng liên lạc và tôi cũng ghim AK hỗ trợ. Cái ụ mối lớn cạnh gốc cây cám to mấy thằng địch nấp bục dần từng mảng. Không thằng nào dám ló đầu ra nữa. Biết không ngon ăn, chúng nó rút chạy.
Chúng tôi vận động lên đến đó, thấy quanh ụ mối máu me be bét lẫn cả bông băng. Thu được hai quả lựu đạn chày địch chưa kịp ném. Tôi chạy vào trong lều đại đội mắc vội dây vào máy. Chắc tiểu đoàn đang sốt ruột quay máy nên tôi bị giật rung cả tay. Lập cập mấy lần mới xong. Liên lạc lại thông suốt. Anh Tuy báo cáo tình hình, nghe máy một lúc rồi nhăn mặt, đưa tổ hợp cho tôi. Tiếng súng thưa dần rồi im hẳn. Thế mà đã quá trưa lâu rồi!
Đến lúc này, anh Tuy mới gọi: “Thư! Thư! Băng cho tao!”. Anh ấy bị một viên AR.15 xuyên bắp đùi, máu ra không nhiều. Cái mũ cứng của thằng Nhạ cũng bị đạn xuyên thủng vành hai lỗ tròn vo lúc nó ngồi xổm bắn đại liên. Buổi chiều, nó cứ sờ sờ cái lỗ thủng, cười ngây ngô. Không kéo khẩu đại liên về đấy có khi bung chốt lần nữa. Khẩu DK.82, do quân ta đánh quân mình, bị thương 2, còn lại 3 người. Tiểu đoàn rút luôn khẩu đội này về đội hình đại đội 4. Trung đội 2 được lệnh bung ra ngoài đội hình đại đội, qua bờ suối cạn thám sát địch. Bọn này cũng chỉ lò dò qua trảng đến suối, loanh quanh một lúc, bắn bậy mấy loạt rồi về. Đạn thiếu, lính đi mót từng viên đạn lẻ rơi vãi tra vào băng. Chẳng bù cho những lúc chúng nó cứ bẻ đầu cát tút, dốc thuốc đạn đổ vào để nhóm bếp pha trà.
Đại đội 3, sau một thời gian đi phối thuộc trung đoàn, được trả về đội hình đúng hôm đó. Cắt rừng về đến nơi thì trời đã gần tối, bố trí ngay sau lưng tiểu đoàn. Thêm một đại đội, dẫu chỉ hơn ba chục tay súng, ai nấy cũng yên tâm hơn hẳn. Anh Tuy chào chúng tôi rồi chống gậy tập tễnh về tiểu đoàn bộ. Hôm sau cũng theo xe thương binh tử sỹ, cùng anh Sơn tiểu đoàn đi viện luôn, lập kỷ lục người chỉ huy đại đội 1 trong thời gian ngắn nhất (2 ngày). Anh Quảng trung đoàn cử về thay, nhận chức tiểu đoàn trưởng. Anh Chính “tréc” người Hà Nam Ninh làm đại đội trưởng đại đội 1.
Đơn vị nằm đây khá lâu để củng cố. Các đại đội nhiều hôm đi truy quét. Khi C1 đi càn, chốt bỏ trống nên chỉ huy tiểu đoàn đẩy trung đội trinh sát ra đó chốt thay cho C1. Vì cụm rừng đó là sườn trái D bộ, không thể không giữ. Tôi được lệnh để nguyên máy đó, nằm với trinh sát. Đội hình mỏng, có 7-8 người nên ngày ăn cơm tập trung trong lều chỉ huy. Còn ban đêm ngủ võng tản ra. Một hôm, quãng nửa đêm, một con chó trắng tinh dưới ánh trăng, lớn khoảng 15 kg chạy dọc đường bò xuyên qua vị trí B2 cũ vào gần đội hình. Cách hầm gác khoảng hơn chục mét, nó dừng lại. Tôi đã khẽ kéo nấc an toàn xuống, ướm nó vào đường ngắm. Nó dừng lại hít hít một lát rồi lộn trở lại theo đường cũ.
Tôi không bắn, linh cảm đó có thể là chó trinh sát của địch. Khi nó bỏ đi, mới luồn về võng anh Sơn (Sơn con B trưởng trinh sát) lay dậy. Anh Sơn vơ khẩu M.79. Hai anh em lại trở ra hầm gác đôi. Lúc sau nữa có tiếng lá khô loạt soạt rất khẽ, và cái chính là rất đều. Cái máy điện thoại trong lều chỉ huy để nấc chuông nhỏ, bỗng nhiên kêu cạch cạch như dế gáy. Đ…mẹ cái thằng nào không ngủ được, thử máy vào đúng lúc này! Tôi nín thở chờ phát B.40 đầu nòng từ phía địch.
Đánh bịch một cái, một hòn đá lăn lăn tới gần miệng hầm...Im lặng! Lại bịch một tiếng nữa...Anh Sơn mới lượm đại một cục đá, ném về phía trước cũng bịch một cái. Phía trước lặng ngắt, không thấy loạt soạt nữa. Mắt căng ra nhưng không nhìn thấy gì. Bóng trăng lổ đổ trong khoảng rừng Cái hầm gác nằm trong bóng thẫm của lùm cây nên nó khó phát hiện. Tôi với anh ấy chỉ rình nó loé lửa đầu nòng là siết cò. Nhưng chúng nó cũng không dám bắn vì sợ lộ vị trí. Thành ra cả hai bên rình rập nhau. Lát sau không thấy gì khác thường nữa…
Cả đêm hôm ấy, trung đội trinh sát và tôi thức suốt. Sáng hôm sau bám lên, nhặt được nắm cơm chuột khoét nham nhở bọc trong giỏ thốt nốt. Thời đó địch vẫn còn mạnh, lực lượng chốt đêm vài mống, thêm thằng thông tin là tôi nên cũng ngán. Nhất là đang xuống tinh thần vì vừa bị nó tẩn cho một trận te tua. Đêm ấy chúng tôi không có lựu đạn. Mà có lựu đạn chưa chắc đã dám ném vì mình không biết rõ lực lượng địch thế nào? Cũng là thói quen của tụi trinh sát nữa chứ bộ binh C1 là chúng nó nổ súng ầm ầm rồi. Nhỡ nó vào cả tiểu đoàn thì mình bỏ mẹ! Ban ngày trông rõ địch, nó đông cũng không sợ vì mình có thể đánh hoặc bỏ chạy vô tư. Nhưng cuộc chiến không có chiến tuyến, rừng đêm như thế biết lực lượng địch thế nào? Nói là mình với bọn Pốt đêm đó cùng sợ nhau cũng đúng. Đêm mùa khô lạnh, nhưng đầu và lưng áo tôi ướt đẫm mồ hôi...
Cũng ở đây, tôi bắt đầu biết hút thuốc thực sự. Điếu thuốc Vàm Cỏ vào phổi từng ngụm nhỏ, ngai ngái và nằng nặng.
Tình hình yên ắng trở lại. Sau một tuần củng cố, sư đoàn lại chuẩn bị chiến dịch đánh thông lên thị trấn Leach theo thung lũng phía bên kia núi Urăng. Trung đoàn 2 chúng tôi được lệnh trèo vượt núi này, chẹn ngang thung lũng để các đơn vị bạn lùa địch vào đấy cất một mẻ lớn. Urăng là một dãy núi cao nằm theo hướng tây bắc – đông nam. Có những đỉnh độ cao tuyệt đối đạt 1500m. Địa điểm bắt đầu cắt vào để vượt núi được xác định đúng cái phum hoang mà đại đội 1 mất chốt tuần trước, cách phum “dừa cụt” tiểu đoàn 4 đang đứng chân 6 km. Mệnh lệnh rất rõ ràng, quán triệt đến từng chiến sĩ: bí mật bất ngờ, tránh các đơn vị nhỏ lẻ của địch, mang đầy đủ lương thực súng đạn tác chiến trong 6 ngày, nhất là đồ đựng nước uống. Chuẩn bị tư tưởng, hậu cần xong xuôi, trung đoàn lục tục lên đường.
4h sáng, nhận xong phần cơm vắt cho cả ngày dưới anh nuôi là hành quân ngay. Tiểu đoàn 4 đi đầu, theo con đường nhỏ ngược về hướng bắc. Cấm dùng thông tin vô tuyến, cấm bắn bắt liên lạc. Một bộ phận của đại đội trinh sát 21 trung đoàn và trinh sát tiểu đoàn 4 thuộc địa hình đi trước bám địch. Gần 6h sáng có lệnh dừng lại. Trinh sát đã phát hiện có khói bay lên trong phum (bây giờ gọi là phum “đại đội 1 tan tác” ). Đơn vị im lặng dạt vào rừng, cắt lối khác áp vào triền núi Urăng này. Hướng leo cũng đúng hướng tấm hình chụp, từ đông sang tây, vượt qua ranh giới giữa tỉnh KP S’Peu và Pursat.
Bắt đầu leo dốc khoảng 7-8h sáng. Lúc đó dưới chân rừng thưa, nắng xiên hướng đông đã chói lắm. Tôi gặp anh Quảng, D trưởng D4 tôi một thời gian thay anh Sơn đi học. Lúc này anh ấy đi chung với ban tham mưu trung đoàn. Anh ấy nháy mắt bảo thông tin chúng tôi là chúng mày chuẩn bị leo núi “Khô Rang”. Hai ba trăm mét độ cao khởi đầu rừng sáng còn ngon, nhưng càng lên cao càng khó đi. Rừng nguyên sinh trên núi dày rịt dây leo. Tầng cây cao khép tán, toả bóng thâm u che phủ. Đã 9h sáng mà đáy rừng vẫn nhờ nhờ tối. Những cây con bên dưới bị cớm nắng, thân mảnh thẳng đuột, ken dày như thành. Tôi cũng biết là phải giữ hơi đều, hít sâu và thở ra từ từ, nhưng đến khoảng gần trưa thì mớ kiến thức dưỡng sinh ấy trở thành vô dụng. Mũi, mồm và tai cùng thi nhau hoạt động hết công suất. Đấy là còn được đi sau đấy! Còn mấy thằng trinh sát đi đầu, vừa đi vừa phạt cây mở đường lên thì phải biết chúng nó siêu như thế nào.
Cắm cúi leo. Khoảng tiếp xúc giữa ba lô và lưng áo đã ướt đẫm mồ hôi. Rồi cái ruột tượng 5 ký gạo quàng quanh cổ cũng ướt nốt phần đáy. Quai máy, quai súng siết vào vai tê dại. Vẫn chưa có lệnh nghỉ. Đi! Đi cho kịp giờ hiệp đồng! Toàn trung đoàn thằng nào thằng nấy khoanh tay trước bụng, còng lưng vượt dốc. Thằng Tào, thằng Lại anh nuôi đại đội 1 cậy mang nhẹ, chỉ phải khiêng cái nồi nhôm quân dụng, nên cứ băng băng vượt trước. Nhọ nồi quệt vào lá cây, từ lá lại quệt vào mặt những thằng đi sau lem nhem. Ông Thào tiểu đoàn phó tức, vừa xoa mặt vừa quát chúng nó xuống đi sau. Nhưng hai thằng này cứ như điếc, càng vọt khoẻ, mỗi lúc một xa. Bất lực! Thế là bố ấy lấy cái gậy chống phi theo luôn nhưng trượt. Đã thế lại còn mất đà ngã quay ra. Lính tráng cười ồ lên hô tháo đạn đứng dậy. “Mẹ hai thằng cà chớn! Rồi biết tay tao!”. Anh ấy chửi với chữa ngượng thế thôi chứ sức đâu mà đuổi! Tình huống khôi hài cũng làm quên đi cái mệt được một chốc.
Quá trưa, có lệnh nghỉ ăn cơm. Tôi kiếm một chỗ phẳng, ngồi phịch xuống, dựa vào ba lô vẫn quàng nguyên sau lưng hồng hộc thở. Lát sau mới tháo ba lô ra. Cái lưng áo ướt đẫm mồ hôi giờ trở nên lạnh lạnh vì khí núi. Đỡ mệt, giở cơm vắt ra ăn. Vèo một cái là nửa vắt cơm đi bay vì hôm đó có món mắm trâu của bọn cối đại đội 1. Thịt trâu ăn chán rồi, còn lại nước thịt. Chúng nó cho muối, bột gia vị vào rồi đun nhỏ lửa cho đến khi cô lại sền sệt. Đổ vào đoạn ống DK.82 cắt ngắn, lấy nilon bịt lại mang theo khi hành quân. Loại “mắm” đó hao cơm vô đối.
Nghỉ một lát lại leo tiếp. Rừng ở độ cao lớn quang hơn nhưng độ dốc lớn hơn. Bắt đầu có mây mù dưới thung lũng bốc lên. Trời tự nhiên tối lại. Những hạt nước li ti nhưng dày đặc làm triền dốc trơn nhẫy. Khổ nhất là lính pháo DK.75 đại đội 17 trung đoàn. Khẩu đội trưởng đi trước, dùng xẻng pháo đào khoét triền núi thành từng cái hốc cho bọn khiêng pháo phía sau có chỗ đặt chân. Hai thằng khiêng nòng, mỗi thằng một đoạn tầm vông. Thằng xỏ miệng, thằng xỏ đuôi, hai đoạn tầm vông oằn xuống dưới sức nặng của nòng pháo. Cứ trầy trượt như thế mà bám sườn leo lên. Bọn mang đạn buộc hai ống DK néo lại làm một, cúi đầu gằn gằn bước. Thỉnh thoảng có thằng trượt chân. Nòng pháo lăn lông lốc rồi mắc lại ở cái gốc cây nào đấy. Chúng nó lại quay xuống, nhẫn nại kéo lên không kêu một tiếng.
Đại đội 16 cối 120mm còn nhục nhằn nữa. Bốn thằng lặc lè khiêng hai cái đòn xỏ chữ thập nâng đế cối, như người ta khiêng một con rùa khổng lồ. Chỗ rộng không sao. Chỗ hẹp phải có một đứa phát cây dọn cho đòn khiêng khỏi bị vướng. Cái chữ thập lúc mở ra, lúc khép vào kèn kẹt theo độ mở địa hình hướng đi. Những chỗ dốc quá, cái bàn đế trượt lê trên mặt đất núi ướt, ủi tung cả đất. Còn nòng cối, chúng nó tròng dây kéo trượt ngược lên, mồm miệng bạnh ra như hổ mang thổi lửa. Nhìn cái cảnh đó đừng đứa nào bảo lính pháo là sướng nữa. Xem cái ảnh hò kéo pháo lịch sử trong báo thì thấy vui như chơi kéo co. Còn nhìn cảnh các đại đội hỏa lực trung đoàn tôi khiêng pháo vượt núi trên đất trơn thì mới thấy khiếp. Tốt nhất là được làm cái thằng chụp ảnh hô hào tuyên truyền. Cho nó khiêng thử thôi chắc vãi cả *** ba họ.
Để đại đội DK.75 của trung đoàn vượt qua là tôi đã bị tụt lại sau tiểu đoàn 4 khá xa rồi. Sức tôi khá yếu so với tụi nó. Hai thằng một máy, hai cuộn dây 600m, một khẩu súng, hai ba lô, hai ruột tượng 10 ký gạo… anh Ky đi cùng tôi cũng không giục không nhắc gì, cứ lùi lũi đi đằng sau. Khi các đơn vị khác nghỉ, chúng tôi vẫn cứ cắm cúi bước để theo kịp đơn vị. Trời sâm sẩm tối thì gần lên tới đỉnh. Một hơi gió tạt qua mát lạnh, gió sườn tây núi Ô răng thổi từ vịnh Thái lan. Nghĩa là sắp đổ dốc xuống núi. Trời bắt đầu mưa lất phất. Thật lạ lùng! Mới bên này cách mấy trăm mét khí hậu khô rang nóng kinh người mà sang sườn bên này thời tiết quay ngược 180 độ. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là mưa địa hình. Bây giờ đọc thêm thì mới biết hiện tượng địa lý ấy nó gọi tên là thế, chứ lúc đấy thì biết chó gì! Chỉ biết là rất mệt! Mệt đến há hốc mồm.
Tôi tránh anh Ky, chui vào một bụi rậm vờ đi *** rồi tháo bao gạo đổ đi 1/3 ruột tượng. Trông kỹ ra thì trong bụi ấy cũng trắng xoá gạo đổ của những thằng đi trước. Gạo nhẹ đi nhưng nỗi nhọc ngày một tăng lên. Đôi chân dường như không phải của tôi nữa mà như đi mượn. Trời tối đen. Cứ nghe tiếng vạch cây rào rào đằng trước mà chuệnh choạng lần theo. Thỉnh thoảng lại vấp phải chân những thằng đang nằm ngủ, hoặc nghỉ thò ra giữa lối, ngã lăn ra. Mồm vập vào súng đau điếng. Phát cáu lên bảo chúng mày muốn ngủ thì cứ chui vào bụi mà nằm, sao lại ngáng chân bố mày. Về sau mới biết có những thằng mệt quá ngồi ngủ, sợ ngủ quên mất nên cứ thò duỗi chân ra đường để có ai đi sau vấp vào đánh thức rồi lại lần theo, không có lạc mất đơn vị. Mà lạc ở đây chắc chắn chỉ có làm mồi cho hổ.
Thằng Phụng người Huế, khoác cái máy 2w vừa leo vừa khóc. Nó bỗng phát khùng chửi đ…mẹ bọn tham mưu tác chiến trung đoàn lừa chúng tao! Bảo đêm là tới mà sao vẫn đi mãi. Lạc đường rồi! Chẳng may anh Phấn tham mưu trưởng trung đoàn đang bước ngay sau nó. Anh Phấn bảo mày ngon đưa máy cho anh khoác, còn bản đồ la bàn đây, cho mày lên làm tham mưu trưởng liền. Đ…má lính tráng cà chớn! Thế là nó im tịt, cắm đầu bước tiếp.
Giờ thì chẳng còn phân biệt được đơn vị nào vào đơn vị nào nữa! Cứ thằng khoẻ đi trước, thằng yếu đi sau, yếu nữa thì đi sau rốt như bài ca con voi của bọn trẻ con. Giở nắm cơm vắt ra, nó đã chua loét phần bên ngoài. Tôi bẻ đôi, cạp cạp mấy miếng phần lõi rồi lẳng vào bụi. Cái bát sứ hoa men xanh bà già Miên cho ở Neak Luong cũng lẳng đi nốt. Nhẹ tí nào đỡ tí ấy. Còn nhai và nuốt với lý trí là để nạp thêm năng lượng thôi, chứ không hề có thấy đói. Có chết cũng không thể là ma đói được. Không phải cảm giác mệt nữa! Phải nói là cảm giác tuyệt vọng đôi khi trào lên và dần dần chế ngự con người. Giá chết được ngay, chấm dứt nỗi khổ này ngay có khi cũng tốt! Một cái đầu đờ đẫn trên một đôi chân rời rã, lúc nào cũng chực gục xuống.
Dần dần xung quanh chẳng còn ai…
Khi tôi chợt nhận ra điều ấy thì nỗi khiếp sợ bỗng ùa tới làm tỉnh cả người. Hóa ra mình cũng ham sống phết! Tôi dừng lại ghìm nhịp thở, lấy lại bình tĩnh nghe ngóng. Chỉ có tiếng gió thổi trong lá. Xa phía dưới kia, có tiếng lá rung ào ào từng nhịp ngắn. Chỉ có người vịn vào cây vít lại rồi buông ra lá mới rung theo nhịp ấy. Tôi tháo ruột tượng gạo định lẳng vào rừng cho nhẹ để đuổi theo, nhưng chợt nghĩ lại. Giống như trong truyện cổ tích, tôi mở nút ruột tượng, thả gạo dần theo lối chạy để đánh dấu đường. Tiếng động lá ngày càng gần. Lúc này không phải chỉ có chạy nữa, mà vừa chạy vừa ngồi phệt tụt dốc xuống. Vừa hết ruột tượng gạo thì va phải một đám lốc nhốc. Chúng nó chửi ầm lên. May quá! Khẩu DK.82 của đại đội 4 đây rồi! Hoá ra chúng nó cũng suýt lạc đường. Lúc ấy đã là 2h30 sáng. Cả bọn đi thêm một đoạn nữa thì gặp anh Ninh đại đội phó đại đội 4 hoả lực với thằng liên lạc đang ngồi nghỉ. Mừng vì đã gặp lại đội hình, chúng tôi bước dấn qua.
Đêm tối mịt mùng. Bọn DK82 rạch ống bảo quản, tháo đạn cho vào ba lô rồi đốt ống nhựa tìm đường về đại đội 4, bất chấp lệnh cấm đốt lửa. Nhựa cháy xèo xèo, rỏ cả những giọt lửa xanh lét xuống chân bỏng rẫy. Đi một lúc nữa, tôi về tới đội hình tiểu đoàn. Chân núi chỉ còn một đoạn ngắn nữa. Võng chăng ngang chăng dọc. Tôi cũng tìm vội hai cái cây mắc võng. Quăng ba lô cái huỵch rồi leo lên gần như ngủ ngay tắp lự…
Không có khái niệm thời gian, thiếp đi được một lúc tất cả đều choàng dậy. Trên núi, không thể xác định được khoảng cách, ba phát AK nổ đĩnh đạc, kiểu bắn bắt liên lạc. Tiếng nổ hồi âm qua các sườn núi, các tàn cây vọng lại ào ào rồi nhoè dần. Chúng nó nhỏm dậy, lào thào hỏi nhau: “Bọn nào bắn ấy nhỉ?”. “Chắc bọn lạc đường!”. Hai thằng trinh sát được cử quay lại tìm người bắn. Luồn sâu kiểu này thì lộ mất rồi.
Lúc này, phía thung lũng dưới núi, tiếng động cơ ô tô, xe xích bỗng rộ lên, vọng lại ầm ì. Nhìn rõ loáng thoáng những vệt đèn pha trong sương đục. Địch đã bắt đầu bỏ chạy. Chắc chắn là lộ rồi! DK.75 và một khẩu pháo 105mm của địch bắt đầu bắn phát một lên núi. Bắn kiểu mù thôi, đạn rơi cách chúng tôi rất xa. Bộ đội thu võng ào ào. Tiểu đoàn lệnh 2W lên máy, để lại toàn bộ ba lô cho bộ phận thu gom quân lạc đường trông, còn tất cả các đại đội lao xuống núi. Lúc bắt đầu vận động, toàn thân đau điếng, cứng đơ, tưởng chừng không cất mình lên nổi. Được một quãng thì ổn định dần dần.
Trời mờ sáng. Lội qua một suối nước tù sâu hoắm, nước lạnh căm căm thì lên đến một cái trảng rộng. Giữa trảng là con đường đất rộng rãi đầy vết xe cơ giới. Bên kia trảng, một dãy nhà thấp lợp tranh nằm lẫn những chiếc xe vận tải, máy cẩu, máy ủi màu vàng choé. Nơi đó có một cây xoài độc lập rất lớn. Bộ binh dàn hàng ngang tiến lên. Lính đại đội 2 nổ súng rồi hô xung phong. Cối và DK bắn theo hướng con đường chạy dọc thung lũng. Không có tiếng súng bắn trả từ phía địch. Không tiêu diệt được được bất cứ một thằng địch nào. Thu một khẩu pháo 105mm, một khẩu DK.75mm và một số đạn cối 82. Số xe máy công trình địch bỏ lại, toàn đồ KOMATSU Nhật Bản, đã bị bắn thủng gần hết lốp. Riêng lố đạn cối 82 sản xuất tại Trung Quốc, trung đoàn ra lệnh gom huỷ ngay. Trong trận Ô Đông hồi trước, trung đoàn 1 thu được đạn cối 82 của địch mang ra xài. Khi thả đạn thì nổ ngay trong nòng súng. Hy sinh gần hết một khẩu đội.
Nắng lên được một lúc thì gặp lính trung đoàn 1 theo đường lớn tiến vào thung lũng. Trung đoàn này cũng gần như phải hành quân suốt đêm hôm qua. Đi đường bằng nên khoẻ quân hơn, theo đường lộ vượt qua chúng tôi truy kích địch. Chúng tôi nghỉ lại một ngày, chờ công binh, vận tải sư đoàn lên thu hồi chiến lợi phẩm. Tôi nhớ hôm đó hình như là chủ nhật. Nắng lên trong rừng quang đãng, với thảm cỏ non xanh vì gần suổi. Khoảng rừng này thật đẹp như tranh phong cảnh. Anh nuôi cho ăn cơm sớm. Đi lấy cơm về trung đội bằng đôi chân đau cứng các cơ, nhất là lúc mới đứng dậy từ võng. Ăn xong lại nằm ngủ tiếp.
Về sau này, quân pháp quân đoàn xuống đơn vị tôi điều tra mãi nhưng cũng không tìm ra người bắn ba phát AK “bắt liên lạc” đêm đó, làm lộ đội hình luồn sâu. Khi đã tuyệt vọng hay lạc đường hoảng sợ thì hành động vô thức như thế là thường. Đừng có anh nào nói phét rằng các đồng đội cứ đi đi, cứ bỏ tôi ở lại một mình trong rừng sâu với hổ. Tôi sẵn sàng hy sinh vì bí mật quân sự. Lúc đó lại chẳng són *** ra quần. Người bắn đó là ai bây giờ nói ra cũng chẳng ích gì. Chuyện cũ đã qua đi lâu rồi. Không diệt được địch cũng là do số phận.
Hôm sau, tiểu đoàn hành quân phát triển rộng hơn về bên phải đường. Phía trung đoàn 1 đi trước, tiếng súng lớn nổ vọng lại ầm ì. Đơn vị mở rộng đội hình, sục sạo sát chân núi nhằm phát hiện triệt phá những kho tàng, cơ sở hậu cần của địch. Cứ thấy ngách núi nào có đường bò hoặc nghi có địch là đơn vị rẽ vào. Tiểu đoàn bộ đi đường bằng dưới thấp. Các đại đội đi theo bình độ trên sườn núi bao thung lũng. Được một lúc đầu đi theo kiểu đó, sau rồi vất quá nên bộ binh các C bộ binh hạ dần độ cao rồi nhập luôn với đội hình tiểu đoàn.
Ở đây xảy ra câu chuyện rất khó chịu và lạ lùng. Có một thằng địch thỉnh thoảng lại câu póc một trái M.79 vào đội hỉnh tiểu đoàn. Lúc hành quân, lúc nghỉ đêm đều không yên với nó. Lúc nó đón đầu đằng trước, lúc lại bắn từ bên sườn. Căn cứ vào khoảng nổ đầu nòng đến khi trái đạn nổ oành thì ước lượng nó luôn bám sát bọn tôi khoảng 250-300m. Gần như thằng này không biết ngủ. Đạn lúc nổ trên cây, lúc nổ dưới đất nhưng đều cách khá xa không gây thương vong. Chúng tôi không bắn lại nhưng đi đến đâu nó đều biết đến đấy. Hột “xí ngầu” mồ côi kích cỡ 40mm, gieo cái póc bất kể ngày đêm. Nó bay rất chậm rãi trong không trung...đủ thời gian để ta suy nghĩ, đợi chờ tiếng chẵn, hay tiếng bạc lẻ đời mình, không biết nó rơi vào đâu? Nói chung cực kỳ khó chịu. Anh Chính tréc tức lắm, cứ lúc nào nghỉ đều tung một B lên rình nhưng nó đều tránh được. Hình như nó là một con ma. Suốt 2 ngày trời liền như thế thì không thấy nó póc póc nữa. Chắc cu cậu hết đạn vì đạn M.79 ngay đơn vị tôi bấy giờ cũng bắt đầu thiếu.
Đây đã là địa phận tỉnh Pursat, cách thị trấn Leach khoảng 45 km. Ngoài đường lớn chạy giữa thung lũng, trung đoàn pháo 42 kéo pháo theo bộ binh. Cần chi viện hướng nào đáp ứng hướng đó. Trong những ngày ấy, tiểu đoàn 4 tìm thấy khá nhiều những kho hậu cần nhỏ địch phân tán trong rừng, để tạm trong những căn lán nhỏ cất vội. Kho gạo mang không hết thì đốt, vì số lượng nhỏ không bõ gọi xe sư đoàn đến chở. Kho muối thì mang ra suối đổ rồi bắn vỡ hết chum. Có cả một cái “kho” kéo cắt tóc Trung Quốc. Nhờ cái kho kéo này mà anh em trong tiểu đoàn có đồ để chỉnh trang sắc đẹp cho nhau. Một kho quần áo kaki rất dày dặn, màu xanh công nhân, may kiểu áo ga ba đin Trung Quốc của bộ đội ta cũ. Nhưng kho này ít quá nên tụi nó tranh nhau cướp.
Nhưng may nhất là vớ được một kho vải màu xanh sỹ lâm. Lính ta đang rách rưới. Quần áo đi trận đánh nhau, hành quân gai cào cỏ xé đã tơi tả cả mà quân nhu vẫn chưa phát kịp. Nay sục được kho này như buồn ngủ gặp chiếu manh. Phải nói là trong lính có rất nhiều thằng có tài, rất nhiều hoa tay trong nhiều lĩnh vực.
Bây giờ tiểu đoàn lòi ra một tay thợ may tay ngang là thằng Lễ đại liên. Với một cây kéo lấy được trong kho của địch, nó cứ nhìn người đến nhờ một thoáng rồi hạ kéo cắt xoèn xoẹt, khỏi cần đo đạc mất thì giờ. Có moi quần cẩn thận, khâu vào bằng những cái khóa kéo nhựa YKK lấy được ở Ph’nom Penh. Có điều không cái quần nào có túi. Chắc là nó chưa đủ trình độ. Đường kim mũi chỉ của mấy anh lính không được “mỹ thuật” cho lắm. Chỗ đột mau, chỗ đột thưa và thường là ngoằn ngoèo, nhưng cũng đủ giúp chúng tôi có tấm áo manh quần che thân lành lặn. Thấy một thằng lính tử trận là điều bình thường. Nhưng nhìn một thằng lính buổi trưa ngồi võng, cặm cụi tự khâu lấy quần áo cho mình thì trông rất tội! Từ đó, cứ thấy sắc lính xanh rì sỹ lâm là trung đoàn biết ngay lính tiểu đoàn 4 khỏi cần giới thiệu.
May võng thì đơn giản hơn. Để nguyên khổ vải đáp bốn, đáp sáu, có cái võng đáp đến tám lượt… rồi khâu chèn chặn gấp mỗi đầu hai lượt là có một cái võng tử tế. Võng nào cũng đáp nhiều lượt vải nặng trình trịch vì đó là để chúng tôi tích trữ vải. Khi cần tháo bớt ra may những đồ khác cần thiết hơn. Lúc đó chưa gặp dân, chưa có khái niệm đổi chó. Những kho nhiều vải, tụi nó quấn nguyên súc vải ngang dọc quanh các thân cây liền liền nhau làm võng tạm thời, như người ta trang trí bày đặt sân khấu. Dây võng dù lúc đó là của quý. Ngoài việc may quần áo, may võng, chúng tôi còn mang vải ra đổi thuốc lá, đổi các nhu yếu phẩm cần thiết khác cho lính pháo 42. Bọn này hành quân cơ giới, cái gì cũng mang đi được. Lại hay được hậu cần tiếp tế nên cái gì cũng có.
Thời gian này địch tan tác, đói lả… không gượng được nổi nữa. Cứ thấy bóng chúng tôi là chạy. Có khi gặp một cái xác teo tóp còn nguyên khẩu AK trong tay trên đường. Anh Ky bảo chắc là nó chết đói hoặc chết khát. Điều đặc biệt là tuy chúng nó chết đói như thế, song các kho gạo, kho vải phân tán trong rừng vẫn nguyên bao bì, không hề bị xâm phạm. Trái lại, lính ta bây giờ cứ thấy kho, thấy địch là ồ lên, mạnh ai nấy chạy tới, nổ súng không ra đội hình chiến thuật gì. Cách đây mới có non tháng thôi thì tình hình khác hẳn. Bây giờ trinh sát gặp địch cũng nổ súng luôn, không thèm chờ bộ binh. Lính tiểu đoàn bộ cũng nhoi lên kiếm lợi. Tất cả chỉ vì mấy cái kho, mấy cái đồng hồ hoặc mấy chỉ vàng trên tay hay trong túi mìn những thằng địch chết. Trên một cái trảng nhỏ, đại đội 1 bắn sụm 3 thằng địch. Thằng Đặc lao lên giật đồng hồ từ một cái xác. Đồng hồ chưa tháo khỏi tay địch thì thằng Trung cũng xông đến. Thấy thế, thằng Căn liên lạc bắn găm tung đất, cản thằng Trung để thằng Đặc thu chiến lợi phẩm được an toàn. Hai thằng này vốn thân nhau. Thằng Trung uất ức vì thằng địch đó do nó hạ, còn thằng Đặc có nổ phát B.40 nào đâu? Anh Chính thấy chúng nó hục hặc, nổi cáu đòi thu đồng hồ. Nhưng cái đồng hồ lúc đó đã mất tăm tích.
Vào một buổi chiều gần tối, trong một cái ngách núi heo hút và ẩm ướt, tiểu đoàn 4 gặp lại “cố nhân” như một sự sắp đặt của định mệnh. Vừa ở bìa rừng rúc ra mép trảng, chúng tôi bắt gặp mấy cái nhà nhỏ lợp gianh, lá còn rất mới. Ở bên Campuchia, dù cất nhà to hay làm nhà nhỏ, kể cả những cái chòi con đều làm kiểu nhà sàn. Đại đội 1 đi đầu dừng lại ngay, chia mũi bí mật tiếp cận. Dưới gầm nhà, quanh chân cột, hơn chục thằng địch đứng ngồi lố nhố. Chúng nó đang nấu cơm chiều. Lính C1 cứ bám từng bụi cây, lặng lẽ bò tới. Cách địch khoảng 30m thì tự nhiên hai thằng trong đám đó đứng dậy, vác 4 ống DK.75 đi xăm xăm thẳng về phía anh em đang bò vào. Chắc chúng nó đi lấy nước ở cái suối mà chúng tôi vừa đi qua. Chính “tréc” đại trưởng vừa gí đầu nòng súng lính xuống, định ra hiệu bắt sống nhưng không kịp. Thằng Trung B1 đã kéo một loạt AK. Hai thằng địch đổ vật xuống ngay. Liền đó, hai phát B.41 thổi tung căn nhà, nhìn rõ cả cái nồi gang vỡ với xác địch người tung lên. Trong đám đó chỉ còn ba thằng phía ngoài vùng chạy được. Trời nhoè nhoẹt tối. Lính đại đội 1 bắn đuổi theo ba thằng chạy rầm rầm. Đứa quỳ bắn, đứa đứng bắn, có đứa kê súng vào chạc cây cẩn thận lấy đường ngắm, điểm xạ mãi mà vẫn thấy chúng nó chạy nhanh như hoẵng.
Thế mới biết đôi khi chết được cũng khó! Trên cái nền trước kia là nhà, thịt người lẫn nội tạng văng tung toé. Vẫn còn hai thằng bị thương không chạy được kêu lên ồ ồ! Trong mấy cái bồng rách hôi mù của bọn này, chúng tôi lôi ra được cuốn sổ ghi bài hát nhăng cuội của thằng Tư hy sinh hôm đại đội 1 tan tác. Thằng này lấy để xé giấy hút thuốc rê. Trúng phóc bọn đánh đại đội 1, băm mặt thương binh tử sỹ bên kia núi. Oan gia gặp nhau trong ngõ hẹp. Kẻ thù đây rồi! Anh Thào nổi cơn điên, quát lính khử nốt hai thằng tù binh bị thương. Thằng khẩu đội trưởng DK.75 đại đội 17 đi phối thuộc hô lên: “Để em!”. Chúng tôi vội giạt ra khỏi hướng bắn của nó. Nhịp AK găm vào ngực và họng thằng thứ nhất, nhưng nó không chết tốt lại còn khò khè lớn hơn. Thằng thứ 2 (chỉ chừng 16 tuổi) lăn đến ôm chân thằng bắn. Nó đạp ra, nhưng đã run tay lùi lại. Ông Thào lườm nó một cái rồi rút K.59, phân phối đều vào sọ mỗi thằng hai phát. Thấy giật giật mấy cái rồi xụi lơ, môi vẫn còn run run. Thấy chúng tôi nghệt mặt ra, anh ấy quay lại chửi: “Mẹ chúng mày! Lính với tráng!” rồi bỏ đi.
Tôi đá nốt cuốn sổ của thằng Tư vào trong đống than hồng. Trả mày cuốn sổ xuống đấy mà hát vớ hát vẩn! Anh em đã thanh toán xong món nợ cho mày! Không biết có phải cái thằng đã cầm xẻng băm mày không?
Trên các bản đồ tự nhiên Campuchia bây giờ, hay khi chúng ta tìm kiếm trên Google, “mục tiêu A3”_cái thung lũng rộng lớn nơi trung đoàn 2 chúng tôi luồn sâu trèo vào đó được ghi chú thích: “Aoral wildlife sanctuary”. Tức là khu bảo tồn động vật hoang dã Ôran (URăng như chúng tôi gọi). Tiểu đoàn tôi cứ đi quanh đi quẩn trong các hẻm núi dường như chưa bao giờ có dấu chân người. Có những nơi đã đi qua hôm trước, hôm sau lại có lệnh vòng lại. Nhưng rừng lúc nào cũng lạ như mới, như chưa hề đi qua.
Thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp một đám dân nhỏ ở trong rừng. Họ đói, rách rưới, trông như một đám người rừng. Đơn vị gom lại, kiểm tra đồ, chia cho ít gạo rồi chỉ lối bảo họ ra phía đường lớn về nhà làm ăn, không ai giết mà sợ. Có buổi trưa, khi đang cắt rừng tìm suối, chúng tôi gặp một đám phụ nữ chừng bảy tám người nằm ngồi quanh một cái xe bò gẫy trục. Thấy bọn tôi, hai người đàn ông trong nhóm chống hai con dao quắm cố gắng đứng dậy. Xương sườn, xương bả, xương ống bọc dưới lớp da đen nhờ, lộ như một tiêu bản thạch cao. Không thể quên những khuôn mặt nâu không có tuổi, không biểu cảm và dường như ở một thế giới khác. Họ nhìn chúng tôi như nhìn thấy những con sâu con bọ mà thôi. Bởi vì họ đang sắp chết đói.
Anh Ky móc cóc ba lô chìa nắm cơm ra. Từng ấy cặp mắt sáng lên nhìn theo sự chuyển động của nắm cơm, như ta nhìn theo quả bóng thủ môn phát lên. Thằng Phượng bọ y tá đại đội 1 (thay cho thằng Thư đi học) bảo cho nó ăn cơm là chết ngay đấy. Anh nuôi nổi lửa nấu ngay nồi cháo loãng. Một số thằng khác kiếm cớ khám bồng, lục túi mìn để kiếm vàng. Vàng bấy giờ cũng chẳng quý bằng nồi cháo loãng. Cháo chín được chia ngay thành từng suất nhỏ rồi hết bay. Thằng Phượng giải thích là nhịn đói lâu, phải ăn hạn chế như thế mới không bị sốc. Một bà giá cầm ca cháo đến chiếc xe hỏng, lật chiếu lá lên định bón cho thằng bé con. Nhưng nó đã chết trước đó. Bên cạnh nó là một cái gùi. Khám gùi thấy có mấy miếng thịt nâu đen xông khói mùi gây gây. Đầu tiên tôi cứ tưởng thịt bò sấy. Lão Ky bới xuống đáy thì thấy một cái cẳng tay khô nằm lăn lóc cạnh mấy nắm lá giang. Hắn rụt tay vội, nhăn mặt bảo thịt người. Không ai nói được một lời nào. Không phải là vì sợ, mà vì thấy ghê quá! Có thằng tự nhiên nổi khùng, đòi bắn chết mẹ hết. Nhưng cuối cùng thì chúng tôi vẫn cho ít gạo và chỉ đường cho họ.
Chuyện nữa còn nhớ ở đây là chuyện đá khỉ mẹ văng khỉ con. Có một buổi sáng khoảng 9h, đơn vị hành quân qua một cái trảng hẹp đầy nắng. Tự nhiên không biết vì lý do gì có một đàn khỉ vàng đuôi dài ở đâu chạy cắt ngang qua đội hình. Đàn khỉ khá đông, có khi đến gần trăm con. Chúng nó lao qua ngay sát dưới chân. Nhiều thằng hoảng, giật mình kêu ơ ơ. Một con nữa đang lao tới gần. Tiện tầm chân, tôi đá vung một phát như đá bóng sống. Con khỉ mẹ khá lớn kêu oécc, lăn mấy vòng, văng cả con khỉ con nó đang ôm dưới ức. Song nó không sợ, nhào trở lại ôm con rồi chạy biến.
Lính Tây Nam Lính Tây Nam - Trung Sĩ Lính Tây Nam